ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THỊ THƢƠNG
H×NH PH¹T Tï
TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THỊ THƢƠNG
H×NH PH¹T Tï
TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRỊNH QUỐC TOẢN
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Hoàng Thị Thƣơng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TÙ TRONG
LUẬT HÌNH SỰ ..........................................................................................6
1.1.
Khái niệm, đặc điểm, mục đích và căn cứ của hình phạt tù trong
luật Hình sự ..................................................................................................6
1.1.1.
Khái niệm hình phạt tù ..................................................................................6
1.1.2.
Đặc điểm hình phạt tù ...................................................................................8
1.1.3.
Mục đích của hình phạt tù ...........................................................................17
1.1.4.
Căn cứ quyết định hình phạt tù ...................................................................21
1.2.
Phân biệt hình phạt tù và một số hình phạt khác ..................................23
1.2.1.
Phân biệt hình phạt tù với hình phạt tử hình ...............................................25
1.2.2.
Phân biệt hình phạt tù với các loại hình phạt chính khác ............................26
1.3.
Khái quát quy định về hình phạt tù trong luật Hình sự Việt Nam
từ 1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 ..................27
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..........................................................................................38
Chƣơng 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TÙ TRONG BỘ LUẬT HÌNH
SỰ 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ................................................................... 39
2.1.
Các quy định về hình phạt tù trong Bộ luật Hình sự năm 1999 ...........39
2.1.1.
Hình phạt tù theo quy định thuộc Phần chung Bộ luật Hình sự năm
1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) ...............................................................39
2.1.2.
Hình phạt tù theo quy định thuộc phần các tội phạm Bộ luật Hình sự
năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) .......................................................55
2.2.
Thực tiễn áp dụng hình phạt tù của các Tòa án nhân dân từ 2011
đến 2015 ......................................................................................................58
2.3.
Những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong áp dụng hình
phạt tù .........................................................................................................72
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..........................................................................................77
Chƣơng 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN
CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TÙ TRONG BỘ LUẬT HÌNH
SỰ 2015 VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG ..................................78
3.1.
Yêu cầu tiếp tục hoàn thiện các quy định hình phạt tù trong Bộ
luật Hình sự ................................................................................................78
3.2.
Những quy định mới về hình phạt tù trong Bộ luật Hình sự năm
2015 và các kiến nghị tiếp tục hoàn thiện ...............................................82
3.2.1.
Những điểm mới về hình phạt tù trong Bộ luật Hình sự năm 2015 ............82
3.2.2.
Kiến nghị tiếp tục hoàn thiện các quy định về hình phạt tù trong Bộ
luật Hình sự năm 2015 ................................................................................92
3.3.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt tù trong
Bộ luật Hình sự ..........................................................................................98
KẾT LUẬN ............................................................................................................101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................103
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1. Các hình phạt trong phần các tội phạm Bộ luật Hình sự
năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 (tính theo điều luật)
55
Bảng 2.2. Phân loại tội phạm theo Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ
sung năm 2009 (tính theo cấu thành tội phạm
56
Bảng 2.3. Thực trạng áp dụng hình phạt tù
59
Bảng 2.4. Số liệu về số bị cáo và mức hình phạt Toàn án đã quyết định
60
Bảng 2.5. Tỉ lệ hình phạt tù có thời hạn và tù chung thân
61
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với xu hƣớng toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ hiện nay đòi
hỏi các quốc gia trên thế giới trong quá trình hội nhập phải không ngừng cải thiện
về mọi mặt, trong đó lĩnh vực lập pháp giữ một vai trò rất quan trọng, vì pháp luật
là công cụ để quản lý xã hội, là một trong những phƣơng tiện quan trọng để bảo
đảm sự phát triển bền vững của xã hội theo đúng quy luật. Đặc biệt là ngành luật
Hình sự, một ngành luật giữ vị trí trung tâm trong việc bảo vệ trật tự, an toàn xã hội.
Là một ngành luật có tác động đến các quyền và lợi ích của con ngƣời trong xã hội
thông qua một hệ thống hình phạt đa dạng với mức độ nghiêm khắc khác nhau.
Hình phạt là một biện pháp cƣỡng chế của Nhà nƣớc, đƣợc quy định trong
luật Hình sự, do Tòa án áp dụng đối với ngƣời phạm tội theo thủ tục luật định để
tƣớc hoặc hạn chế một số quyền và lợi ích đối với ngƣời bị kết án.
Hình phạt có mục đích giáo dục, cải tạo ngƣời bị kết án trở thành ngƣời có
ích cho xã hội, có ý thức tuân theo quy tắc cộng sống xã hội. Phòng ngừa họ phạm
tội mới và phòng ngừa những ngƣời khác phạm tội. Hình phạt còn giáo dục mọi
ngƣời có ý thức tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Trong lịch sử pháp luật Việt Nam và các hệ thống pháp luật của các nƣớc
trên thế giới, hình phạt đã thực sự là một công cụ có hiệu quả trong cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm, là phƣơng thức để bảo vệ lợi ích của xã hội, của chế độ.
Về hình phạt và hệ thống hình phạt đã có nhiều công trình khoa học nghiên
cứu chuyên sâu cũng nhƣ toàn diện ở nhiều cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, chƣa có
nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu, cụ thể và toàn diện về hình phạt tù.
Trong khoa học Luật Hình sự về hình phạt tù vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến
khác nhau về nhƣ thế nào để hình phạt tù là một chế tài khả thi, hiệu quả cũng nhƣ
mục đích của việc quy định hình phạt tù, các yếu tố đảm bảo hiệu quả hình phạt tù,
mà việc nghiên cứu vấn đề này không phải dễ dàng thực hiện.
Trong quá trình hội nhập và phát triền nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng
1
xã hội chủ nghĩa, giao lƣu và hợp tác quốc tế đòi hỏi các quy định pháp luật phải cụ
thể, rõ ràng và chi tiết để điều chỉnh hết các hành vi phát sinh trong xã hội. Hoạt động
áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng chế tài hình phạt tù nói riêng trong giai đoạn
hiện nay còn tồn tại nhiều vấn đề cần đƣợc nghiên cứu để làm rõ mục đích, tính chất,
tác dụng và hiệu quả của hình phạt tù, quy định khung hình phạt tù tƣơng xứng với
từng tội phạm cụ thể, điều kiện áp dụng hình phạt tù từ đó đƣa ra những kiến nghị có
cơ sở về khoa học và thực tiễn để nâng cao hiệu quả của việc áp dụng hình phạt tù.
Ngoài ra việc hạn chế áp dụng hình phạt tù để thay thế các biện pháp không
tƣớc quyền tự do trong hệ thống chế tài đòi hỏi cần phải có những định hƣớng nhất
định, để phù hợp với xu hƣớng phát triển chung của thế giới.
Nghiên cứu về hình phạt tù gắn liền với nhu cầu hoàn thiện PLHS, pháp luật Tố
tụng Hình sự trong cải cách tƣ pháp, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tƣ pháp theo
tinh thần của các nghị quyết về các quan điểm chỉ đạo rất có ý nghĩa, làm rõ hơn chính
sách Hình sự của Nhà nƣớc, góp phần đấu tranh có hiệu quả phòng chống tội phạm,
cũng cố chiến lƣợc xây dựng để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên nói lên tính cấp thiết của việc nghiên cứu
đề tài: “Hình phạt tù trong luật Hình sự Việt Nam” và cũng chính là lý do tác giả
chọn đề tài này là luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học, sách báo pháp lý chuyên ngành
trong nƣớc nghiên cứu ở các bình diện và mức độ khác nhau về đề tài hình phạt và hệ
thống hình phạt nhƣ: “Hình phạt trong luật Hình sự Việt Nam” của Viện nghiên cứu
khoa học pháp lý Bộ Tƣ pháp, Nhà xuất bản chính trị quốc gia 1995; Luận án tiến sĩ
Luật học: “Các hình phạt chính trong luật Hình sự Việt Nam” của Nguyễn Sơn; Luận
án tiến sĩ Luật học: “Các hình phạt bổ sung trong luật Hình sự Việt Nam” của Trịnh
Quốc Toản; Nghiên cứu hình phạt trong Luật hình sự Việt nam dƣới góc độ bảo vệ
quyền con ngƣời của Trịnh Quốc Toản, NXB chính trị quốc gia 2015. Một số luận
văn thạc sĩ Luật học viết về đề tài hình phạt nhƣ: “Hệ thống hình phạt trong luật Hình
sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” Đặng Đức Thạo; “Hệ thống hình phạt
2
trong luật Hình sự Việt Nam” của Nguyễn Văn Vĩnh; “Các hình phạt chính trong
luật Hình sự Việt Nam” của Lê Văn Hƣờng; Luận văn thạc sĩ “Hình phạt tù và thi
hành hình phạt tù- những vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành” của Trần Thị Thu
Hằng; Luận văn thạc sĩ “Hình phạt tù chung thân trong luật Hình sự Việt Nam” của
Nguyễn Thị Hải Yến. Ngoài ra còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên
ngành về hệ thống hình phạt trong Bộ luật Hình sự.
Nhìn chung, các công trình khoa học nêu trên đã nghiên cứu có tính chất
tổng thể về những vấn đề chung của hệ thống hình phạt hoặc nghiên cứu một cách
cụ thể một hình phạt cụ thể nào đó. Nhƣng cho đến nay chƣa có nhiều đề tài nghiên
cứu một cách toàn diện, chuyên sâu và có hệ thống về mặt lý luận cũng nhƣ thực
tiễn về áp dụng hình phạt tù để từ đó đề ra những phƣơng hƣớng, kiến nghị lập pháp
về vấn đề này cho phù hợp với thực trạng, đặc điểm cũng nhƣ điều kiện tại Việt
Nam. Vậy việc nghiên cứu đề tài về hình phạt tù sẽ có ý nghĩa về lý luận và thực
tiễn về hoàn thiện pháp luật hình sự (PLHS) ở Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của hình
phạt tù theo PLHS, tố tụng Hình sự, từ đó làm rõ những bất cập, hạn chế để trên cơ sở đó
đề xuất những giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng hình
phạt tù nhằm đảm bảo pháp lý, cải tạo giáo dục ngƣời phạm tội, răn đe, phòng ngừa tội
phạm, đảm bảo thực hiện đúng mục đích của việc áp dụng hình phạt tù.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục tiêu nói trên, tác giả đã đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:
Bằng cách tiếp cận tổng thể từ cái chung đến cái cụ thể, đi từ lý luận liên hệ
với thực tiễn và đánh giá thực tiễn xét xử.
Tác giả làm rõ khái niệm, mục đích của hình phạt tù, vai trò và ý nghĩa, bản
chất pháp lý của hình phạt tù.
So sánh và đánh giá vai trò của hình phạt tù trong hệ thống hình phạt của luật
Hình sự Việt Nam và pháp luật của một số nƣớc trên thế giới.
3
Đánh giá thực trạng áp dụng hình phạt tù nhằm làm rõ những ƣu điểm, hạn
chế và những nguyên nhân của thực trạng đó.
Trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về hình phạt tù, luận văn đề
xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt
tù trong hệ thống hình phạt của luật Hình sự Việt Nam.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn của
hình phạt tù theo PLHS, tố tụng Hình sự Việt Nam, cụ thể: Khái niệm, mục đích,
bản chất của hình phạt tù…
So sánh hình phạt tù với các hình phạt khác trong hệ thống hình phạt của luật
Hình sự Việt Nam và pháp luật của một số nƣớc trên thế giới.
Nêu ra những bất cập, hạn chế trong việc áp dụng hình phạt tù ở Việt Nam
hiện nay. Trên cơ sở nghiên cứu những tiến bộ trong việc áp dụng hình phạt tù của
một số nƣớc trên thế giới, qua đó nêu lên những quan điểm, yêu cầu và các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc việc áp dụng hình phạt tù.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt tù theo
PLHS Việt Nam hiện hành. Đồng thời luận văn cũng có đề cập đến một số quy định
trong luật tố tụng Hình sự nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết nhiệm vụ và đối tƣợng
nghiên cứu. Luận văn thạc sĩ Luật học này tác giả sẽ nghiên cứu về hình phạt tù có
thời hạn và hình phạt tù chung thân trong thực tiễn áp dụng.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục tiêu trên đây, các vấn đề khoa học đƣợc tiếp cận trên cơ sở
phƣơng pháp duy vật biện chứng, phƣơng pháp duy vật lịch sử, quan điểm chủ
nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc pháp luật, các quan điểm,
chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta về đấu tranh phòng chống tội phạm. Các thành
tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý nhƣ: Lý luận về Nhà nƣớc và pháp luật,
luật Hình sự, Tố tụng Hình sự. Những quan điểm khoa học trong các công trình
nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên các tạp chí của các nhà khoa
học luật Việt Nam và nƣớc ngoài.
4
Luận văn sử dụng một số phƣơng pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa
học từng vấn đề tƣơng ứng, đó là các phƣơng pháp: Lịch sử, so sánh, phân tích, tổ
hợp, thống kê, lý luận kết hợp với thực tiễn.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu đề cập một cách tƣơng đối có hệ
thống và toàn diện về những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt tù ở Việt Nam ở
cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học với những đóng góp về mặt khoa học đã nêu trên.
Về mặt thực tiễn: Luận văn rút ra một số kết luận mang tính khoa học góp
phần xác định đúng đắn thực tiễn áp dụng hình phạt tù. Cụ thể, luận văn hoàn thiện
là tài liệu tham khảo có giá trị trong việc xây dựng và hoàn thiện PLHS, tố tụng
Hình sự, góp phần khắc phục những khiếm khuyết trong thực tiễn áp dụng hình phạt
tù, nhằm nâng cao hiệu quả của chúng, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật,
đảm bảo quyền con ngƣời, quyền công dân.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề chung về hình phạt tù trong luật hình sự.
Chương 2: Các quy định về hình phạt tù trong Bộ luật Hình sự 1999 và thực
tiễn áp dụng.
Chương 3: Yêu cầu và những giải pháp hoàn thiện các quy định về hình phạt
tù trong Bộ luật Hình sự 2015 và nâng cao hiệu quả áp dụng.
5
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TÙ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích và căn cứ của hình phạt tù trong
luật Hình sự
1.1.1. Khái niệm hình phạt tù
Hệ thống pháp luật là một chỉnh thể thống nhất cấu thành bởi các ngành luật
khác nhau. Gắn liền với những ngành luật đó là những trách nhiệm pháp lý khác nhau
và có những chế tài khác nhau. Gắn liền với luật Hình sự là biện pháp trách nhiệm
Hình sự và chế tài, cụ thể ở đây là các hình phạt. Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế đặc
thù của ngành luật Hình sự đƣợc áp dụng cụ thể với ngƣời thực hiện tội phạm. “Trong
tất cả các biện pháp đấu tranh phòng và chống tội phạm thì hình phạt là biện pháp
nghiêm khắc nhất, đƣợc áp dụng phổ biến nhất và có lịch sử lâu đời nhất” [59, tr. 20].
“Trong Khoa học luật Hình sự Liên xô trƣớc đây và nga ngày nay có các quan điểm
coi hình phạt hoặc là biện pháp cƣỡng chế của Nhà nƣớc do Tòa án nhân danh Nhà
nƣớc áp dụng đối với ngƣời có lỗi trong việc thực hiện tội phạm nhằm mục đích
ngăn ngừa chung và ngăn ngừa riêng (Natasev, A.E, Xtruchkôv, H.A, …); Hoặc là
sự trừng trị, tức là gây cho ngƣời có tội những sự đau đớn và những sự tƣớc đoạt do
luật định mà ngƣời đó phải chịu (Ddemeentrev X.I); Hoặc là một trong các biện
pháp đấu tranh chống tội phạm mà nội dung của nó là kết hợp thuyết phục với
cƣỡng chế(Karpetx)” [6, tr. 674].
Trong PLHS nƣớc ta từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trƣớc năm
1999 thì khái niệm hình hình phạt chƣa có một văn bản nào ghi nhận chính thức,
khái niệm hình phạt chỉ đƣợc nghiên cứu nhƣ là một khái niệm có tính chất khoa
học trên các tạp chí khoa học, tạp chí chuyên ngành hoặc trong các giáo trình của
các trƣờng đại học. Các nhà nghiên cứu luật Hình sự ở nƣớc ta cũng đƣa ra một số
quan niệm về hình phạt có tính thống nhất về cơ bản, nhƣng cũng có một số điểm
khác nhau nhất định, chẳng hạn nhƣ một nhà luật học cho rằng:
6
Hình phạt là biện pháp nhà nƣớc nghiêm khắc nhất đƣợc quy định
trong luật Hình sự, do Tòa án áp dụng cho chính ngƣời đã thực hiện tội
phạm, nhằm trừng trị và giáo dục họ, góp phần vào việc đấu tranh và
phòng chống tội phạm, bảo vệ chế độ và trật tự xã hội cũng nhƣ các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân [16, tr. 29].
Còn có nhà luật học việt nam khác có quan điểm khác:
Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất do luật quy
định đƣợc Tòa án nhân dân nhân danh Nhà nƣớc quyết định trong bản án
đối với ngƣời có lỗi trong việc thực hiện tội phạm và đƣợc thể hiện ở
việc tƣớc đoạt hoặc hạn chế các quyền và lợi ích do pháp luật quy định
đối với ngƣời bị kết án [56, tr.110].
Một nhà luật học Việt Nam lại định nghĩa:
Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà
nƣớc đƣợc quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa
án để tƣớc bỏ hay hạn chế quyền, tự do của ngƣời bị kết án theo các quy
định của pháp luật Hình sự [4, tr.11-12].
Năm 1999 khi Bộ luật Hình sự đƣợc ban hành thì khái niệm hình phạt mới
lần đầu tiên đƣợc quy định một cách rõ ràng, cụ thể. Đây là lần đầu tiên trong lịch
sử lập pháp Việt Nam ghi nhận khái niệm hình phạt tại một điều luật cụ thể trong
Bộ luật Hình sự. Việc Bộ luật Hình sự năm 1999 dành một điều quy định khái niệm
về hình phạt là một bƣớc tiến trong công tác lập pháp. Bộ luật Hình sự năm 1999
quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước
nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy
định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án quyết định” [26, Điều 26]. Khái niệm này
là sự tiếp thu những kết quả nghiên cứu về hình phạt trong trong lý luận luật Hình
sự nƣớc ta. Hình phạt cũng là một dấu hiệu để phân biệt hành vi phạm tội với những
hành vi không phải là tội phạm.
Theo luật Hình sự Việt Nam, hệ thống hình phạt bao gồm: hình phạt chính
và hình phạt bổ sung. Các hình phạt chính gồm có: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo
7
không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình; các hình phạt bổ
sung gồm có: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một công việc nhất
định, cấm cƣ trú, tƣớc một số quyền công dân, thu tịch tài sản, phạt tiền, trục xuất
(phạt tiền, trục xuất khi không áp dụng là hình phạt chính). Danh mục các hình phạt
đƣợc quy định tại điều 28 Bộ luật Hình sự năm 1999 đƣợc sắp xếp theo thứ tự từ
nhẹ nhất là cảnh cáo đến nặng nhất là tử hình.
Đặc điểm của hệ thống hình phạt trong Bộ luật Hình sự nƣớc ta thể hiện tính
đa dạng, thể hiện đƣợc các nguyên tắc của việc quyết định hình phạt trong nhiều
trƣờng hợp khác nhau. “Hệ thống hình phạt thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của Nhà
nƣớc ta không phải nhằm để trả thù, làm nhục hình hay để chà đạp nhân phẩm của
con ngƣời” [14, tr.8].
Hình phạt tù nằm trong hình phạt chính bao gồm hình phạt tù có thời hạn và
tù chung thân và cũng đƣợc sắp xếp theo thứ tự từ nhẹ đến nặng, có mức độ nghiêm
khắc phù hợp với các thang bậc mức độ nghiêm trọng, nguy hiểm khác nhau của
các loại tội phạm. Hình phạt tù đƣợc quy định nhƣ vậy nhằm phản ánh sự đánh giá
chính thức của Nhà nƣớc về mức độ nặng nhẹ của của từng loại hình phạt, ngoài ra
nó còn thể hiện mục đích của hình phạt là trừng trị, giáo dục, cải tạo ngƣời phạm
tội, đồng thời đáp ứng đƣợc yêu cầu phòng ngừa, giáo dục chung ngƣời phạm tội.
Có thể khái quát khái niệm về hình phạt tù nhƣ sau: Hình phạt tù là hình
phạt tước quyền tự do của người bị kết án, buộc họ phải cách ly cuộc sống bình
thường của xã hội, sống trong môi trường riêng biệt có sự kiểm soát chặt chẽ của
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Hình phạt tù bao gồm hình phạt tù có thời hạn
và tù chung thân.
1.1.2. Đặc điểm hình phạt tù
1.1.2.1 Đặc điểm chung
Với tƣ cách là một loại hình phạt trong hệ thống hình phạt, hình phạt tù có
đầy đủ những đặc điểm chung của hình phạt, cụ thể là:
Hình phạt tù là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước.
Cƣỡng chế là thuộc tính của pháp luật nói chung, V.I.Lêin cũng đã từng nói
8
“Pháp luật không có gì hết, nếu thiếu bộ máy bảo đảm cưỡng chế sự tuân theo các
quy định của pháp luật” [49, tr.9]. Trong đấu tranh phòng chống và phòng ngừa tội
phạm thì hình phạt tù là biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất, đƣợc áp dụng phổ
biến và có lịch sử lâu đời. “Hình phạt với tính chất là trách nhiệm hình sự được
Nhà nước sử dụng như là một công cụ, phương tiện quan trọng để trừng trị, giáo
dục, cải tạo người phạm tội” [63, tr.233]. Tính cƣỡng chế của hình phạt tù là dùng
quyền lực Nhà nƣớc bắt buộc mọi ngƣời phải tuân theo, hình phạt tù đƣợc bảo đảm
bằng sức mạnh của quyền lực Nhà nƣớc. Tính nghiêm khắc của hình phạt tù đƣợc
thể hiện ở việc hạn chế những quyền tự do của ngƣời bị kết án, ngoài ra khi bị áp
dụng hình phạt tù đều để lại hậu quả pháp lý nhất định cho ngƣời bị kết án đó là án
tích. Sau khi chấp hành xong hình phạt theo bản án, ngƣời bị kết án phải mang án
tích trong một thời gian nhất định theo quy định của pháp luật, trong khoảng thời
gian này nếu ngƣời bị kết án phạm tội mới có thể bị coi là tái phạm hoặc tái phạm
nguy hiểm và coi đây là những tình tiết tăng nặng trách nhiệm Hình sự áp dụng đối
với ngƣời phạm tội khi Tòa án quyết định hình phạt. “Tình tiết có án tích sẽ là đặc
điểm về nhân thân bất lợi cho người có đặc điểm đó trong nhiều hoạt động của đời
sống xã hội cũng như khi có hành vi phạm pháp hay phạm tội” [16, tr.27]. Với tƣ
cách là một hình phạt Hình sự, tính nghiêm khắc của hình phạt tù còn thể hiện ngoài
hình phạt chính này, ngƣời phạm tội có thể bị áp dụng các hình phạt bổ sung nhƣ
cấm cƣ trú, cấm làm những nghề, công việc hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ nhất
định… Đây là biện pháp hỗ trợ cho hình phạt tù nhằm xử lý một cách triệt để đối
với ngƣời phạm tội trong một số trƣờng hợp để đạt đƣợc mục đích tối đa của hình
phạt, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật và tính phải chịu hình phạt khi thực
hiện hành vi bị coi là tội phạm, từ đó để răn đe, giáo dục công dân có ý thức chấp
hành pháp luật.
Mức độ cƣỡng chế cần thiết và hợp pháp của hình phạt tù trƣớc hết đƣợc xác
định thông qua mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm dƣới những
điều kiện xã hội đã cho, trong mức độ của tính nguy hiểm chủ quan của hành vi của
ngƣời phạm tội, sự phủ định các nghĩa vụ cơ bản của xã hội đƣợc khách quan hóa.
9
Hình phạt tù được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án áp dụng.
Nguyên tắc cơ bản của luật hình sự đã tồn tại từ lâu, đó là nguyên
tắc không có tội phạm nếu không có luật định và nguyên tắc không có
hình phạt nếu không có luật định có giá trị tuyệt đối, đƣợc áp dụng đối
với tất cả các loại tội phạm và hình phạt, không có ngoại lệ [45, tr.29].
Xuất phát từ nguyên tắc nêu trên, Việt Nam không cho phép áp dụng hiệu lực
hồi tố của đạo luật hình sự.
Nhƣ chúng ta biết, tội phạm và hình phạt là những chế định của
pháp luật Hình sự thuộc kiến trúc thƣợng tầng, phản ánh các quy luật phát
triển khách quan của xã hội [45, tr.30-31]. Tuy thế, Các quy luật khách
quan và các nhu cầu xã hội không phải ảnh hƣởng trực tiếp đến nội dung
của pháp luật mà phải thông qua ý thức của nhà làm luật, ý thức pháp
luật của nhà làm luật lại chịu ảnh hƣởng của các hình thái tƣ tƣởng khác
nhau… giữa nhu cầu xã hội và sự phản ánh nhu cầu trong pháp luật có
một yếu tố trung gian là ý thức xã hội của thời đại [60, tr.38].
Trƣớc khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985, Luật Hình sự của nƣớc ta
chƣa đầy đủ, nên nhiều hành vi có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cần
phải xử lý về Hình sự nhƣng chƣa đƣợc quy định trong các văn bản PLHS một cách
kịp thời. Nên Nhà nƣớc đã cho phép Tòa án áp dụng pháp luật tƣơng tự để xử lý
những ngƣời thực hiện hành vi ấy. Ví dụ nhƣ pháp lệnh ngày 21/10/1967 về trừng
trị các tội phản cách mạng, pháp lệnh ngày 21/10/1970 về trừng trị các tội xâm
phạm về tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản riêng của công dân. Các pháp lệnh này
có nhiều nhƣợc điểm trong quá trình áp dụng thi hành, quy định nhƣ vậy sẽ dẫn đến
sự tùy tiện trong công tác điều tra, truy tố, xét xử. Chính vì vậy, sau các lần pháp
điển hóa PLHS nƣớc ta không cho phép áp dụng hình phạt đối với những hành vi
không đƣợc quy định trong Bộ luật Hình sự là tội phạm và “nếu hình phạt ấy cũng
không đƣợc quy định trong hệ thống hình phạt hiện hành và trong chế tài của điều
luật cụ thể” [58, tr 10]. Quy định này đã thể hiện rõ quan điểm chỉ bị coi là tội phạm
và bị xử lý Hình sự khi Bộ luật Hình sự có quy định, không áp dụng pháp luật
10
tƣơng tự trong luật Hình sự. Đây là một quy định thể hiện rõ nguyên tắc pháp chế,
bảo đảm cho PLHS đƣợc áp dụng một cách thống nhất.
Chỉ có Bộ luật Hình sự mới đƣợc quy định hệ thống hình phạt Hình sự. Nội
dung, phạm vi, điều kiện cho phép áp dụng từng loại hình phạt cũng nhƣ khung
hình phạt của từng tội phạm cụ thể. Hiện nay chỉ có duy nhất Bộ luật Hình sự năm
1999 (đƣợc sửa đổi bổ sung năm 2009) là quy định các loại tội phạm và hình phạt.
Hình phạt trong Bộ luật Hình sự nƣớc ta đƣợc quy định ở phần chung và
phần các tội phạm. Phần chung quy định những vấn đề có tính nguyên tắc liên
quan đến hình phạt tù có thời hạn nhƣ khái niệm, căn cứ quyết định hình phạt,
quyết định hình phạt trong trƣờng hợp phạm nhiều tội, tổng hợp hình phạt của
nhiều bản án. Phần các tội phạm quy định loại hình phạt và mức hình phạt cho
từng loại tội phạm cụ thể. Hình phạt tù đƣợc áp dụng hầu hết ở các chƣơng tội
phạm cụ thể trong Bộ luật Hình sự.
Nguyên tắc pháp chế không chỉ ở khía cạnh quy định hình phạt, mà còn thể
hiện ở hiệu lực thi hành của hình phạt trong bộ máy nhà nƣớc, chỉ có Tòa án là cơ
quan duy nhất mới có quyền nhân danh nhà nƣớc quyết định một ngƣời có phải chịu
hình phạt hay không và nếu phải chịu thì loại và mức hình phạt cụ thể đƣợc áp dụng
nhƣ thế nào. Nghiên cứu cho thấy, trong các lĩnh vực không phải hình sự không bắt
buộc Tòa án phải giải quyết, các đƣơng sự có thể lựa chọn cách giải quyết khác,
không thông qua Tòa án.
Trong lĩnh vực Hình sự, Việc giải quyết vụ án phải thông qua các giai đoạn
tố tụng Hình sự đƣợc quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam.
Toàn bộ quá trình tố tụng đều do các cơ quan Nhà nƣớc tƣơng ứng có thẩm quyền
thực hiện. Ở giai đoạn điều tra là do cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động điều
tra dƣới sự giám sát của Viện kiểm sát; Ở giai đoạn truy tố do Viện kiểm sát thực
hiện quyền công tố thay mặt Nhà nƣớc truy tố và buộc tội bị can bị cáo trƣớc Toà
án. Chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền xét xử các vụ án Hình sự, dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh tế, lao động, hành chính…(điều 1 luật tổ chức Tòa án năm 2002).
Hiến pháp năm 2013 quy định:
11
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp. Tòa án nhân dân gồm Tòa án
nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định. Tòa án nhân dân có
nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân [28, Điều 102].
Chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất nhân danh Nhà nƣớc quyết định một
ngƣời có tội hay không có tội, phải chịu hình phạt hay không và nếu phải chịu thì
loại và mức hình phạt đƣợc áp dụng nhƣ thế nào (điều 26 Bộ luật Hình sự). Hình
phạt phải do Tòa án quyết định bằng một bản án trong một phiên tòa xét xử công
khai theo trình tự, thủ tục do luật tố tụng Hình sự quy định. Tòa án có toàn quyền
xét xử và quyết định hình phạt độc lập mà không phải lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan,
tổ chức, cá nhân nào. “Tòa án là cơ quan nhân danh Nhà nƣớc thông qua việc xét xử
để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm tôn trọng, tự do tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của công
dân… góp phần giáo dục công dân tôn trọng và chấp hành pháp luật trong cuộc đấu
tranh và phòng ngừa tội phạm” [14, tr.18]. Việc sửa đổi, thay thế hay loại bỏ hình
phạt tù trong Bộ luật Hình sự chỉ thuộc thẩm quyền của Quốc hội- Đây là cơ quan
quyền lực Nhà nƣớc cao nhất. Quy định này thể hiện rõ nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa ở nƣớc ta.
Hình phạt tù chỉ có thể áp dụng đối với người phạm tội.
Pháp luật Hình sự là bộ phận kiến trúc thƣợng tầng dƣợc quy định bởi cơ sở
hạ tầng. Quy định hành vi nào là tội phạm và xử lý bằng loại hình phạt nào là
thuộc về chính sách Hình sự của Nhà nƣớc, song chính sách đó lại:
Hoàn toàn không phải là sản phẩm của ý muốn chủ quan mà nó
đƣợc quy định bởi nhu cầu xã hội đối với việc điều chỉnh và bảo vệ các
quan hệ xã hội [48, tr.91]. Hình phạt là một hiện thƣợng xã hội, sự hình
thành và phát triển của nó gắn với từng giai đoạn phát triển nhất định của
lịch sử xã hội loài ngƣời, nên nó trƣớc hết mang bản chất xã hội [45, tr.25].
12
Hình phạt thể hiện bản chất xã hội chủ yếu thông qua các mối liên hệ của
nó với xã hội, với các quá trình, các hiện tƣợng xã hội khác trong đó quan trọng
nhất là hiện tƣợng tội phạm. Cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của hình phạt đó chính là
sự tồn tại của tội phạm, không có tội phạm thì không thể có hình phạt. Hình phạt
là hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội. Quan niệm nhƣ thế nào về tội phạm thì
sẽ có một phạm vi tác động cƣỡng chế Hình sự tƣơng ứng, sẽ có quan niệm nhƣ
thế ấy về bản chất và mục đích của hình phạt và tƣơng ứng nhƣ thế về việc áp
dụng và thi hành hình phạt trong thực tiễn. Một số nhà luật học cũng đồng quan
điểm và có nhận xét:
Với sự ra đời của Bộ luật Hình sự… pháp luật Hình sự của ta
không còn những điều luật chỉ quy định dấu hiệu của tội phạm mà không
ghi nhận rõ chế tài… Từ nay, các dấu hiệu tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi, tính xâm phạm pháp luật Hình sự gắn liền với dấu hiệu
hình phạt của tội phạm. Và hình phạt cũng là dấu hiệu quan trọng để
phân biệt tội phạm với các hành vi không phải là tội phạm [52, tr.141].
Một số nhà luật học khác cũng coi “tính phải chịu hình phạt là một đặc điểm
của tội phạm” [17, tr.18] mặc dù nhà luật học này không cho rằng nó là một đặc
điểm ngang hàng và độc lập với đặc điểm nội tại và đặc điểm pháp lý của hành vi
phạm tội, bởi vì tính phải chịu hình phạt chỉ là hệ quả của các đặc điểm trên của
hành vi phạm tội.
Khác với Luật Hình sự của một số nƣớc trên thế giới (nhƣ Trung Quốc, Hà
Lan, Mỹ, Nhật…) có quy định về trách nhiệm Hình sự của pháp nhân, theo Luật
Hình sự Việt Nam thì chỉ cá nhân mới phải chịu trách nhiệm Hình sự. Đây cũng là
một trong những nguyên tắc cơ bản của luật Hình sự nƣớc ta. Nhƣ vậy, “hình phạt
chỉ có thể áp dụng đối với ngƣời đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi
là tội phạm, không thể áp dụng hình phạt đối với các thành viên trong gia đình hay
ngƣời thân thích của họ ngay cả khi họ tự nguyện chịu hình phạt thay” [58, tr.12].
Xuất phát từ nguyên tắc một ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là
tội phạm phải chịu hình phạt và hình phạt chỉ áp dụng đối với ngƣời bị coi là tội
13
phạm. Có thể thấy nguyên tắc trách nhiệm hình sự của cá nhân “là một thành tựu to
lớn của tiến trình phát triển văn minh nhân loại, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh vì
con người chống lại các giáo lý thần quyền phản con người” [61, tr.132]. Tòa án
không đƣợc áp dụng hình phạt đối với pháp nhân hoặc tổ chức vì Luật Hình sự Việt
Nam chƣa thừa nhận pháp nhân hoặc tổ chức là chủ thể của tội phạm
Nếu pháp nhân là những thực thể có khả năng phạm tội thì có lý
nào các pháp nhân lại không bị chịu trách nhiệm hình sự của Nhà nƣớc
khi nó tham gia vào tội phạm. Chế tài hình sự buộc phải áp dụng trực
tiếp và duy nhất đối với chính bản thân chủ thể phạm tội, tức là đòi hỏi
việc trừng trị nhằm trực tiếp vào những tổ chức, pháp nhân trong khi các
thực thể này phạm tội [62, tr.16].
Hình phạt tù chỉ có thể áp dụng đối với ngƣời có hành vi phạm tội và chỉ có
nhƣ vậy mới thực hiện đƣợc mục đích của hình phạt là nhằm mục đích cải tạo ngƣời
phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và các
quy tắc sống của xã hội, ngăn ngừa, giáo dục họ phạm tội mới.
1.1.2.2. Đặc điểm riêng
Để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và đấu tranh phòng chống tội phạm của Bộ
luật Hình sự. Bên cạnh những đặc điểm chung, hình phạt tù có những đặc điểm
riêng vốn có của nó, cụ thể:
a). Hình phạt tù có thời hạn
Mức độ nghiêm khắc của hình phạt tù có thời hạn trong hệ thống hình phạt
chỉ đứng sau hình phạt tù chung thân và tử hình
Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt tƣớc đoạt tự do, cách ly ngƣời bị kết
án ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định. “Ngƣời bị kết án phải cải
tạo trong trại giam, bị kiểm soát chặt chẽ và phải tuân thủ các quy định của pháp
luật về lao động, học tập, chế độ sinh hoạt hàng ngày,…” [58, tr.22]. Tù có thời
hạn đƣợc áp dụng với các loại tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc
chỉ đứng sau hình phạt tù chung thân và hình phạt tử hình. Khi bị Tòa án áp dụng
14
- Xem thêm -