Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉ...

Tài liệu Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng ngãi

.PDF
86
13
148

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN HOÀNG HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - năm 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN HOÀNG HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số: 838.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN HIỂN HÀ NỘI - năm 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu trong Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của luận văn chưa từng được công bố trong các công trình khác. Tác giả luận văn Nguyễn Văn Hoàng MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ QUY ĐỊNH HÌNH PHẠT HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .......................................................... 8 1.1. Những vấn đề lí luận về hình phạt cải tạo không giam giữ ...................... 8 1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ từ năm 1945 đến năm 2015 ........................................................... 21 1.3. Hình phạt cải tạo không giam giữ theo quy định trong bộ luật hình sự một số nước trên thế giới .............................................................................. 26 CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 VỀ HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI........................................................................ 29 2.1. Những quy định pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt cải tạo không giam giữ theo Bộ luật hình sự 2015 và thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hiện hành ..................................................... 29 2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ tại tỉnh Quảng Ngãi ............................................................................................................. 38 CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ ................................................ Error! Bookmark not defined.2 3.1. Các giải pháp về tiếp tục hoàn thiện các quy định của bộ luật hình sự Việt Nam về hình phạt cải tạo không giam giữ ........................................... 622 3.2. Các giải pháp về kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp ..................................................................................... 644 3.3. Các giải pháp khác ................................................................................ 67 KẾT LUẬN ............................................................................................... 722 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCT : Bộ Chính trị BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CTKGG : Cải tạo không giam giữ ĐCS : Đảng cộng sản ĐTV : Điều tra viên HĐXX : Hội đồng xét xử KSĐT : Kiểm sát điều tra KSV : Kiểm sát viên PL : Pháp luật TANDTC : Toà án nhân dân tối cao THHP : Thi hành hình phạt UBND : Ủy ban nhân dân VAHS : Vụ án hình sự VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa XXPT : Xét xử phúc thẩm XXST : Xét xử sơ thẩm DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Kết quả thụ lý xét xử của Tòa án nhân dân nhân hai cấp tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2015-2019 ................................................................. 40 Bảng 2.2. Tình hình áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ tại tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn 2015-2019 ........................................................ 41 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật hình sự giữ vị trí quan trọng, là công cụ sắc bén để nhà nước trừng trị những hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Nói đến Bộ luật hình sự là người ta nói đến chế tài của luật (Hình phạt), một loại chế tài đặc biệt trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế của nhà nước. Hình phạt cải tạo không giam giữ là một trong số bảy hình phạt chính của pháp luật hình sự Việt Nam. Trong hệ thống hình phạt, hình phạt CTKGG có lịch sử lâu đời và có vị trí rất quan trọng. Các quy định về hình phạt CTKGG được quy định là hình phạt chính trong tất cả BLHS Việt Nam, từ BLHS 1985 cho đến nay hình phạt này vẫn tiếp tiếp tục phát triển và hoàn thiện ở BLHS 2015. Thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhất là thực hiện Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 [10] và Chiến lược cải cách tư pháp mới trong Tòa án nhân dân giai đoạn 2021-2030 [52] đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ của cải cách tư pháp trong lĩnh vực hình sự là đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt CTKGG là việc làm cần thiết phù hợp với sự phát triển của đất nước cũng như phù hợp với yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Cùng với các loại hình phạt trong pháp luật hình sự, hình phạt CTKGG tham gia không chỉ vào việc trừng trị người phạm tội mà còn có ý nghĩa to lớn trong vấn đề cải tạo người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa tội phạm và giáo dục những người khác tôn trọng pháp luật. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế xã hội nước ta bước vào giai đoạn hội nhập sâu và rộng vào 1 nền kinh tế thế giới, đang có những chuyển biến mạnh mẽ bởi vậy mà BLHS 2015 đã có những quy định rất tiến bộ về hình phạt CTKGG. Tuy nhiên, do BLHS 2015 mới bắt đầu có hiệu lực áp dụng kể từ ngày 01.01.2018, cho đến nay việc áp dụng hình phạt này còn chưa phát huy được hết những vai trò và hiệu quả của nó đặc biệt việc áp dụng hình phạt CTKGG trong thực tiễn xét xử các VAHS là rất ít, không đáng kể so với các loại hình phạt khác. Bên cạnh đó sự hạn chế còn tồn tại trong các quy định của pháp luật, còn có những điểm vướng mắc, mâu thuẫn từ trong chính quan niệm, sự không thống nhất, ít được quan tâm hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền là những nguyên nhân làm cho hình phạt CTKGG chưa thật sự phát huy được vai trò của nó trong hệ thống hình phạt hiện nay. Quảng Ngãi là một thành phố lớn, tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, hàng năm số lượng các vụ VAHS được các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện và đưa ra xét xử ngày càng tăng về số lượng nhưng việc áp dụng hình phạt CTKGG chiếm tỷ lệ % không đáng kể (2,83%), chưa có sự thống nhất. Vì vậy, việc nghiên cứu để áp dụng có hiệu quả hình phạt ngày có ý nghĩa hết sức quan trọng trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay. Mặt khác, cùng với chế định tội phạm, chế định về hình phạt là một chế định rất cơ bản và hết sức quan trọng của luật hình sự, bởi vai trò xã hội và hiệu quả của luật hình sự phụ thuộc rất lớn vào hình phạt nên việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt khoa học những vấn đề về hình phạt CTKGG và việc áp dụng hình phạt CTKGG trong thực tiễn; đồng thời, đưa ra những giải pháp hoàn thiện khắc phục những hạn chế góp phần nâng cao hiệu quả của loại hình phạt này là một nhu cầu đòi hỏi không chỉ những nhà làm luật, những người công tác trong hệ thống các cơ quan tư pháp (cơ quan nhà nước) mà còn cần có sự tham gia nghiên cứu của những đội ngũ của những người công tác trong lĩnh vực pháp luật như Luật sư, Luật gia, Trợ giúp viên 2 pháp lý ... Từ những lý do trên, học viên đã chọn đề tài “Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” làm luận văn thạc sỹ luật là có tính cấp thiết, thời sự khoa học và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, học viên tham khảo các công trình nghiên cứu sau đây: * Các sách chuyên khảo: - Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Đinh Văn Quế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 [24]. - Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Lê Thị Sơn, Nguyễn Ngọc Hòa, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001 [39]. - Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 2014 [60]. - Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), do PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa – TS. Phan Anh Tuấn (đồng chủ biên), Nxb Hồng Đức, Hà Nội 2017 [13]. * Các đề tài nghiên cứu cấp Bộ, luận án tiến sĩ và luận văn thạc sỹ: - Luận án tiến sỹ: “Các hình phạt chính trong Luật hình sự Việt Nam’’ của tác giả Nguyễn Sơn, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 2003 [40]. - Luận án tiến sỹ: “Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn miền Trung và Tây Nguyên” của tác giả Nguyễn Văn Bường, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Viện khoa học xã hội, 2017 [1]. - Luận văn thạc sỹ luật học: “Hình phạt cải tạo không giam giữ theo luật Hình sự Việt Nam” của tác giả Phạm Thị Hiền, Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa luật, 2007 [12]. - Luận văn thạc sỹ luật học: “Các hình phạt không tước tự do trong luật 3 hình sự Việt Nam” của tác giả Lê Khánh Hưng, Đại học Quốc gia Hà Nội Khoa luật, 2010 [18]. - Luận văn thạc sỹ luật học: “Hình phạt và các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Cảnh, Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa luật, 2010 [2]. - Luận văn thạc sỹ luật học: “Hình phạt cải tạo không giam giữ theo luật Hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa” của tác giả Lê Thanh Hùng, Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa luật, 2014 [17]. - Luận văn thạc sỹ luật học: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tỉnh Nam Định” của tác giả Phạm Đức Trung, trường Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa luật, 2014 [53]. - Luận văn thạc sỹ luật học: “Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ”, của tác giả Nguyễn Thị Thu Ngân, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật, 2016 [22]. - Luận văn thạc sỹ luật học: “Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” của tác giả Nguyễn Thị Thu Thảo, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Viện khoa học xã hội, 2017 [42]. - Luận văn thạc sỹ luật học: “Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” của tác giả Phan Thị Minh Thái, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Viện khoa học xã hội, 2018 [41]. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học pháp lý, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng “Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”. 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận, từ đánh giá thực tiễn áp dụng hình phạt CTKGG trong xét xử các VAHS ở tỉnh Quảng Ngãi, luận văn đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng hình phạt CTKGG trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích những vấn đề cơ sở lý luận về hình phạt CTKGG và áp dụng hình phạt này trong xét xử hình sự. - Đánh giá thực tiễn áp dụng hình phạt CTKGG thông qua các VAHS được xét xử và thi hành hình phạt này tại tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, chỉ rõ ưu điểm lẫn những hạn chế, bất cập, nguyên nhân của những hạn chế. - Đề xuất, luận giải các quan điểm, giải pháp đảm bảo áp dụng hình phạt CTKGG trong xét xử các VAHS và trong thi hành án hình phạt này tại tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý, thực tiễn và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự (Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự và Luật thi hành án hình sự) có liên quan đến việc áp dụng và thi hành hình phạt CTKGG tại tỉnh Quảng Ngãi. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu việc áp dụng hình phạt Cải tạo không giam giữ trong xét xử các vụ án hình sự tại tỉnh Quảng Ngãi trong khoảng thời gian 5 năm, từ năm 2015 đến năm 2019. 5 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và nhà nước ta về pháp luật hình sự và hình phạt nói chung, về hình phạt CTKGG nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, cụ thể là các phương pháp nghiên cứu như: lịch sử, tổng hợp, thống kê kết hợp với khảo sát thực tế, đối chiếu giữa các qui định của pháp luật hiện hành; phân tích và so sánh các qui định của pháp luật về công tác xét xử án hình sự; phương pháp nghiên cứu tài liệu, hồ sơ vụ án và bản án hình sự, hồ sơ chấp hành án CTKGG; phương pháp sử dụng ý kiến các chuyên gia; phương pháp lựa chọn điển hình. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần làm phong phú hơn những vấn đề lý luận của hình phạt CTKGG theo luật hình sự Việt Nam ở cấp độ một luận văn thạc sỹ luật học. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo phục vụ yêu cầu nghiên cứu, học tập cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự hoặc yêu cầu nâng cao chất lượng của áp dụng hình phạt CTKGG trong hoạt động xét xử HĐXX và trong thi hành hình phạt CTKGG của Cơ quan thi hành án hình sự. Nội dung của luận văn cũng có thể sử dụng nhằm xây dựng kỹ năng nghề nghiệp, nghiệp vụ xét xử các VAHS cho cán bộ Tòa án, Viện kiểm sát, cho đội ngũ Luật sư, Luật gia khi tham gia bảo vệ đương sự (thân chủ - bị cáo) 6 trước phiên tòa và những người làm công tác thi hành án hình sự ..., trước yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay trong quá trình áp dụng hình phạt nói chung và hình phạt CTKGG nói riêng có căn cứ và đúng PL. Những giải pháp luận văn đưa ra có giá trị tham khảo cho các cơ quan, tổ chức trong xây dựng, phát triển hoàn thiện pháp luật bảo đảm thực hiện chính sách pháp luật đối với người vi phạm pháp luật hình sự hiện nay trong điều kiện đổi mới, phát triển ổn định, bền vững và hội nhập quốc tế. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử quy định hình phạt cải tạo không giam giữ trong pháp luật hình sự Việt Nam Chương 2: Thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ tại tỉnh Quảng Ngãi Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt cải tạo không giam giữ 7 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ QUY ĐỊNH HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Những vấn đề lí luận về hình phạt cải tạo không giam giữ 1.1.1. Khái niệm, đăc điểm của hình phạt cải tạo không giam giữ 1.1.1.1. Khái niệm hình phạt Tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực có tính nguy hiểm cao trong xã hội, mang tính lịch sử và bản chất giai cấp sâu sắc, đấu tranh với tội phạm là nhiệm vụ tất yếu khách quan đặt ra cho mọi nhà nước, cho dù nhà nước đó là kiểu nhà nước nào. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của được nhà nước áp dụng và nó trở thành công cụ hữu hiệu trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong lý luận của pháp luật hình sự có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất, nội dung và mục đích của hình phạt. Tuy nhiên, về cơ bản, hình phạt được coi là công cụ để đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Đây là một quan niệm tiến bộ và nhân đạo, hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm mục đích giáo dục, cải tạo và ngăn ngừa tội phạm. Quan niệm này về hình phạt thể hiện rõ nét phương châm kết hợp cưỡng chế và giáo dục cải tạo trong chính sách hình sự, cưỡng chế là không thể thiếu nhưng giáo dục, thuyết phục cũng có vai trò rất quan trọng, nó có ưu thế hơn cưỡng chế ở khả năng làm cho con người có thể tự nguyện tuân theo và trao cơ hội cho họ sửa chữa những lỗi lầm vi phạm, như vậy sự đồng tình đó mới thực sự bền vững. Theo quan điểm này, mục đích cuối cùng được đặt ra là hạn chế, đi đến triệt tiêu các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, kế thừa truyền thống văn hoá, đạo đức dân tộc, tiếp thu những tinh hoa tiến bộ 8 của luật hình sự thế giới; đồng thời, có xét đến thực trạng và yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, luôn trao hình phạt, biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước cho Toà án áp dụng đối với người phạm tội. ở từng giai đoạn khác nhau, những quy định của pháp luật Việt Nam về hình phạt cũng khác nhau nhưng đều thể hiện rõ tư tưởng: Nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trừng trị đi đôi với giáo dục, cải tạo. Trong các hình phạt được luật hình sự quy định, bên cạnh các hình phạt nghiêm khắc như tù chung thân, tử hình..., thì luôn có những hình phạt nhẹ hơn không tước bỏ tự do của người bị kết án như phạt tiền, cảnh cáo, CTKGG và các quy định về miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt v.v.. tạo điều kiện cho người bị kết án hoà nhập với cộng đồng, giảm chi phí phát sinh không đáng có cho xã hội đó là cái mà luật hình sự hướng tới. Với tinh thần đó, hình phạt trong luật hình sự Việt Nam thực sự là công cụ hữu hiệu của nhà nước để bảo vệ chế độ, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của nhà nước. Bộ luật hình sự năm 1999 là văn bản pháp lý đầu tiên được quy định một cách chính thức khái niệm hình phạt trong một điều luật, làm cơ sở phân biệt hình phạt và các biện pháp cưỡng chế khác của nhà nước cụ thể: Tại Điều 26 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Toà án quyết định”. [28]. Còn theo Điều 30 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng định về Khái niệm hình phạt “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người 9 hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó” [34]. Theo các khái niệm này có thể thấy nội dung pháp lý của hình phạt là tước bỏ hoặc hạn chế các quyền và lợi ích của người phạm tội, đó có thể là các quyền, lợi ích về thể chất tinh thần hay tài sản hoặc các quyền, lợi ích khác của người phạm tội như: Quyền sống, quyền tự do đi lại, tự do hành nghề hay các quyền chính trị khác.., nó thể hiện thái độ của nhà nước đối với người phạm tội và đối với tội mà người đó thực hiện. Nhà nước, với sự tước bỏ hoặc hạn chế, một mặt trừng trị lên án người phạm tội, mặt khác nhằm răn đe giáo dục họ trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội. 1.1.1.2. Khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ Trong Bộ luật hình sự không có khái niệm pháp lý nào về hình phạt CTKGG mà chỉ có các quy định về phạm vi, điều kiện áp dụng, nguyên tắc áp dụng của hình phạt này. Dưới góc độ lý luận, thì hình phạt CTKGG được định nghĩa như sau: Phạt CTKGG, là hình phạt không buộc người bị kết án phải cách ly với xã hội (không tước tự do), và buộc người bị kết án phải nộp sung công quỹ nhà nước một khoản tiền (khấu trừ thu nhập) nhất định do Tòa án quyết định ghi trong bản án. Khái niệm này phản ánh đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng cũng như nội dung pháp lý của hình phạt CTKGG. Dưới góc độ thực tiễn, thì hình phạt CTKGG được định nghĩa: Hình phạt CTKGG là một hình phạt được qui định trong Bộ luật hình sự, do Tòa án áp dụng thông qua việc xét xử đối với người phạm tội nhằm thể hiện trách nhiệm hình sự lẫn trách nhiệm về vật chất (bị khấu trừ thu nhập) của người đó đối với hành vi trái pháp luật hình sự mà họ đã gây ra cho xã hội. Hình phạt CTKGG được luật hình sự quy định do Toà án áp dụng đối với người phạm tội, nội dung pháp lý của nó chính là việc Tòa án giao họ cho 10 môt cơ quan hoặc tổ chức quản lý giám sát và thực hiện tước bỏ một phần một khoản tiền (thu nhập hàng tháng) nhất định của người bị kết án. Với nội dung đó hình phạt CTKGG là loại hình phạt có khả năng tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến cả đời sống lẫn kinh tế đối với người phạm tội, nó đặc biệt có hiệu quả trong việc đấu tranh với các loại tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người (Chương XIV BLHS 2015), như tội Tội giết cố ý gây thương tích hoặc gây tổ hại cho sức khỏe người khác [Điều 134 BLHS 2015]; các loại tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân (Chương XV BLHS 2015), như Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật [Điều 157 BLHS 2015] và các loại tội phạm xâm phạm sở hữu (Chương XVI BLHS 2015), như Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, Tội trộm cắp tài sản, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản [Điều 170, 172, 173, 174, 175 BLHS 2015]… và một số loại tội có tính chất vụ lợi, các tội dùng tài sản làm phương tiện hoạt động phạm tội, các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự an toàn công cộng, trật tự quản lý hành chính... mà chưa đến mức phải áp dụng những loại hình phạt nghiêm khắc hơn, đồng thời hạn chế việc tước tự do của người bị kết án khi không cần thiết. Về mặt thời gian, hình phạt CTKGG đối với người phạm tội, thì nhà nước đã tạo cho họ một khoảng thời gian liên tục ở ngoài xã hội để họ tạo ra của cải vật chất cho gia đình và cho xã hội; mặt khác tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước giảm các chi phí xã hội phát sinh không cần thiết và vẫn đạt được mục đích làm cho người phạm tội thấy được trách nhiệm của mình đã gây ra mà từ đó tích cực cải sửa để làm người công dân tốt cú ích cho xã hội. Ngoài việc phải chịu sự quản thúc (giám sát) và bị nộp phạt một khoản tiền (khấu trừ thu nhập) nhất định người bị kết án không phải chịu bất cứ một sự ràng buộc hay trách nhiệm nào khác ngoại trừ việc mang án tích như các hình phạt chính khác. 11 Khi áp dụng phạt CTKGG, Toà án cũng nhằm hướng tới những mục đích chung của hình phạt là trừng trị người phạm tội, giáo dục, cảm biến người phạm tội và răn đe phòng ngừa tội phạm chung. Với những mức hình phạt có thể lên đến 03 năm CTKGG và khấu trừ thu nhập hàng tháng của người phạm tội lên đến 20%. Khả năng trừng trị của phạt CTKGG, là tương đối nghiêm khắc, cho phép áp dụng đối với nhiều loại tội phạm có mức độ ít nghiệm trong và nghiêm trọng khác nhau. Việc quy định hình phạt CTKGG trong luật hình sự đã góp phần đa dạng hoá các hình thức hình phạt, đa dạng hoá các biện pháp xử lý hình sự trong hoạt động phòng và đấu tranh chống tội phạm hiện nay. Quy định hình phạt cải tạo không giam giữ trong hệ thống hình phạt đã rút ngắn, thu hẹp khoảng cách về mức độ nghiêm khắc giữa hình phạt cảnh cáo, phạt tiền và hình phạt tù có thời hạn mà khi xét xử Toà án có thể thực hiện nguyên tắc “Nghiêm trị kẻ chủ mưu, cầm đầu, ngoan cố chống đối, lưu manh côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức; đồng thời, khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, lập công chuộc tội và có vai trò thứ yếu”. Đó cũng là cơ sở pháp lý để Toà án thực hiện việc xét xử một cách công bằng đối với các trường hợp phạm tội. Hình phạt CTKGG góp phần thực hiện nguyên tắc xử lý có phân biệt và nguyên tắc cá thể hoá hình phạt với các trường hợp phạm tội khác nhau về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội. Chính sách hình sự của nhà nước đòi hỏi nghiêm trị phải kết hợp với khoan hồng; đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, ăn năn hối cải thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù. Điều 50 BLHS 2015 quy định: Khi quyết định hình phạt, Toà án phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vào nhân thân của người phạm tội [34]. Tội phạm được thực 12 hiện trong các trường hợp cụ thể có các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khác nhau; vì vậy, phải quy định các loại hình phạt, trong đó có hình phạt CTKGG để áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng. Trong hệ thống hình phạt của luật hình sự Việt Nam, phạt CTKGG là loại hình phạt chính, do vậy phạt CTKGG có mức độ nghiêm khắc cao hơn cảnh cáo và phạt tiền nhưng thấp hơn hình phạt tù có thời hạn (trong đó có án treo), điều này có thể nhận thấy thông qua trật tự sắp xếp của các hình phạt trong hệ thống hình phạt nêu trên [Điều 70 BLHS 2015]. Hình phạt CTKGG khi được áp dụng sẽ tước đi sự tự do nhất định (người phạm tội phải chịu sự giám sát) và người phạm tội cũng có thể bị kết án một khoản tiền nhất định để sung công quỹ nhà nước (khấu trừ thu nhập hàng tháng), người bị phạt CTKGG bị tước đi một phần sự tự do và một phần quyền lợi vật chất của họ, sự tước đi này tác động đến người bị kết án theo chiều hướng bất lợi. Phạt CTKGG có thể coi là một loại hình quản chế (quản thúc) người bị kết án tại một nơi ở nhất định. Cùng với việc áp dụng khấu trừ thu nhập hàng tháng của người phạm tội, không phải là một biện pháp kinh tế thuần tuý, khả năng tác động về mặt kinh tế của hình phạt này chỉ là một thuộc tính vốn có của nó. Mục đích mà hình phạt CTKGG nhắm tới khi áp dụng đối với người phạm tội cũng chính là mục đích của hình phạt. Đó là cải tạo và giáo dục người phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội mới, răn đe những người khác không bước vào con đường phạm tội; tuy nhiên, hình phạt CTKGG không đặt ra mục đích kinh tế, không xác định khấu trừ thu nhập hàng tháng của người bị kết án để tăng thu cho ngân sách nhà nước, mà việc sung công quỹ nhà nước một khoản tiền thu được của người bị kết án chỉ là hệ quả do việc áp dụng một loại hình phạt được Bộ luật hình sự quy định. Hình phạt CTKGG được quy định trong Bộ luật hình sự, chỉ do Toà án, 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan