HÌNH ẢNH TẾ BÀO HỌC BÌNH THƯỜNG
Các thành phần chủ yếu thấy trên tiêu bản tế bào học là các loại tế bào
biểu mô phủ lát tầng (hay còn gọi là tế bào gai, tế bào vảy) với các mức độ
trưởng thành khác nhau, tế bào tuyến (tế bào trụ) của cổ trong cổ tử cung và nội
mạc tử cung, các loại tế bào viêm, dịch nhầy và vi sinh vật.
I. CÁC LOẠI TẾ BÀO BIỂU MÔ PHỦ LÁT TẦNG:
1. Tế bào đáy:
Là tế bào nhỏ nhất, hình tròn hoặc bầu dục, đường kính trung bình từ 1220µm hoặc 15-30µm (tùy tác giả), nhân có kích thước từ 8-10 µm. Nhìn chung
kích thước tế bào này tương đương với tế bào viêm đơn nhân lớn. Chất nhiễm
sắc đều đặn, ranh giới bào tương rõ ràng, bào tương hẹp mỏng bắt màu xanh đen
hoặc xanh tím (tùy phương pháp nhuộm), có khi nhâ bị lệch tâm. Loại tế bào
này thường được tìm thấy trong trường hợp cổ tử cung bị viêm loét hoặc do quệt
quá mạnh tay.
2. Tế bào cận đáy (hình 2.25 đến 2.27)
Có hình tròn hoặc bầu dục, đường kính từ 15-25 µm hoặc từ 12-30 µm,
nhân lớn bằng hoặc lớn hơn nhân tế bào đáy, kích thước nhân 10-12 µm, nhân
bắt màu nhạt và dế nhân thấy cấu trúc nhân hơn, có khi thấy được hạt nhân, co
khi nhân có hốc sáng hạt nhiễm sắc mịn, bào tương dày, có màu ưa kiềm.
Các tế bào thường đứng đơn độc hoặc thành dải nhỏ. Trong giai đoạn
không có hoạt động nội tiết như trẻ em, tuổi dậy thì, người già, sau mãn kinh,
cấu trúc mô học của niêm mạc là loại tế bào này, nên ở phiến đồ ta sẽ thấy tế
bào cận đáy chiếm ưu thế. Do đó khi trên tiên bản của phụ nữ ở lứa tuổi thịnh
dục mà có tế bào cận đáy thì có thể xem là bị suy giảm nội tiết hoặc lớp niêm
mạc có xây xát.
Khác với tế bào đáy, khoảng cách từ màng nhân đến màng tế bào lớn hơn
đường kính cực đại của nhân, ngược lại với tế bào đáy khoảng cách này nhỏ hơn
đường kính cực đại của nhân...
1
3. Tế bào trung gian (hình 2.10 đến 2.23).
Có hình đa diện, có nhiều góc cạnh, có khi bị gấp góc, kích thước từ 30-35
µm hoặc 20-40 µm có khi đến 60 µm. Nhân nhỏ từ 6-9 µm diện tích tế bào
1.500 µm2, diện tích nhân 35 µm2 , tỷ lệ nhân / bào tương từ 3-5. Nhân sáng
màu, chất nhiễm sắc lấm tấm hạt mịn, nhân nằm ở trung tâm tế bào. bào tương
mỏng và nhiều, thường có màu ái kiềm nhẹ (xanh, tím, nhạt).
Các tế bào thường đứng đơn độc hoặc co cụm thành đám. Một hình thái
đặc biệt của tế bào này là tế bào có dạng thuyền thường gặp chúng trên phiến đồ
ở giai đoạn chế tiết hoặc trong thai kỳ.
4. Tế bào bề mặt (hình 2.5 đến 2.9)
Là những tế bào hình đa diện, nhiều góc cạnh, kích thước từ 30-35 µm.
Nhân teo nhỏ 3-6 µm . Diện tích tế bào 1.500 µm 2 diện tích nhân 15-20 µm2 tỷ
lệ tương quan nhân/bào tương 2-3. Nhân teo nhỏ, sậm màu, không thấy có
những hạt quanh nhân. Bờ tế bào rõ tùy vào độ trưởng thành mà bào tương có
màu ái toan (tím đỏ) hoặc ái kiềm (xanh).
Các tế bào thường đứng đơn độc hoặc co cum, phân biệt với tế bào trung
gian chủ yếu dựa vào tế bào hình ảnh nhâ đông.
II. CÁC LOẠI TẾ BÀO TUYẾN:
1. Tế bào tuyến cổ trong cổ tử cung (hình 2.30 đến 2.38)
Nhân tế bào lệch tâm khu trú về phía ngoại vi của tế bào, có hình tròn, bầu
dục, hạt nhiễm sắc đồng nhất có những hạt mịn đều đặn có khi có hạt nhân. Bào
tương có tính chế tiết nên nhìn kỹ có dạng tổ ong, hiếm khi thấy được nhung
mao. Nhân và bào tương thường hòa lẫn vào nhau, điều này giúp ta phân biệt nó
với tế bào đáy kéo dai. Các tế bào tuyến dễ thoái hóa nên nhiều khi chúng chỉ
còn nhân trần, phù nề, kích thước thay đổi mà không có bào tương, nhân hình
tròn, bầu dục, chất màu có dạng đám mây.
2
Các tế bào thường co cum thành đám nhỏ, có khi đứng rời rạc. Nhìn chung
tế bào có diện tích 190 µm , diện tích nhân 50 µm tỷ lệ tương quan nhân/bào
tương :30.
Sự có mặt các tế bào tuyến cổ trong được xem là một trong những tiêu
chuẩn lấy mẫu đạt yêu cầu. Cũng cần chú ý đến sự vắng mặt của tế bào tuyến cổ
trong vào kết quả trên phiếu xét nghiệm. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bàn cãi về sự
có mặt của tế bào này trong việc đánh giá tiêu bản, nhất là đối với phụ nữ sau
mãn kinh có thể không có tế bào tuyến cổ trong là do những biến đổi sinh lý
bình thường.
2. Tế bào nội mạc tử cung (hình 2.39 đến 2.43 và 5.31 đến 5.33)
Các tế bào này thường có mặt trong những chu kỳ kinh, ở những bệnh nhân
rong kinh, nếu chúng có mặt nửa sau chu kỳ kinh hoặc ở người sau mãn kinh có
thể chỉ ra trường hợp nội mạc tử cung bất thường. Các tế bào có diện tích 180
µm , diện tích nhân 30 µm 2 , tỷ lệ tương quan diện tích nhân /bào tương 30-60.
Các tế bào nội mạc thường co cum thành đám dày đặt chống chất lên nhau, ranh
giới tế bào không rõ, có dạng không gian 3 chiều, có khi thấy tế bào tròn như
quả banh, nhân tâm giác hoặc có góc cạnh hoặc có hình bầu dục, bắt màu đậm,
không thấy hạt nhân, kích thước tương đương nhân tế bào hoặc các tế bào tuyến
nội mạc bị các tế bào đệm có nhân hình bầu dục dài, lớn, sáng hoặc tròn bao bọc
xung quanh.
Tế bào cổ trong cổ tử cung
Sắp xếp thành dãi nhỏ, đôi khi
co cụm
Rìa tế bào rõ, có dạng tổ ong
Bào tương nhiều, sàng, đôi khi
có nhung mao
Thường có không bào lớn
Tế bào nội mạc tử cung
Co cụm, lộn xộn, ít dãi nhỏ
Bờ tế bào ít rõ hơn
Bào tương ít, đầy đặn
Vài tế bào có không bào nhỏ
Nhân hình tam giác, bầu dục
hoặc có hình răng cưa.
3
Nhân tròn, lệch tâm
Có các hạt nhiễm sắc màu đậm
Chất nhiễm sắc hốc hóa
Đường viên quanh nhân chất
khít, nổi rõ.
Đường viền quanh nhân nhỏ, ít
Thường thoái hóa trên phiến đồ
rõ
Thường có mặt nguyên vẹn
trên phiến đồ
III. CÁC TẾ BÀO CHUYỂN SẢN (DỊ SẢN) GAI (hình 2.59 đến 2.65)
Sự có mặt của tế bào này là một điều cần thiết xác định tiêu bản đạt yêu
cầu, khi phối hợp với sự có mặt tế bào cổ trong, qua đó xác định khẳng định
thành phần vùng chuyển tiếp/vùng cổ trong đã được lấy mẫu. Trên tiêu bản phải
có tối thiểu 2 đám tế bào cổ trong vá/ hoặc tế bào chuyển sản gai được định hình
tốt với mỗi đám gồm ít nhất là 5-10 tế bào.
Đây la trường hợp lớp biểu mô tuyến (trụ) được thay thế bằng biểu mô gai
để có khả năng chống lại hoặ chiiuj đựng các thương tổn được tốt hơn, kết quả
sự phát triển bình thường này được xảy ra ở nơi vùng tiếp giáp giữa biểu mô
phủ, biểu mô tuyến của cổ tử cung (vùng chuyển tiếp), chính ở vị trí này là nơi
xuất phát các tổn thương ác tính.
Mặc dù chuyển sản gai không phải chỉ là dấu hiệu để chẩn đoán mà còn
chứng tỏ tiêu bản đáng tin cậy. HCuyeenr sản gai thường gặp trong giai đonạ trẻ
sơ sinh, quanh tuổi dậy thì, trong lần có thai đầu tiên, sau sinh. Các tế bào
chuyển sản gai còn liên quan đến việc dùng thuốc ngừa thai, viêm cổ tử cung
mãn tính, polyp cổ tử cung và lộn tuyến tử cung.
Sự thay đổi này thường trải qua 3 giai đoạn: quá sản tế bào dự trữ, chuyển
sản non, chuyển sản trưởng thành.
1. Quá sản tế bào dự trữ (hình 2.69 đến 2.71)
Tế bào dự trữ là những tế bào nhỏ hơn tế bào cận đáy, diện tích 200 µm ,
diện tích nhân 50 µm2 , tương quan diện tích nhân/bào tương 25. Đôi khi sẽ có
4
hình dạng tương tụ như mô bào nhỏ hoặc tế bào mô đệm. Các tế bào dự trữ
thường đứng rời rạc hoặc bong ra thành dãi co cụm, với bờ tế bào khi xác định,
bào tương hẹp, ái kiềm mạnh, vài tế bào có không bào, có khi có một viền mỏng
bào tương, nhân tế bào bắt màu đạm hơn nhân tế bào trung gian, chất nhiễm sắc
phân bố đều đặn, cân đổi, có những hạt mịn với một số ít vùng bắt màu nhỏ,
màng nhân mỏng, đường viền nhân trơn, nhân có hình tròn hoặc bầu dục, có đôi
khi có một cái đuôi ở màng nhân. Đôi khi còn thấy một vài tế bào tuyến xen lẫn
quanh đám tế bào dự trữ.
2.Chuyển sản non:
Không giống như tế bào dự trữ, cac tế bào chuyển sản non thường bong ra
thành những tế bào riêng rẽ hoặc thành đám nhỏ, hoặc xếp thành chuỗi hiểm khi
tạo thành dãi rời rạc. Chúng có hình bầu dục, tròn, kích thước thay đổi từ 300600 µm2 , diên tích nhân 50 µm2 , chúng lớn hơn tế bào dự trữ, nhiều khi tương
tự với tế bào cận đáy hoặc nhỏ hơn tế bào trung gian một ít, bờ tế bào rõ, bào
tương đồng nhất nhuộm màu xanh tím sẫm hoặc hơi nâu, thường vùng ngoại vi
sẫm hơn, tế bào đa cực và bào tương rộng, nhân ở trung tâm lớn, có hạt nhiễm
sắc mịn hoặc tạo thành mạng lưới nhiễm sắc, có thể có hình gương mờ (ground
glass), đôi khi có các vùng nhiễm sắc, hạt nhân có khi không rõ màng nhân trơn,
mỏng, tỷ lệ nhân/ bào tương cao nên cần phân biệt với những tế bào nghịch sản
(tổn thương trong biểu mô). Các tế bào chuyển sản non thường xen lẫn trong các
dãi dịch nhầy kết tinh.
3. Chuyển sản trưởng thành:
Các tế bào này không có ý nghĩa vì không thể phân biệt nó với các tế bào
biểu mô phủ vốn có trên phiến đồ được, hầu như không có giá trị như các tế bào
chuyển sản non.
Tế bào chuyển sản
Tế bào nghịch sản (tổn thương trong
biểu mô)
Co cụm thành dãi phẳng
Đơn độc
5
Nhân bằng hoặc lớn hơn một ít
Nhân lớn hơn nhân tế bào trung
so với nhâ tế bào trung gian
gian
Bào tương vừa phải
Bào tương hẹp
Hạt nhiễm sắc mịn hoặc có
Hạt nhiễm sắc thô, có những
dạng gương mờ
vùng bắt màu
Hạt nhiễm sắc phân bố đều đặn
Phân bố không đều
Đường rìa quanh nhân trơn
Đường rìa quanh nhân thô
nhẵn
IV. CÁC TẾ BÀO KHÁC KHÔNG PHẢI LÀ BIỂU Ô
1. Các loại tế bào viêm:
Bạch cầu, lympho bào, tương bào, hồng cầu, mô bào. Các hình ảnh tế bào
này tương tự như mô tả trong tiêu bản huyết học, sinh lý học.
2. Tế bào mô đệm nội mạc tử cung:
+ Tế bào mô đệm sâu có thể có hình dạng thay đổi từ hình tròn cho đén
hình thoi, có nhân hình bầu dục nhỏ, bao tương ít.
+ Tế bào mô đệm nông, có bào tương nhiều, dạng bọt, khó phân biệt với tế
bào nội macj tử cung, mô bào.
V. ĐỘ PH ÂM ĐẠO VÀ LỨA TUỔI
+ Trẻ sơ sinh: 5.5,trẻ em: 7.0
+ Người lớn
- Không có thai: 4.0-5.0
Độ PH cao nhất trong thời gian kinh nguyệt, thấp nhất lúc trứng rụng, ở
giai đoạn trước kinh và ở phần trên âm đạo.
Có thai: Dưới 4.0
Mãn kinh: 6.0-7.5
6
VAI TRÒ CHẨN ĐOÁN TẾ BÀO HỌC ÂM ĐẠO (PAP SMEAR) TRONG
TẦM SOÁT (SÀNG LỌC) UNG THƯ CỔ TỬ CUNG
Ung thư cổ tử cung là một trong những loại ung thư đứng hàng đầu ở phụ
nữ,hằng năm có khoảng 400.000 trường hợp ung thư cổ tử cung mới, được phát
hiện ở trên toàn thế giới và khoảng một nửa trường hợp này sẽ chết do ung thư.
80% trường hợp ung thư cổ tử cung xảy ra ở các nước đang phát triển.
Tầm soát trên diện rộng bằng pap smear được xem là một trong những
phương pháp của chăm sóc sức khỏe cộng đồng thành công nhất trong ngừa ung
thư và là phương pháp hiện có tốt nhất cho việc phát hiện sớm ung thư.
Ung thư cổ tử cung đạt các tính chất cho một bệnh cần được tầm soát:
1- Đây là một bệnh thường gặp và là một vấn đề sức khỏe quan trọng;
2- Giai đoạn tiền lâm sàng kéo dài mà có thể phát hiện được
3- Có một test tầm soát là Pap smear, test này nhanh chóng, không xâm
lấn ít tốn kém và được chấp nhận rộng rãi.
4- Đã có phương pháp điều trị và phương pháp điều trị bệnh trong giai
đoạn đầu có hiệu quả hơn là điều trị triệu chứng của bệnh.
Mục đích chính của Pap smear là có thể phát hiện sớm ung thư cổ tử cung
và tổn thương tiền ung thư cổ tử cung. Từ khi test này ra đời, nó tỏ ra là một
phương pháp hiệu quả trong phòng ngừa ung thư cổ tử cung, và nó được tin cậy
vì giảm tỷ lệ mới mắc và tử vong trong các trường hợp ung thư được ghi nhận ở
hầu hết các nước phát triển trong vòng 50 năm qua.
Mặc dù hiệu quả của Pap smear chưa bao giờ được lượng giá trong một thử
nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, có nhiều bằng chứng và các nghiên cứu dịch tễ
học quan sát, bao gồm các nghiên cứu về môi trường, bệnh – chứng, và đoàn hệ
(cohort) mà việc sử dụng tầm soát này có liên quan đến hạ thấp tỷ lệ mới mắc và
tỷ lệ tử vong do ung tư cổ tử cung. Các dữ liệu đoàn hệ từ British Columbia và
các nghiên cứu bệnh chứng từ Geneva, Milan, và Tironto đã cho thấy tác dụng
7
phòng ngừa Pap smear. Các nghiên cứu về môi trường ở một số vùng với các
chương trình tầm soát, như là Scotland; British Columbia; Iceland; Manitoba;
quận Maribo của Denmark; quận Osfold của Noway; Sweden; và Hoa Kỳ, cho
thấy giảm đáng kể tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong sau khi test này được áp dụng.
Tuy nhiên, điều quan trọng nên ghi nhớ là pap smear là một test tầm soát
chứ không phải là test chẩn đoán, và vì vậy nó không phải là một công cụ hoàn
hảo; trong những năm gần đây, tính chính xác của nó đang được đánh dấu hỏi.
Mặc dù không có số liệu xác thực nào về tính chính xác của Pap smear, chủ yếu
là vì các vấn đề liên quan đến phương pháp nghiên cứu (thiết kế nghiên cứu,
dana số nghiên cứu, tiêu chuẩn vàng để so sánh, vv ...), hầu hết các nghiên cứu
đều báo cáo độ nhạy khoảng từ 60%-85% và độ đặc hiệu >90%. Trong một meta
analysis gần đây về tính chính xác của test, Fahey et al. (1995) ghi nhận trong 59
nghiên cứu công bố từ 1984 – 1992 so sánh kết quả của Pap smear và phân tích
mô học, ước lượng độ nhạy của test từ 11% - 99% (trung bình là 66%) và độ đặc
hiệu của test từ 14% - 97% (trung bình là 67%). Sai số lớn trong ước lượng độ
nhạy và độ đặc hiệu chủ yếu là do sự khác biệt trong phương pháp và chất lượng
của các nghiên cứu.
Nhiều nghiên cứu gây ra sai số đã được xác định trong tầm soát ung thư cổ
tử cung, bao gồm sai số chọn mẫu, kỹ thuật làm phết tế bào, xử lý mẫu, đọc kết
quả, kiểm tra chất lượng labo, diễn giải phết tế bào, và sai số báo cáo. Trong các
nguyên nhân gây ra sai số, hai nguyên nhân chính của tỷ lệ âm tính giải là thu
thập bệnh phẩm kém ( sai số chọn mẫu), chiếm đến 60% của âm tính giả là của
cả tỷ lệ âm tính giả và tỷ lệ dương tính giả cao có ý nghĩa to lớn, nhiều phương
pháp, được sử dụng một mình hoặc sử dụng kèm với phân tích tế bào học, được
đánh giá là đã làm giảm tỷ lệ sai số, cụ thể là tỷ lệ âm tính giả. Trong số các
phương pháp đã dùng để tầm soát tự động. Tất cả các phương pháp này cho thấy
đã làm tăng độ nhạy của Pap smear đến 90% hoặc hơn; tuy nhiên, hầu hết các
phương pháp này đều bị giới hạn ở chỗ là làm tăng chi phí và thời gian tầm soát
và đồi hỏi một đội ngũ huấn luyện tốt.
8
Bên cạnh tính chính xác của test, còn có nhiều vấn đề khác chưa được giải
quyết liên quan đến Pap smear: độ tuổi mà tầm soát nên bắt đầu và kết thúc và
khoảng cách tầm soát mà sẽ là tăng tính chi phí – hiệu quả của chương trình tầm
soát. Năm 1988, một Hội thảo đồng thuận (consensus panel) đại diện cho Hiệp
hội Ung thư Hoa Kỳ, Viện ung thư Quốc gia, Đại học Sản Phụ khoa Hoa Kỳ,
Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ, Hiệp Hội Điều dưỡng Hoa Kỳ, Học viện bác sĩ gia
đình Hoa kỳ và hiệp hội Y học phụ nữ Hoa Kỳ đồng ý các đề xuất cho tầm soát
Pap smear. Họ yêu cầu làm Pap smear mỗi năm cho tất cả phụ nữ trên 18 tuổi đã
quan hệ tình dục. Phụ nữ thuộc nhóm nguy cơ thấp có thể được tầm soát mỗi 3-5
năm nếu Pap smear hai lần âm tính. Trong khi đó, phụ nữ thuộc nhóm nguy có
cao (quan hệ tình dục với nhiều người, bắt đầu quan hệ tình dục sơm) có thể
được tầm soát mỗi năm. Trong hội thảo này không đề xuất một độ tuổi để ngưng
không làm Pap smear.
Cho dù có đề xuất này, khoảng cách tầm soát cho chi phí – hiệu quả nhất
vẫn chưa rõ. Các số liệu trong các nghiên cứu bệnh – chứng và mô hình toán
học cho thấy mọt sự gia tăng đáng kể (từ 6,2% đến 83,9%) trong việc giảm nguy
co ung thư cổ tử cung xâm lấn bằng cách giảm khoảng cách tầm soát từ 10
xuống còn 5 năm, nhưng ít ảnh hưởng với khoảng cách tầm soát ngắn hơn. Đối
với việc tầm soát khoảng cách 3 năm nguy cơ của bênh ung thư cổ tử cung xâm
lấn hoặc giảm 91,4%; đối với khoảng cách 2 năm, 92,5%; và mỗi năm, 93,3%.
Vì thế dựa trên số liệu này, người ta ước đoán rằng tầm soát hàng năm hiệu quả
với chi phí cao gấp 2-3 lần. Sự ưa chuộng tầm soát mỗi năm ở Hoa Kỳ dựa trên
những lý do sau:
1- Tầm soát thường xuyên hơn để bù cho tỷ lệ âm tính giả cao
2- Có một mối quan tâm là khoảng cách tầm soát dài có thể kéo dài hơn
nữa, làm tăng nguy cơ mất liên lạc với bệnh nhân và đánh mất cơ hội
tiến hành tầm soát trong các dài hơn làm giảm số cơ hội để phát hiện
sơm các tổn thương đang phát triển nhan.
9
3- Khoảng cách tầm soát dài hơn có thể hông nhấn mạnh tầm quan trọng
của việc tầm soát cho nhóm phụ nữ có nguy cơ cao.
4- Khoảng cách tầm soát dài hơn làm giảm số cơ hội để phát hiện sơm các
tổn thương đang phát triển nhanh.
Ở những nước đang phát triển, hầu hết các trường hợp ung thư cổ tử cung
xuất hiện nhưng các dịch vụ tầm soát tế bạo và các dịch vụ y khoa để lượng giá
và điều trị sâu hơn các tổn thương cổ tử cung tiền xâm lấn thì không có hoặc
hiếm có, các nguồn lực phải được bố trí theo hướng chi phí – hiệu quả. Một số
chiến lược được đề xuất cho các chương trình tầm soát ở các nước đang phát
triển bao gồm khoảng cách tầm soát dài hơn (5-10 năm ); tầm soát bắt đầu ở độ
tuổ trễ hơn (>35 tuổi); tầm soát “một lần trong đời” cho phụ nữ từ 35-40 tuổi;
tầm soát tất cả các phụ nữ ít nhất một lần trước khi bất kỳ một phụ nữ nào được
tầm soát lần thứ hai; downstaging; sử dụng soi cổ tử cung, test HPV,
cervicography, và phân tích tế bào học tự động.
Mặc dù các lợi ích của tầm soát bằng Pap smear để phát hiện ung thư cổ tử
cung đã có từ lâu và được công nhận, nhưng vẫn chưa vẫn cần nghiên cứu thêm
nữa. Một số khía cạnh cần được nghiên cứu thêm là:
(1)
Xác định chiến lược để tăng tỷ lệ tầm soát cho phụ nữ lớn tuoir và
ít được quan tâm trong xã hội ở các nước phát triển và đang phát triển.
(2)
Xác định khoảng cách tầm soát, chi phí – hiệu quả nhất
(3)
Tăng độ chính xác của Pap smear bằng cách giảm sai số chọn mẫu.
(4)
Đánh giá vai trò của kỹ thuật phết một lớp tế bào, các công cụ tầm
soát tự động và test HPV trong tầm soát các bất thường của cổ tử cung.
(5)
Xác định các chiến lược thích hợp nhất cho việc lượng giá các xử
trí bệnh nhân với các kết quả tế bào học bất thường (xem xét chi phí,
ảnh hưởng lên tâm lý, tiêu chuẩn để tham khảo, vai trò của test HPV
trong bộ ba theo dõi).
10
Việc tầm soát ung thư cổ tử cung và xử trí các tổn thương tiền ung thư cổ
tử ung dựa trên bộ ba Pap smear, soi cổ tử cung và test HPV.
* Nguyên nhân gây nên dương tính giả:
- Người đọc thiếu kinh nghiệm.
- Phản ứng viêm quá mạnh mẽ - gây nên sự quá sản tế bào phản ứng và
chuyển sản dạng chuyển tiếp ở tế bào khiến người đọc nhầm lẫn.
- Kỹ thuật lấy tế bào mạnh tay nhất là phụ nữ mãn kinh lâu ngày.
* Nguyên nhân gây nên âm tính giả:
- Bệnh phẩm quá ít tế báo.
- Tổn thương hiếm gặp như loại ung thư biểu mô sừng hóa tế bào nhỏ ở
những người mãn kinnh.
- Tổn thương ung thư xen lẫn với tổn thương viêm nhiễm.
- Hoại tử bề mật tổn thương.
- Thoái hóa và tự tiêu tế bào.
- Có quá nhiều máu, mủ.
- Xử lý tiêu bản không đúng quy trình.
- Người đọc thiếu kinh nghiệm, mệt mỏi. Các kỹ thuật viên chỉ được phép
đọc tối đa 85-90 tiêu bản/8 giờ/ ngày. Những người có kinh nghiệm, có phép
dọc trung bình 65 tiêu bản /8 giờ/ ngày. Nếu số lượng tiêu bản / 1 KTV quá
nhiều thì sẽ làm giảm hiệu quả công việc.
11
HỆ THỐNG PHÂN LOẠI BETHESDA
Các phân loại tế bào học là phương tiên trao đổi quan trọng giữa các thầy
thuốc chuên khoa tế bào học và phụ khoa.
Phân loại papanicolaou nguyên thủy từ nhóm I- nhóm V bị giới hạn do mô
tả các biến đổi tế bào trên phiến đồ. Nó không cung cấp một chẩn đoán lâm sàng
hoặc phân độ trên tổn thương tiền xâm lấn có sẵn hoặc nhiễm trùng hiện diện tại
thời điểm thăm dò.
Do vậy các phân loại mới được đưa ra nhằm mục đích tăng giá trị lâm sàng
của kết quả tế bào học. Năm 1953 Reagen đưa ra chẩn đoán loại sản nhẹ - trung
bình – nặng, CIS, ung thư xâm lấn. Richard (1968) đưa ra phân loại tân sinh
trong biểu mô cổ tử cung CIN I-III. Sau đó có 2 hệ phân loại lớn được sử dụng
rộng rãi trên thế giới.
Phân loại Munich: sử dụng rộng rãi ở châu Âu
Nhóm I
Phiến đồ bình thường (bao gồm viêm nhẹ, các biến đổi dạng
thoái hóa hoặc tiêu tế bào) tương đương với tuổi
Nhóm II
Phiến
đồ
viêm rõ rệt,
phiến đồ tái
tạo,
chuyển
sản,
tăng
sừng
hóa,
chứa tế bào
nội mạc tử
cung bình (kể
cả sau mãn
kinh)
nhiễm
virus
HPV,
12
HSV,
mang
vòng
tránh
thai
Nhóm III D
Loại sản nhẹ, trung bình
Nhóm CV A
Loại sản nặng – ung thư tại chỗ
Nhóm CV B
Loại sản nặng: ung thư tại chỗ, không thể loại trừ ung thư
xâm lấn
Nhóm III
Phiến đồ không rõ ràng do viêm nhiễm thoái hóa.
* Phân loại BETHESDA (1988,1992 và 2001)
Do tính đơn giản của nó, có tiêu chuẩn cụ thể mà phân loại này được sử
dụng rộng rãi để thay đổi các phân loại khác:
1. Chất lượng mẫu (h.2-4 và h3-2 đến 3-13):
Đạt yêu cầu cho việc đánh giá (ghi nhận có / không có thành phần kênh cổ
tử cung/vùng chuyển tiếp).
Không được xử lý và xem nhưng không đạt cho việc đánh giá
Chất lượng mẫu được xem như là thành phần quan trọng đảm bảo chất
lượng của hệ thống Bethesda. Cung cấp thông tin của mẫu vùng chuyển tiếp có
giá trị trong việc cải thiện chất lượng mẫu toàn diện và khuyến khích nỗ lực lấy
mẫu tối ưu. Đòi hỏi tế bào gai tối thiểu cho một mẫu để có chất lượng “đạt”
khác nhau tùy thuộc loại mẫu: khoảng 8.000-12.000 tế bào gai nhìn thấy rõ cho
một phết mỏng loại cổ điển và 5.000 tế bào gai nhìn thấy rõ cho một phiến mỏng
trên nền dịch. Lưu ý về sự có hay không có tế bào kênh cổ tử cung trong thành
phần vùng chuyển tiếp ở các mẫu tế bào gai đầy đủ. Tiêu chuẩn cho thành phần
vùng chuyển tiếp nên có ít nhất 10 tế bào kênh cổ tử cung dự trữ tốt hoặc tế bào
chuyển sản gai. Tuy nhiên, nếu các tế bào xếp thành cụm thì không cần đánh gái
nữa. Đánh giá các chỉ điểm chất lượng như viêm hay máu che lấp mẫu một phần
có thể được xem như “đạt”. Một mẫu được xem là “bị che lấp một phần” khi 5013
75% tế bào biểu mô không thể được nhìn thấy. Mẫu có > 75% tế bào biểu mô bị
che lấp là “không đạt”
2. Xếp loại chung
- Âm tính cho tổn thương trong biểu mô hay ác tính
- Bất thường tế bào biểu mô
- Khác
Xếp loại chung là một thành phần lý tưởng của hệ thống Bethesda được tiết
kế để cho phép các nhà lâm sàng và/ hoặc esquipe của họ để đưa ra báo cáo
nhanh chóng. Những loại trước đây thuộc “trong giới hạn bình thường” và “thay
đổi tế bào lành tính” được gộp chung thành một loại “âm tính cho tổn thương
trong biểu mô hay ac tính”. Trong cách này, những thay đổi phản ứng được báo
cáo rõ ràng hơn là âm tính. “Khác” được thêm vào như loại cho các trường hợp
có bất thường hình dạng tế bào. Tuy nhiên, các dấu hiệu cho thấy có một số
nguy cơ gia tăng như “những tế bào nội mạc tử cung ở phụ nữ trên 40 tuổi” có
biểu hiện lâm sàng. Các loại này có tính phụ thuộc lẫn nhau, vì vậy nếu cơ một
số dấu hiện hiện diện, xếp loại chung nên dựa trên kết quả có ý nghĩa về mặt
lâm sàng nhất, như bất thường tế bào biểu mô.
3. Diễn giải/ kết quả
Âm tính cho tổn thương trong biểu mô hay ác tính
Vi sinh vật
Trichomonas vaginalis
Nấm có hình thái học giống chủng Candida
Sự thay đổi về khuẩn chỉ nghĩ là viêm âm đạo do vi khuẩn
Vi khuẩn có hình dạng giống chủng Actinomyces
Thay đổi tế bào như do virus Herpes simplex
Những thay đổi tế bào do phản ứng: viêm nhiễm, tia xạ, dụng cụ tử cung
14
Tình trạng tế bào tyến sau khi cắt tử cung
Teo
Bất thường tế bào biểu mô
Tế bào gai không điển hình (ASC)
Có ý nghĩa không quyết định (ASC - US)
Không thể loại trừ tổn thương trong biểu mô tế bào gai grade cao (ASC – H)
Tổn thương trong biểu mô tế bào gai grade thấp (lSIL) bao gồm:
HPV/dị sản nhẹ/CIN1
Tổn thương trong biểu mô tế bào gai grade thấp (LSIL) bao gồm:
CIN2, 3, ung thư tại chỗ (CIS)
Ung thư tế bào gai
Tế bào tuyến
Tế bào tuyến không điển hình (AGC): tế bào kênh cổ tử cung, nội mạc tử
cung hoặc không có dấu hiệu đặc hiệu nào khác (NOS).
Tế bào tuyến không điển hình khả năng là u hoặc có xu hướng tân sinh (đặc
hiệu kênh cổ tử cung hoặc NOS)
Ung thư tuyến kênh cổ tử cung tại chỗ (AIS)
Ung thư tuyến (đặc hiệu hoặc NOS)
Khác: Tế bào nội mạc tử cung ở phủ nữ trên 40 tuổi
Tế bào học cổ tử cung chủ yếu là test tầm soát mà trong đó một số trường
hợp có thể có tác dụng như tham vấn y khoa do đưa ra diễn giả góp phần vào
chẩn đoán. Tuy nhiên, chẩn đoán và xử trí cuối cùng cho bệnh nhân phải dựa
vào kết quả lâm sàng và cận lâm sàng. Vì vậy, trong hệ thống Bethesda 2001, từ
“chẩn đoán” được thay tế bằng “sự diễn giải” hay “kết quả” để cho thấy rằng tế
bào học cổ tử cung cung cấp sự diễn giải các dấu hiệu hình thái và phải áp dụng
cho từng trường hợp cụ thể. Hệ thống Bethesda 2001 ghi nhận tế bào nội mạc tử
15
cung nếu phụ nữ trên 40 tuổi mà không quan tâm đến ngày kinh chót bởi vì tình
trạng kinh nguyệt, sử dụng nội tiết ngoại sinh và những yếu tố nguy cơ lâm sàng
khác ở phụ nữ mãn kinh thường không được biết hoặc không rõ ràng. Mặc dù tự
nhiên thường lành tính, việc xác xác định tế bào mạc tử cùng đặc biệt nếu không
phù hợp với kinh nguyệt hoặc sau mãn kinh có thể cho thấy nguy cơ bất thương
nội mạc tử cung. Điều quan trọng để nhấn mạnh rằng, tế bào học cổ tử cung chủ
yếu là một test tầm soát cho tổn thương biểu mô gai và ung thư tế bao gai,
không chính xác cho việc phát hiện tổn thương nội mạc tử cung, nên không
dùng để đánh giá bất thường nội mạc tử cung nghi ngờ.
4. Xem xét tự động và xét nghiệm phụ thuộc
Là những thành phần của báo cáo thích hợp. Đối với những tế bào được
quét bởi máy tính tự động, dụng cụ nào được dùng và kết quả xem lại tự động
nên được bao gồm trong báo cáo tế bào học cổ tử cung.
Nếu thực hiện test phân tử phụ thuộc, loại xét nghiệm nên ghi thêm ngoài
kết quả. Lý tưởng nhất, tế bào và kết quả test phụ thuộc nên được báo cáo đồng
thời. Tuy nhiên điều này không luôn thực hiện được.
5. Lưu ý đào tạo và đề nghị:
Những bình luận được viết liên quan đến giá trị và ý nghĩa của kết quả tế
bào học là sự đáp ứng của các nhà bệnh học và thông thường trực tiếp đến nhà
lâm sàng – người quan tâm đến xét nghiệm. Phòng xét nghiệm tránh đưa kết quả
trực tiếp cho bệnh nhân, bởi vì điều này có thể gây cản trở mối quan hệ bệnh
nhân – nhà lâm sàng.
Bất kỳ bình luận nào nên được xem xét cẩn thận, kỹ càng, súc tích phù hợp
với các hướng dẫn theo dõi lâm sàng.
16
XÁC ĐỊNH ADN CỦA HPV NGUY CƠ CAO
Ngày càng có nhiều bằng chứng xác lập mối quan hệ giữa nhiễm HPV và
ung thư cổ tử cung. Theo các nghiên cứu về ADN của HDN, ghi nhận có 89% 93% bệnh nhân ung thư cổ tử cung kết hợp với nhiễm HPV
Các type củ HPV được phân nhóm theo nguy cơ sinh ung thư từ thấp đến
cao như:
Nguy cơ sinh ung thư thấp: 6,12,42,43,44,53
Nguy cơ sinh ung thư cao: 16,18,45,56,58
Type nguy cơ cao khác: 31,33,35,39,51,52,59,68
Điểm đặc trưng tiêu biểu của LSIL và HSIL
Điểm đặc trưng
LSIL
HSIL
HPV tyes
Bất kỳ type HPV
hậu môn – sinh dục
Type HPV nguy
cơ cao
Koilocytosis
(Tế
Thường hiện diện
bào rỗng)
Mức bội thể
Thỉnh thoảng hiện
diện
Chủ yếu là lưỡng
bội hay đa bội
Thường có số bội
không chỉnh
Bất thường số gián
Không có
Thường có
Vị trí của tế bào
< 1/3
> 2/3
phân
không biệt hóa và số gián
phân
17
NHỮNG THAY ĐỔI TẾ BÀO LIÊN QUAN ĐẾN VIÊM
Việc xác định, phân loại trên tiêu bản tế bào học là không chính xác như
việc nuôi cấy vi sinh vật nhưng nó vẫn có thể cho lâm sàng những thông tin có
thể có giá trị. Chỉ những phiến đồ âm đạo được lấy từ dịch tiết cảu vòm âm đạo
hoặc tự thành bên hay thành sau âm đạo mới có thể thích hợp cho việc phân loại
vi sinh vật.
Điều quan trọng là ta chỉ cần sử dụng vật kính khô và độ phóng đại X. 40
cũng đủ để phân biệt được các loại vi sinh vật.
Trong âm đạo luôn có số lượng lớn vi sinh vật sự phát triển của chúng
được điều chỉnh bằng một loạt cơ chế tác động lẫn nhau, độ pH âm đạo, thay đổi
nồng độ nội tiết tố và sự hiện diện các vi sinh vật khác. Số lượng vi sinh vật ký
sinh này thay đổi tùy theo lứa tuổi, tình trạng nội tiết, sự hoạt động tình dục của
phụ nữ.
Các vi sinh vật sau đây được ghi nhận có mặt thường quy trong âm đạo mà
không có khả năng gây bệnh.
Lactobacilus acidophilus
E. Coli
Gardnerella acidophilus
Eubacterium SPP
Diphtheo
Proprionibacterium SPP
Striptococcus faecalis
Veillonella SPP
Group B Streptococci
Mycoplasma hominis
Staphylococcus epidermidis
Ureaplasma urealyticum
Micrcoccus SPP
Thậm chí trong môi trường bình thường sự phát triển vi sinh gây bệnh cũng
bị ức chế và không gây ra triệu chứng lâm sàng nào cả: 6,9% phụ nữ bị nhiễm
Trichomonas Vaginalis, 1,5% nhiễm HSV, 22,3% nhiễm nấm, 58,5% nhiễm các
vi sinh vật khác không có triệu chứng.
18
Dưới ảnh hưởng của tình trạng đối nghịch mất cân bằng, các vi sinh vật
sống ở âm đạo thay đổi, các vi sinh bệnh phát triển nổi trội khi đó mới có thể
đưa đến viêm nhiễm. Sự lan rộng của vi sinh vật thường bị ngăn chặn dưới tác
động của hệ miễn dịch cơ thể và các cơ chế kèm theo như dịch nhầy cổ tử cung,
sự thực bào, sự bong ra đều đặn của nội mạc tử cung. Các vi sinh vật có thể xâm
nhập vào cơ quan sinh dục theo các đường khác nhau hoặc do suy yếu cơ chế
bảo vệ:
+ Xuyên qua hàng rào bảo vệ cổ trong cổ tử cung do vi sinh vật có độc
tính, độc lực cao.
+ Do sự hủy hoại hàng rào bảo vệ cổ trong cổ tử cung vì chấn thương hoặc
sau khi khoét chóp.
+ Do kết dính vào các yếu tố lây nhiễm như Trichomonads và tinh trùng,
tinh dịch hoặc các thành phần khác
+ Khởi đầu từ sự ô nhiễm dịch nhầy cổ tử cung do dụng cụ thăm khám
+ Sự biến đổi nội mạc tử cung do máu, dụng cụ tránh thai, tình trạng nội
tiết, sau sinh.
+ Tác nhân gây bệnh từ vòi trứng lan xuống, chẳng hạn như trong lao.
+ Lan tỏa theo đường máu, thông qua bạch mạch hay mạch máu nuôi
dưỡng.
+ Thâm nhiễm trực tiếp từ mô lân cận
Nhiều khi hình ảnh các loại tế bào viêm vẫn có thể thấy trên tiêu bản của
người bình thường hoặc không có triệu chứng và nó không có ý nghĩa thực sự về
mặt lâm sàng, khi nào trên phiến đồ có mặt một số lượng lớn tế bào viên đa
nhân trung tính, mô bào, tương bào, lympho bào (tỷ lệ ≠ 1 tế bào biểu mô/4-5 tế
bào viêm) mới có thể cho đó là một trường hợp viêm nhiễm và triệu chứng lâm
sàng phải có là ra khí hư âm đạo.
19
Phản ứng viêm cấp tính thể hiện sự phong phú các tế bào viêm loại bạch
cầu đa nhân và luôn có một sự biến đổi tế bào do viêm được thể hiện đúng theo
mức độ. Phản ứng viêm mãn tính thường gặp hơn. Phiến đồ sẽ có nhiều lympho
bào và tương bào, đại thực bào đều có thể có mặt, ít bạch cầu đa nhân hơn.
Trong trường hợp viêm cổ tử cung nang sẽ xuất hiện loại tế bào lympho bào và
tương bào, đại thực bào đều có thể có mặt, ít bạch cầu đa nhân hơn. Trong
trường hợp viêm cổ tử cung nang sẽ xuất hiện loại tế bào lympho trưởng thành
và non xen lẫn và nó thường liên quan đến nhiễm chlamidil. Các mô bào cũng
thường thấy trong các trường hợp viêm nhiễm phụ khoa, một só tế bào khổng lồ
cũng thường được ghi nhận trên các tiêu bản phụ nữ mãn kinh và sau mãn kinh,
sau điều trị phóng xạ, bệnh nhân có phản ứng dị vật. Tuy nhiên các loại mô bào
nhỏ hoặc tế bào có dạng mô bào có thể có nguồn gốc từ mô đệm nội mạc do vậy
sự có mặt chúng ở phiến đồ của bệnh nhân sau mãn kinh mà không có hình ảnh
viêm nhiễm được coi như là mọt chỉ điểm cho một khả năng quá sản nội mạc tử
cung hoặc ung thư nội mạc tử cung.
Các tế bào lympho lớn xuất phát từ sự hoạt động của trung tâm tầm mầm
trong các nang lympho của viêm cổ tử cung nang đôi khi cũng làm cho chúng ta
nhầm lẫn sang tế bào ung thư: sự có mặt thể tinyble, hoạt động phân bào và
nhiều lympho bào trung gian sẽ giúp ta loại trừ được sai lầm này.
A NHỮNG BIẾN ĐỔI (THAY ĐỔI) TẾ BÀO DO VIÊM:
Dưới tác đọng của các độc tố và men tiết ra từ các vi sinh vật sẽ làm cho tế
bào biểu mô biến đổi mà ta có thể quan sát được. Mức độ biến đổi còn tùy thuộc
vào đặc tính, số lượng vi khuẩn, thời gian ảnh hưởng và đáp ứng đề kháng của tế
bào. Các tế bào trưởng thành đề kháng tốt hơn các tế bào non, tế bào trụ (tuyến)
đề kháng kém hơn cả.
Quá trình viêm nhiễm làm cho tế bào biểu mô thay đổi rất nhiều đôi khi
làm cho ta dễ nhầm với tế bào ung thư hay các tổn thương nội biểu mô (tế nào
nghịch sản). Bởi vậy, chúng ta cần phải nắm rõ và tốt hơn cả là phải điều trị
viêm nhiễm với phương châm “chính xác hơn là nhanh vội”. Việc chẩn đoán tế
20
- Xem thêm -