Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hình ảnh nước nhật bản qua tiểu thuyết “xứ tuyết” của yasunari kawabata...

Tài liệu Hình ảnh nước nhật bản qua tiểu thuyết “xứ tuyết” của yasunari kawabata

.PDF
95
1039
66

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BỘ MÔN NGỮ VĂN  GIANG THỊ MỊ MSSV: 6095795 HÌNH ẢNH NƯỚC NHẬT BẢN QUA TIỂU THUYẾT “XỨ TUYẾT” CỦA YASUNARI KAWABATA Luận văn tốt nghiệp đại học Ngành Ngữ Văn – Khóa 2009-2013 Cán bộ hướng dẫn: GV. TRẦN VŨ THỊ GIANG LAM Cần Thơ, năm 2013 -0- ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3. Mục đích, yêu cầu 4. Phạm vi nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ THỜI ĐẠI, TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM 1.1. Bối cảnh xã hội và tình hình văn học Nhật Bản từ thời Minh Trị đến thời Chiêu Hòa 1.1.1. Bối cảnh lịch sử 1.1.2. Tình hình văn học 1.2. Cuộc đời và quá trình sáng tác của Yasunari Kawabata 1.2.1. Giai đoạn thứ nhất từ 1899-1930 1.2.2. Giai đoạn thứ hai từ 1930-1949 1.2.3. Giai đoạn thứ ba từ 1949-1972 1.3. Đôi nét về tác phẩm “Xứ tuyết” 1.3.1. Hoàn cảnh sáng tác 1.3.2. Tóm tắt tác phẩm CHƯƠNG 2: HỆ THỐNG HÌNH ẢNH ĐẤT NƯỚC NHẬT BẢN VÀ GIÁ TRỊ CỦA CHÚNG QUA TIỂU THUYẾT “XỨ TUYẾT” 2.1. Thực trạng xã hội Nhật Bản từ thời Minh Trị đến thời Chiêu Hòa qua tác phẩm “Xứ tuyết” 2.2. Thiên nhiên và phong tục tập quán 2.2.1. Hình ảnh thiên nhiên 2.2.2. Phong tục tập quán -1- 2.3. Tính cách con người Nhật Bản 2.3.1. Nhân vật Shimamura 2.3.2. Nhân vật Komako 2.2.3. Nhân vật Yoko 2.4. Những cảm thức thẩm mĩ ca ngợi cái Đẹp của Nhật Bản 2.5. Giá trị của hệ thống hình ảnh nước Nhật Bản qua tiểu thuyết “Xứ tuyết” 2.5.1. Giá trị hiện thực 2.5.2. Giá trị nhân đạo 2.5.3. Giá trị thẩm mĩ PHẦN KẾT LUẬN -2- PHẦN MỞ ĐẦU -3- 1. Lý do chọn đề tài Nhắc đến Nhật Bản (tiếng Nhật gọi là Nihon hay Nippon) mọi người đều nghĩ ngay đến đất nước mặt trời mọc với áo kimono, hoa anh đào,… và cũng sẽ không thể phủ nhận những giá trị tinh thần mà nó đã đem lại cho người dân nơi này rộng hơn nữa là toàn nhân loại. Cùng với một nền văn hóa đa dạng đậm đà màu sắc dân tộc, Nhật Bản còn được biết đến với một nền văn học phong phú và độc đáo có thể so sánh với các nền văn học lớn trên thế giới như Nga, Pháp, Trung Quốc,… Có thể nói như vậy không chỉ dựa vào bề dày lịch sử mà còn dựa vào những giá trị vật chất lẫn tinh thần cũng như lượng thông tin mà chúng mang lại ẩn chứa một chất gì đó rất đặc sắc, rất riêng của đất nước Nhật Bản. Cuộc Duy Tân Minh Trị năm 1868 đã làm đất nước Nhật Bản thay đổi về nhiều mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa,… trong đó nền văn học có sự thay đổi đặc biệt sâu sắc. Với sự xuất hiện của nhiều nhà văn xuất sắc: Mori Ogai, Ryunosuke Akutagawa, Mishima Yukio,… đem đến cho văn học một diện mạo mới cả về nội dung lẫn hình thức. Nhưng nổi lên trên nền văn học giai đoạn này vẫn là Yasunari Kawabata. Với nhiều tác phẩm có giá trị, ông đã vinh dự nhận giải Nobel văn chương vào năm 1968, trong đó tác phẩm gây tiếng vang hơn cả là tiểu thuyết “Xứ tuyết”. Tác phẩm ra đời thu hút một số lượng lớn đọc giả không chỉ ở phương diện nội dung mà còn ở nghệ thuật. Nó không chỉ đơn giản nói đến cuộc hành trình của một anh trai nơi thành thị đến một vùng xa xôi hẻo lánh mà nó còn thể hiện rõ nét hiện thực của đất nước Nhật Bản thời bấy giờ. Qua tác phẩm, ta sẽ càng hiểu rõ hơn về thiên nhiên, về tính cách con người, về văn hóa,… của xứ sở hoa anh đào; hiểu rõ hơn về những giá trị cũng như thông điệp mà tác phẩm mang lại. Đồng thời, ta có thể thấy được ý nghĩa rất quan trọng của tác phẩm trong cuộc sống tinh thần của người dân Nhật Bản. “Xứ tuyết” là một tác phẩm lớn và có giá trị về nhiều mặt nhưng ở đây người viết chỉ đi tìm hiểu một khía cạnh của tác phẩm đó là “Hình ảnh nước Nhật Bản qua tiểu thuyết “Xứ tuyết” của Yasunari Kawabata”. Những vấn đề của nước Nhật từ hiện thực xã hội, tính cách con người đến thiên nhiên hay phong tục tập quán đều được thể hiện một cách khá rõ nét qua tác phẩm này. Đây là một đề tài hay và có ý nghĩa giúp người viết học hỏi được nhiều điều và hiểu rõ hơn về đất nước cũng như văn hóa Nhật Bản. -4- 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Kawabata là một nhà văn nổi tiếng, được giải thưởng Nobel văn chương năm 1968 và được đánh giá cao vì những đóng góp của ông. Tác phẩm của ông được nhiều người biết đến và dịch ra thành nhiều tiếng trên thế giới. Đọc giả Việt Nam đến với những tác phẩm của Kawabata chỉ sau một năm ông nhận giải. Về dịch thuật, ngay từ năm 1969 một số bản dịch tác phẩm của ông đã được giới thiệu: Tiếng rền của núi hay Ngàn cánh hạc (Vũ Thư Thanh dịch), Thủy Nguyệt (Chu Sỹ Hạnh dịch), Nốt ruồi (Mai Dzam dịch) đều được đăng trên Tạp chí Văn, Sài Gòn số 122 năm 1969; Vùng băng tuyết (Chu Việt dịch) do Nhà xuất bản Trình bày in năm 1969. Đó là những tác phẩm dịch đầu tiên của Kawabata xuất hiện ở nước ta. Từ những năm bảy mươi trở đi, đặc biệt sau ngày đất nước thống nhất cho đến những thập niên cuối thế kỷ XX, số lượng tác phẩm đủ các thể loại của Kawabata đến với bạn đọc cả nước: Rập rờn cánh hạc (Nguyễn Tường Minh dịch, Nhà xuất bản Sông Thao, 1970), Vùng băng tuyết (Giang Hà Vy dịch, Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, 1988), Cố đô (Thái Văn Hiến dịch, Nhà xuất bản Hải Phòng, 1988), Người đẹp say ngủ (Vũ Đình Phòng dịch, Nhà xuất bản Văn học, 1990),… Những năm đầu thế kỷ XXI, một số tác phẩm của Kawabata do Hoàng Long, Đào Thị Thu Hằng, Mai Kim Ngọc, Nhật Chiêu, Lê Huy Bắc và một số tác giả khác dịch được đăng trên các báo, tạp chí hoặc xuất bản thành tập như: Tuyển tập Y.Kawabata (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2001), Tuyển tập tác phẩm Yasunari Kawabata (Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm văn hóa Đông – Tây, 2005). Một số tạp chí, báo như Văn nghệ, Quân đội, Văn học nước ngoài,… cũng đăng tải những truyện của Y.Kawabata. Về nghiên cứu, năm 1969, nhà văn Kawabata đã xuất hiện qua một số bài nghiên cứu, giới thiệu chung về cuộc đời và sự nghiệp. Lưu Đức Trung với công trình “Yasunari Kawabata, cuộc đời và tác phẩm” do Nhà xuất bản Giáo dục phát hành. Đây là một chuyên luận nghiên cứu chuyên sâu về cuộc đời và văn nghiệp của ông. Cùng năm này, Vũ Như Thanh một du học sinh người Việt Nam ở Nhật Bản cũng viết bài “Yasunari Kawabata, cuộc đời và sự nghiệp” in trên Tạp chí Văn, Sài Gòn (1969). Bàn về vấn đề liên quan đến nghệ thuật kể chuyện của Kawabata. Lưu Đức Trung viết bài “Thi pháp tiểu thuyết Yasunari Kawabata, nhà văn lớn của Nhật Bản” in trên Tạp chí Văn học số 9 nhân dịp kỉ niệm 100 năm sinh của Yasunari Kawabata (1899-1999). Cũng bàn về vấn đề này trong “Kawabata – con mắt nhìn thấu cái đẹp” -5- của Fedorenko do Trần Thái Hà dịch từ tiếng Nga và in trên tạp chí Văn học nước ngoài số 4 năm 1999. Fedorenko cho rằng “Kinh nghiệm nghệ thuật của Kawabata chịu ảnh hưởng rõ rệt của mĩ học Thiền luận, dựa vào suy niệm bên trong. Thiền nghĩa là bộc lộ tất cả sức mạnh tinh thần của mình đến độ trở thành “vô ngã”, hòa nhập vào cái tổng thể của thiên nhiên”, “ngôn ngữ của Kawabata là mẫu mực của phong cách Nhật: ngắn gọn, súc tích, sâu xa, mang tính biểu tượng và ẩn dụ kì diệu. Chất thơ trong văn xuôi, nghệ thuật ngôn từ điêu luyện, suy nghĩ giàu chất nhân đạo, thái độ trân trọng của con người và thiên nhiên, đối với các truyền thống nghệ thuật dân tộc – tất cả những cái đó làm cho sáng tác của Kawabata trở thành hiện tượng xuất sắc trong văn học Nhật và văn học thế giới” [9; tr.128]. Trực tiếp bàn đến nghệ thuật kể chuyện của Kawabata là bài “Giới thiệu giải Nobel văn chương năm 1968” của Tiến sĩ Anders Osterling, người thay mặt Viện Hàn lâm đọc tại buổi lễ trao giải Nobel văn chương năm 1968. Một số bài viết khác cũng nói về diện mạo của Kawabata là bài của Đào Hữu Dũng “Chân dung Yasunari Kawabata – giải văn chương Nobel 1968” in trên Tạp chí Văn, Sài Gòn số 90 tháng 6/1969 hay “Yasunari Kawabata dưới nhãn quan phương Tây” của Chu Sĩ Hạnh in trên Tạp chí Văn, Sài Gòn năm 1969. Sau bài này là tiểu thuyết “Xứ tuyết” do Vũ Như Thanh dịch từ nguyên tác tiếng Nhật. Trên Tạp chí Văn, Sài Gòn số tháng 3 năm 1972 có bài phỏng dịch “Yasunari Kawabata, nhà văn Nhựt Bổn đầu tiên được lãnh giải thưởng văn học Nobel” của Mai Chưởng Đức. Yasunari Kawabata còn có mặt trong “Từ điển văn học” xuất bản năm 1983. Nhưng đáng tiếc là tác giả nổi tiếng này lại nằm trong phần bổ sung của từ điển với số dòng khá khiêm tốn chỉ có 600 dòng. Năm 1991, Nhật Chiêu với “Kawabata, người cứu rỗi cái Đẹp” được đăng trên Tạp chí Văn và trên tuần báo Văn Nghệ vào năm 1992 của Hội Nhà văn Việt Nam, Kawabata cũng được nhắc đến trong bài “Sáu gương mặt tiêu biểu của văn học hiện đại Nhật Bản” của tác giả Ngô Quân. Bài viết nhấn mạnh đến con đường tự sáng tạo nghệ thuật không bị ảnh hưởng của phương Tây và sự thành công hòa mình vào dòng chảy văn học thế kỉ XX. Đến năm 2000, nhà nghiên cứu Phan Nhật Chiêu tiếp tục viết “Thế giới Yasunari Kawabata (hay là cái đẹp: hình và bóng)” in trên Tạp chí Văn học số 3 nhấn mạnh đến vẻ đẹp, nỗi buồn, sự cô đơn,… dưới nhãn quan duy mĩ của Yasunari Kawabata. -6- Trong “Thi pháp tiểu thuyết của Yasunari Kawabata – nhà văn lớn Nhật Bản” in trên Tạp chí Nghiên cứu văn học số 9/1999, tác giả Lưu Đức Trung nhấn mạnh đến những yếu tố thuộc về đặc trưng thi pháp tiểu thuyết của Kawabata và điều đó được thể hiện rõ nét trong ba tác phẩm tiêu biểu (“Xứ tuyết”, “Ngàn cánh hạc” và “Cố đô”) với nhận định “Cái chất trữ tình sâu lắng, nỗi buồn êm dịu đó phải chăng Kawabata đã kế thừa từ trong dòng văn học “nữ tính” trong thời đại Heian (7941192), từ tác phẩm Genji Monogatari (Truyện Genji) của Murasaki Shikibu (9781044) đầy chất bi cảm” [14; tr.11]. “Đọc “Xứ tuyết” nghĩ về cái nhìn huyền ảo của Kawabata Yasunari” in trên tạp chí Văn, số 15 tháng 6/2001, Đào Ngọc Chương đã giải thích cái nhìn huyền ảo của nhà văn trong tác phẩm. Theo bài viết, yếu tố huyền ảo hầu như bàng bạc trong tác phẩm và được thể hiện qua những yếu tố như: tuyết, gió, lửa,… Bài viết của Hà Thanh Vân “Từ Murasaki đến Kawabata” trong cuốn Văn hóa, văn học – Từ một góc nhìn do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội in năm 2002 là một cái nhìn mang tính tổng thể về Kawabata trong dòng chảy văn học Nhật Bản. Nói về xây dựng nhân vật như đối tượng phản ánh hay phương thức tự sự trong tác phẩm của Kawabata, Đỗ Thu Hà đề cập đến trong tham luận “Cái đẹp qua hình ảnh của người phụ nữ qua tác phẩm của Yasunari Kawabata và R. Tagor” tại hội thảo 30 năm hợp tác Việt Nam – Nhật Bản vào năm 2003. Bàn về không gian và thời gian nghệ thuật trong những sáng tác của Kawabata, Khương Việt Hà đề cập đến trong “Thủ pháp tương phản trong truyện “Người đẹp say ngủ” (Nemureru Buo) của Yasunari Kawabata” đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 1 năm 2004. Với bài “Kiểu nhân vật “lữ khách đi tìm cái đẹp trong tác phẩm của Y.Kawabata” được in trên Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á số 3 tháng 5/2004, Đào Thị Thu Hằng đã thống kê và chỉ ra các loại nhân vật lữ khách đi tìm cái đẹp trong nhiều phẩm của Kawabata. In trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học (tháng 11/2005) “Yasunari Kawabata – Người lữ khách muôn đời đi tìm cái đẹp”, Nguyễn Thị Mai Liên cũng nhấn mạnh đến cái Đẹp mà Kawabata phản ánh trong tác phẩm với các tiêu chí: khiêm nhường, thanh tao, trong sáng, thanh xuân, hài hòa, u buồn và hư ảo. Cùng đăng trên tạp chí này nhưng vào số 7/2005 là “Yasunari Kawabata giữa dòng chảy Đông – Tây” của Đào Thị Thu Hằng. Theo bài này, những tác phẩm của -7- Kawabata vừa mang những đặc điểm phương Đông vừa đan cài những yếu tố hiện đại của phương Tây và ông chính là người xây cầu nối giữa hai bờ Đông – Tây. “Yếu tố kỳ ảo trong sáng tác của Y.Kawabata, nhìn từ phương thức biểu hiện” in trên Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 9 tháng 11/2006, Hà Văn Lưỡng chỉ ra những giấc mơ, các sự vật siêu thực là những biểu hiện của cái kỳ ảo trong sáng tác của Kawabata. Chúng đặt trong mối quan hệ với các yếu tố thực để tạo nên một môi trường thẩm mĩ nghệ thuật có sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, nó là những yếu tố nghệ thuật mang vẻ đẹp độc đáo của phương Đông gắn với tư duy nghệ thuật và thi pháp của nhà văn. Năm 2007, Đào Thị Thu Hằng với công trình nghiên cứu khá đồ sộ về “Văn hóa Nhật Bản và Yasunari Kawabata”, trong đó đề cập đến tác giả và tác phẩm dưới hình thức liệt kê sơ lược, sau đó là công việc phân tích dẫn chứng làm rõ cho vấn đề nghệ thuật kể chuyện của nhà văn Kawabata mà tác giả này đang tìm hiểu. Cũng trong công trình nghiên cứu này, tác giả Thu Hằng đã có một phần dành cho việc so sánh yếu tố huyền ảo trong toàn bộ tác phẩm của Kawabata với Marquez trên các phương diện như thời gian, không gian, giọng điệu và nhịp điệu kể chuyện,... Nhìn chung, đã có nhiều công trình nghiên cứu về tác giả, về phong cách cũng như đi vào tìm hiểu một số tác phẩm của Yasunari Kawabata, đồng thời khẳng định giá trị, ảnh hưởng mà tác phẩm “Xứ tuyết” mang lại. Nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu đến “Hình ảnh nước Nhật Bản qua tiểu thuyết “Xứ tuyết” của Yasunari Kawabata”. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu kể trên cũng có những ý nghĩa nhất định cung cấp nhiều thông tin bổ ích và là kiến thức nền tảng giúp người viết nghiên cứu đề tài này được tốt hơn. Vì vậy, người viết hi vọng đề tài này sẽ đóng góp một phần nhỏ vào tiến trình nghiên cứu về Kawabata và tác phẩm của ông. 3. Mục đích, yêu cầu Thực hiện đề tài này giúp tăng sự hiểu biết khi thực hiện một đề tài và kỹ năng nghiên cứu cho người viết. Ngoài ra, còn những mục đích: Qua tác phẩm, hiểu rõ hơn về đất nước này trong một giai đoạn cụ thể, hiểu thêm được về đất nước, con người Nhật Bản. Hiểu rõ hơn về tác giả, tác phẩm để làm nổi bật lên những vấn đề cốt lõi khi thực hiện đề tài này. Thấy rõ hơn ý nghĩa, thông điệp mà tác giả muốn thể hiện qua tác phẩm. -8- Với những mục đích đó, có những yêu cầu đối với người viết như sau: Người viết phải tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác để nắm được những nét chính về tác giả, từ đó có thể hiểu rõ hơn về tác giả. Trong suốt quá trình nghiên cứu, yêu cầu đặt ra đối với người viết là phải xác định được vấn đề mà đề tài đưa ra, từ đó tìm hướng đi đúng và phù hợp nhất để làm nổi bật lên vấn đề được nghiên cứu. Đề tài cũng yêu cầu người viết tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, bối cảnh xã hội để hiểu thêm về hiện thực nước Nhật giai đoạn này có gì liên quan đến hiện thực của tác phẩm; những vấn đề khác như phong tục tập quán hay thiên nhiên có liên quan gì đến tác phẩm hay không. Qua đó, người viết rút ra được những ý nghĩa và giá trị của vấn đề được nghiên cứu đối với tác phẩm cũng như xã hội. 4. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài này là “Hình ảnh nước Nhật Bản qua tiểu thuyết “Xứ tuyết” của Yasunari Kawabata” nên đối tượng nghiên cứu và tìm hiểu chủ yếu là tác phẩm “Xứ tuyết”. Về văn bản tác phẩm, người viết dựa theo bản dịch của Ngô Văn Phú và Vũ Đình Bình theo bản tiếng Pháp “Pay de neige” của Armel Guerne và Bunkichi Fujimori, bản dịch được in trong Tuyển tập Yasunari Kawabata do Nhà xuất Bản Hội Nhà văn, Hà Nội xuất bản năm 2001. Người viết cũng nghiên cứu một số công trình nghiên cứu về tác giả, tác phẩm được đề cập từ nhiều nguồn thông tin khác nhau trên sách, tạp chí, internet,.... Về nội dung, người viết tập trung đi vào khai thác những đặc điểm về các hình ảnh được thể hiện và những hình ảnh được chọn chủ yếu là những hình ảnh tiêu biểu trong tác phẩm. Từ đó, người viết đã rút ra được những ý nghĩa của chúng đối với tác phẩm về nhiều mặt. 5. Phương pháp nghiên cứu Để tiến hành nghiên cứu, người viết phải đáp ứng được yêu cầu của đề tài trên nhiều bình diện khác nhau và làm rõ vấn đề qua việc khảo sát, tìm hiểu tác phẩm một cách toàn diện. Người viết cũng vận dụng phương pháp lịch sử xã hội trong quá trình thực hiện đề tài này, để có thể hiểu rõ hơn về thời đại mà tác giả sinh sống cũng như thời điểm tác phẩm ra đời. -9- Hệ thống và khái quát hóa lại các hình ảnh trong tiểu thuyết “Xứ tuyết”. Từ đó, người viết đi vào khái quát thành những luận điểm, luận cứ. Đó là cơ sở để đi sâu vào việc phân tích chúng cũng như rút ra những nhận định và xác định ý nghĩa của chúng đối với tác phẩm. Đồng thời có sự so sánh với những tác phẩm khác hoặc một vấn đề có liên quan để giúp cho tiểu thuyết này thêm sáng tỏ và nổi bật. Người viết sử dụng tổng hợp những phương pháp cơ bản như: phân tích, bình luận, chứng minh, tổng hợp,… nhằm làm sáng tỏ vấn đề ở cả nội dung và nghệ thuật. Cuối cùng, người viết cũng vận dụng những hiểu biết của bản thân về tác phẩm trong quá trình học tập, nghiên cứu để đưa ra những nhận xét, đánh giá về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm để hoàn thành đề tài này. - 10 - PHẦN NỘI DUNG - 11 - CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ THỜI ĐẠI, TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM 1.1. Bối cảnh xã hội và tình hình văn học Nhật Bản từ thời Minh Trị đến thời Chiêu Hòa 1.1.1. Bối cảnh lịch sử Ở Nhật Bản, sau khi chính quyền Tokugawa bị xóa bỏ, ngày 03/01/1868 chính phủ mới của Thiên hoàng Minh Trị (Mâygi – Meiji ) được thành lập. “Về thực chất, việc “khôi phục quyền lực của Thiên hoàng” (hay cuộc trung hưng của Thiên hoàng Mâygi, như các nhà sử học Âu – Mĩ thường nói về sự kiện 1968) là một cuộc cách mạng tư sản. Bởi vì, nó mở đường cho quan hệ tư bản chủ nghĩa phát triển và thắng lợi ở Nhật Bản. Tuy nhiên đây là cuộc cách mạng không triệt để, chưa hoàn thành” [9; tr.87]. Dù vậy, không ai có thể phủ nhận những thành quả mà cuộc Duy tân của chính quyền Minh Trị đã mang lại về: chính trị, kinh tế, giáo dục, ngoại giao,… nhằm chuẩn bị cơ sở cần thiết cho giai đoạn phát triển tiếp theo là bảo vệ và xây dựng đất nước. Tóm lại, đây là thời kì đất nước Nhật Bản có sự thay đổi về nhiều mặt khi cuộc Duy tân diễn ra, thúc đẩy cho quá trình biến đổi của Nhật Bản biến đổi sau này. Ở đây, chúng tôi chỉ khảo sát giai đoạn có liên quan đến cuộc đời tác giả cũng như sự ra đời của tác phẩm “Xứ tuyết”. Thời kì Minh Trị nước Nhật ngày càng chìm đắm trong quá trình tư sản hóa, mâu thuẫn trong nước tăng cao và nhiều phong trào đấu tranh nổ ra. Để đối phó, chính phủ Thiên hoàng ban hành Hiến pháp mới vào năm 1889 song mục tiêu vẫn là củng cố chế độ quân chủ. Hiến pháp dành cho Thiên hoàng quyền hạn rất lớn, chẳng khác gì Hoàng đế Đức. Đây là bản hiến pháp đầu tiên ở châu Á, nó cũng đã xác định chế độ quân chủ lập hiến ở Nhật. Về thực chất, đó là sự liên minh tư sản – địa chủ, nông dân và giai cấp vô sản không được quyền lợi gì, đây cũng là một bước tiến mới làm thay đổi bản chất ban đầu của chế độ này. Nền kinh tế Nhật Bản thời kì này có sự phân bố không đồng đều thể hiện qua việc phân bố công nhân. Những năm 1890, các tổ chức của giai cấp công nhân trưởng thành nhanh chóng. Năm 1906, Đảng xã hội chủ nghĩa Nhật được thành lập, dù bị đàn áp nhưng vẫn tiếp tục hoạt động và vẫn đẩy mạnh phong trào, quy mô các cuộc đấu tranh cũng ngày càng lớn dần lên. Bên cạnh đó, chính sách cải cách địa tô cũng không giúp người dân thoát khỏi khó khăn và bất mãn với chính phủ. Từ 1871-1874 có - 12 - 80 lần nông dân bạo động, đến ngày 04/01/1877 chính phủ buộc phải hạ mức thuế xuống còn 2,5%. Sang những năm 80, họ tập hợp trong Đảng “Dân nghèo” và vẫn tiếp tục bạo động. Nhìn chung, phong trào công nhân, nông dân và các tầng lớp khác chưa có đường lối và sự lãnh đạo thống nhất nhưng đã có những bước mới trong đấu tranh chống áp bức, bóc lột của bọn địa chủ, tư sản. Ngày 01/8/1894, chiến tranh Trung-Nhật nổ ra, thắng lợi hoàn toàn về tay Nhật cùng với việc Nhật tham gia vào “liên minh tám nước” xâu xé Trung Quốc đã giúp Nhật chiếm được những khoản lợi nhuận tạo thời cơ thuận lợi phát triển nền kinh tế. Công nghiệp nặng phát triển và trở thành mũi nhọn, nhất là luyện kim. Thời kì này được gọi là thời kì cách mạng công nghiệp Nhật Bản và cũng là lúc Nhật chuyển dần sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc bằng việc hình thành các công ti độc quyền, sản xuất và kinh doanh nhiều ngành khác nhau. Ngành sản xuất vải lụa từ 66 công ti (năm 1907) chỉ còn 7 công ti (năm 1913), tư bản ngân hàng cũng được tập trung nhanh chóng năm 1907 là 8 ngân hàng, chiếm 51% tổng số kim ngạch trong 170 ngân hàng. Với tốc độ phát triển kinh tế như vậy, Nhật cũng thay đổi chính sách ngoại giao để chuẩn bị cho mưu đồ bành trướng ra bên ngoài của mình. Tháng 7/1902, hiệp ước đồng minh giữa hai nước Nhật-Anh được kí kết, đây là “hiệp định quân sự bình đẳng lần đầu tiên được kí kết giữa một nước Tây-phương và một nước Á-châu” [8; tr.163]. Ngày 10/02/1904, Nhật chính thức tuyên chiến với Nga và kết thúc sau trận chiến Tsushima. Ngày 05/9/1905, hòa ước được kí kết. Đến đây Nhật đã đạt được mục tiêu đề ra từ buổi đầu lên ngôi của Thiên hoàng Minh Trị là độc lập, an ninh, bình đẳng với các nước phương Tây và tiến hành xâm chiếm thuộc địa. Năm 1910, Nhật Bản tuyên bố xóa bỏ nền độc lập, tự chủ của Triều Tiên, sáp nhập và đổi tên thành “Triều Tiên Tổng đốc phủ” và bổ nhiệm tổng đốc quân nhân để cai trị nơi này. Ngày 22/8/1910, vua Triều Tiên buộc phải kí văn kiện từ bỏ chủ quyền của mình và nhường cho hoàng đế Nhật. Đến đây việc thôn tính Triều Tiên đã hoàn tất về mặt thực tế và pháp lí. Theo bên cạnh đó là mối quan hệ ngày càng đi xuống của Mĩ và Nhật. Mùa hè năm 1912, Thiên hoàng Minh Trị băng hà, Đại Chính (Taisho) Thiên hoàng lên nối ngôi, lịch sử Nhật Bản bước sang giai đoạn mới. Với đường lối ngoại giao đã xác định, Nhật bước vào chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (1914) là điều không thể tránh khỏi. Ngày 23/8/1914, Nhật tuyên chiến với Đức và lợi dụng các nước khác đang trong cuộc chiến ở châu Âu, Nhật nhanh chóng bành trướng thế lực ở Trung - 13 - Quốc, buộc Trung Quốc phải lệ thuộc vào mình về kinh tế, chính trị và quân sự. Kết thúc chiến tranh Nhật đương nhiên ngồi vào ghế của những kẻ chiến thắng tại hội nghị Vecxây (1919) và hội nghị Washington (1921) để giành nhiều quyền lợi hơn. Trong nước, phong trào đòi quyền phụ nữ cùng các trào lưu tự do dân chủ diễn ra mạnh mẽ. Từ 1924-1926, thủ tướng Kato Takaaki đã đặc biệt thành công trong việc tổ chức nội các tập trung nhiều nhân tài và đại diện cho nhiều khuynh hướng cũng như mở đầu thời kì nội các chính đảng kéo dài 8 năm cho đến khi thủ tướng Inukai Tsuyoshi bị ám sát năm 1932. Vào cuối năm 1926, Thiên hoàng Đại Chính băng hà, Thái tử Hirohito lên ngôi đổi niên hiệu là Chiêu Hòa (Showa). Thiên hoàng mới gặp nhiều khó khăn vì từ sau khi thế chiến chấm dứt, Nhật phải đối mặt với nạn lạm phát, khủng hoảng kinh tế liên tiếp xảy ra; đến năm 1929 khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nổ ra thì Nhật càng khốn đốn. Năm 1931, cuộc khủng hoảng đạt đến đỉnh cao và đây cũng là cơ hội cho bọn tư bản đầu cơ, bọn tài phiệt làm giàu và tập trung tư bản đẩy mạnh sản xuất. Trong bối cảnh đó chủ nghĩa phát xít Nhật ra đời. Tháng 12/1931, giới quân phiệt đưa người của “Chính-hữu-hội” lên làm thủ tướng. Phong trào đấu tranh chống phát xít diễn ra rầm rộ và được thể hiện trong cuộc bầu cử Quốc hội ngày 20/02/1936, Hội chính hữu do có liên quan với phát xít chỉ được 171 ghế, Đảng dân chủ được 205 ghế, đặc biệt Đảng dân chủ xã hội lần đầu tiên được 18 ghế. Ngày 26/02/1936 nhóm phát xít tiến hành đảo chính đến ngày 29/02 bị thất bại nhưng chủ nghĩa phát xít vẫn tồn tại và cả chính quyền cũng dần bị phát xít hóa. Giai cấp tư sản vì muốn chấm dứt cuộc đấu tranh nội bộ để tổ chức lực lượng, thực hiện âm mưu xâm lược ra bên ngoài và đàn áp phong trào cách mạng nên cần phải có một chính phủ không liên hệ với các chính đảng. Vì lẽ đó, tướng Hirota Koki được cử làm thủ tướng, tướng Togo làm bộ trưởng lục quân. Tới đây, thời kì nội các với các chính đảng chấm dứt, Nhật Bản bước vào con đường phát xít hóa. Năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Nhật chịu tổn thất nặng nề nhưng phe chủ chiến trong quân Nhật vẫn không đầu hàng. Chỉ sau những thất bại liên tiếp, ngày 09/8/1945 Thiên hoàng mới chấp nhận đầu hàng vô điều kiện. Ngày 15/8/1945, Nhật Bản chấp nhận tuyên bố Postđam, chiến tranh Thái Bình Dương kết thúc với những tổn thất nặng nề. Để khôi phục lại đất nước, ngày 31/11/1946, Hiến pháp mới được công bố thay thế cho Hiến pháp Minh Trị (1889), thủ tướng trong thời gian đất nước bị nhiều nước kiểm soát này là Yoshida Shigeru đứng đầu Đảng Tự Do. - 14 - Điểm đặc biệt trong “Tuyên ngôn hòa bình” điều 9 có quy định “Nhật Bản không duy trì hải, lục, không quân và các lực lượng chiến đấu khác, không công nhận quyền tham gia chiến tranh với bất cứ nước nào” [8; tr.172]. Các chính đảng bắt đầu phát triển: Đảng Tự do, sau đổi thành Đảng Dân chủ,... Năm 1955, hai đảng này sáp nhập thành Đảng Tự do Dân chủ Nhật Bản và thay nhau cầm quyền liên tiếp (từ 1948 đến tháng 8/1993). Đảng Cộng sản giành được quyền hoạt động hợp pháp từ năm 1946 và trở thành một trong những chính đảng có ảnh hưởng nhất trong nhân dân. Cải cách kinh tế cũng làm cho diện mạo kinh tế có những khởi sắc. Chỉ trong vòng một năm từ năm 1959 đến năm 1960 Nhật đã làm cả thế giới phải kinh ngạc gọi đó là “sự thần kì” kinh tế khi từ 10% tăng lên 15,4%. Cũng từ đây, Nhật đã vượt xa nhiều nước để trở thành cường quốc kinh tế đứng thứ hai sau Mĩ. Nhật Bản ngày nay với một đường lối chính trị đúng đắn đã có những thành tựu đáng kể góp phần nâng cao địa vị của mình trên trường quốc tế. Nhật Bản từ thời Minh Trị đến thời Chiêu Hòa đã trải qua biết bao sự kiện có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của đất nước về nhiều mặt. Là một nước bại trận trong cuộc chiến và có những thiệt hại về người và của, nền kinh tế bị tàn phá nghiêm trọng nhưng đất nước Nhật Bản bằng sự kiên trì, sức mạnh phi thường đã đưa đất nước thoát ra khỏi bóng đen u ám của sự kiệt quệ. Bằng sự nỗ lực hết mình, họ đã tự đưa đất nước mình thoát khỏi tình trạng của một nước bị quản chế vươn lên thành cường quốc kinh tế đứng thứ hai sau Mĩ và được trả độc lập hoàn toàn. 1.1.2. Tình hình văn học Song song với quá trình Duy tân về nhiều mặt, văn đàn Nhật cũng mở rộng cửa đón “gió Tây” lồng lộng thổi vào với nhiều trào lưu tư tưởng văn học: chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên,… Vào đầu thời Minh Trị, những tiểu thuyết lưu hành thường là tiểu thuyết dịch hay tiểu thuyết chính trị. Bước qua thập niên 1880, cơ sở của nền văn học cận đại Nhật Bản dựa trên chủ nghĩa tả thực hay chủ nghĩa hiện thực bắt đầu hình thành. Nó xuất phát từ nhu cầu diễn tả một cách khách quan, trung thực đời sống con người và thiên nhiên. Người đặt viên đá đầu tiên cho chủ nghĩa hiện thực trong văn học cận đại Nhật Bản là Tsubouchi Shoyo (1859-1935). Ông đề xướng, khi sáng tác người viết văn phải tôn trọng thái độ tâm lý khách quan và phủ nhận lập trường luân lí “khuyến thiện - 15 - trừng ác” (khuyên làm điều thiện, khiển trách điều ác) thường thấy trong văn học trước đó. Tác phẩm điển hình cũng là cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên và viết theo thể văn nói là “Ukigumo” (Phù-vân, tức “Mây trôi”, năm 1887-1889) của tiểu thuyết gia Futabatei Shimei (1868-1909). Chủ đề của tác phẩm là ảnh hưởng chính sách Âuhóa từ đầu thời Minh Trị đối với đời sống tình cảm và xã hội của thanh niên, thiếu nữ đương thời đồng thời phê phán xã hội Nhật đầy tham vọng lúc đó. Những nhà văn trong phái tả thực tổ chức thành nhóm Kenyusha (Nghiên-hữu-xã), và cho đăng tải những sáng tác của mình trên tạp chí mang tên hóm hỉnh là Garakuta Bunko (Ngã-lạcđa Văn-khố). Về văn vần, do ảnh hưởng của thơ phương Tây, một lối thơ mới không bị ràng buộc bởi những thể thơ trước đó bắt đầu xuất hiện trên thi đàn. Tiêu biểu cho những nhà thơ mới thời kì đầu là Toyama Masakazu (1848-1900). Ngoài ra, Masaoka Shiki (1867-1902) là dòng dõi samurai cũng đóng góp vào việc đổi mới thơ Haiku và việc phục hồi thơ Waka làm theo lối Manyo. Sau chiến tranh Nhật-Thanh, phong trào văn học đả phá truyền thống, hình thức và đạo đức cũ để đi tìm sự giải phóng của bản ngã qua các khuynh hướng cá nhân, chủ quan và tình cảm đã đưa đến sự hình thành của chủ nghĩa lãng mạn. Đại biểu cho trường phái này có nhà văn Kitamura Tokoku (1868-1894) cùng những người đóng góp cho tạp chí Bungakkai (Văn-học-giới), nữ văn sĩ Higuchi Ichiyo (18721896), hai nhà thơ Shimazaki Toson (1872-1943) và Yosano Akiko của nhóm Myojo (Minh-tinh). Đặc biệt, nữ văn sĩ có tài Higuchi Ichiyo, dù số phận hẩm hiu và sống trong cảnh nghèo khó nhưng vẫn có được những tác phẩm đầy chất lãng mạn, sâu sắc như: “Takekurabe” (Lớn lên), tập truyện ngắn “Nigorie” (Vịnh đáy bùng) và “Jusan ya” (Đêm thứ mười ba),… Hay Shimazaki Toson làm thơ trước khi viết tiểu thuyết, ông đề xướng trong tiểu thuyết Nhật một khuynh hướng hiện thực phê phán bắt nguồn từ chủ nghĩa tự nhiên và những nhà viết truyện đại chúng với tiểu thuyết “Thất ước” (1906) là một sự kiện văn học, về sau ông viết những tiểu thuyết tự truyện bi quan ít đề cập đến vấn đề xã hội. Cuối những năm 20, ông tiến gần quan điểm duy vật lịch sử trong tác phẩm xuất sắc “Trước khi tảng sáng” (1929-1935) nói về những thay đổi xã hội trong và sau cuộc canh tân Minh Trị thông qua câu chuyện gia đình mình. Do ảnh hưởng của trường phái tự nhiên chủ nghĩa tiếp thu từ Pháp và Nga sau chiến tranh Nhật-Nga, chủ nghĩa tự nhiên chiếm vị trí chủ lưu trên văn đàn vào - 16 - cuối thời Minh Trị. Nếu chủ nghĩa tả thực tìm cách diễn tả một cách khách quan hiện thực thì chủ nghĩa tự nhiên chú trọng đến việc phân tích con người và xã hội để đi tìm chân lý. Nó nhấn mạnh về hiện thực, về thực tế. Ý niệm này hoàn toàn nghiêm túc trong mục đích và nó thể hiện toàn bộ những cảm xúc của con người, cả cao quý lẫn không cao quý. Điển hình cho trường phái này là Kunikida Doppo (1871-1908), Tayama Katai (1871-1930), Tokuda Shusei (1871-1943). Về thơ, hai tập “Kanashiki gangu” (Món đồ chơi buồn) và “Ichiaku no suna” (Một nắm cát) của Ishikawa Takuboku (1885-1912) được nhiều người yêu thích. Vào cuối thời Minh Trị và là kết quả của ảnh hưởng châu Âu, khi số phận cá nhân hầu như đã trở thành câu chuyện thông thường trong văn học thì trên văn đàn nước Nhật lại xuất hiện sự tỏa sáng của hai ngôi sao là Mori Ogai (1862-1922) và Natsume Soseki (1867-1916). Mori Ogai là nhà văn viết tiểu thuyết và truyện ngắn cũng là nhà văn lớn đầu tiên trực tiếp thể nghiệm cuộc sống, tư duy và tình cảm châu Âu. Ông là người có công đưa vào văn học Nhật loại tiểu thuyết vừa; bắt đầu bằng truyện “Maihime” (Vũ nữ, 1980), tác phẩm mở đầu cho giai đoạn lãng mạn chủ nghĩa ngắn ngủi và thể loại tự truyện tiểu thuyết hóa (tiểu thuyết về cái tôi) rất phát triển trong văn học Nhật Bản. Khuynh hướng đấu tranh cho tự do cá nhân, chống gông cùm phong kiến cũng được thể hiện trong tiểu thuyết “Ngỗng trời” (1913). Từ 1912, những sáng tác của Mori Ogai hướng về lịch sử và mang tính chất bảo thủ, không còn mang tính hiện thực phê phán như xưa nữa. Natsume Soseki là một bậc thầy của hình thức văn học mới: viết tiểu thuyết hiện đại và đi đầu trong phong trào phục hưng văn học. Các tác phẩm của ông có bố cục chặt chẽ, nội dung giàu suy tưởng, tiểu thuyết “Wagahai wa neko de aru” (Tôi là con mèo, 1905-1906) được coi là tác phẩm châm biếm xã hội sâu sắc, ngoài ra còn một số tác phẩm như: “Kokoro” (Tấm lòng), “Kusamakura” (Vệ cỏ bên đường), “Botchan” (Cậu ấm),… Ông quan tâm đến những vấn đề cá nhân trong xã hội, những tác phẩm đầu tay của ông có đôi chút hương vị trào phúng nhưng về sau, ông càng ngày càng trở nên bi quan về vấn đề cá nhân giành được một chút hạnh phúc thực sự nào đó và quá trình cá nhân hóa trong ông đã đi xa đến mức trở thành đáng sợ. Sau chiến tranh Nga-Nhật và thế chiến thứ nhất, nền văn học cũng có nhiều biến đổi. Phái Shirakaba (Bạch hoa) quy tụ những cây viết trẻ tuổi, họ chủ trương tôn - 17 - trọng cá tính và đứng trên lập trường của chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa lí tưởng để nói lên những đau khổ, nội tâm của giới trí thức trong xã hội hiện đại. Những nhà văn trong nhóm này như: Shiga Naoya (1883-1971), Arishima Takeo (1878-1923),… bắt đầu lối viết “tiểu thuyết tự truyện”, trong đó, Shiga là người có ảnh hưởng lớn nhất. Các tác phẩm điển hình của văn phái này là: “Yujo” (Tình bạn) của Mushanokoji, “Wakai” (Hòa giải) của Shiga,… Ra đời sau phái này là một nhóm văn sĩ trẻ tuổi khác chịu ảnh hưởng của Natsume Soseki xuất bản một tạp chí văn học khác lấy tên là Shin shicho (Tân tư trào). Hai nhà văn tiêu biểu là Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) và Kikuchi Kan (18881948). Phái này đứng trên lập trường lí trí để phân tích tâm lí và nói lên những mâu thuẫn của hiện thực. Akutagawa một ngôi sao sáng trên văn đàn Nhật lúc bấy giờ, có thái độ bi quan và hoài nghi sâu sắc đối với cuộc sống, tư tưởng yếm thế khi tuyên bố “Đời người không có giá trị bằng một câu thơ của Beaudelaire” nên có lẽ vì vậy mà ông đã tự sát để kết thúc cuộc đời của mình; một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông là “Rashomon” (La sanh môn) đã được dựng thành phim và được giải Oscar dành chop him nước ngoài hay nhất. Vào những năm 1905-1915, trong số các nhà văn lớn thời kì này phải kể đến Yokomitru Riichi (1898-1947) và Yasunari Kawabata (1899-1972). Cả hai nhà văn đều theo khuynh hướng “cảm giác chủ nghĩa mới”, chống lại “trường phái vô sản” và “chủ nghĩa hiện thực dung tục”; họ đều là những bậc thầy về tiểu thuyết tâm lí. Yokomitru Riichi nhà viết tiểu thuyết, truyện ngắn và kịch, vào đời văn với những tượng trưng chủ nghĩa. Ông đứng đầu nhóm “cảm giác chủ nghĩa mới”, giữa những năm 20 phong cách của ông gần với hiện thực hơn như trong tiểu thuyết “Thượng Hải” nói về phong trào 30/5/1925 dẫn đến cách mạng Trung Quốc 19251927, cho đến những năm 30 ông chịu ảnh hưởng của Proust và Joyce. Yasunari Kawabata viết truyện ngắn và tiểu thuyết, được giải thưởng Nobel văn chương vào năm 1968. Khác với đa số nhà văn đương thời, ông có những quan điểm thẩm mĩ bắt nguồn từ những truyền thống cũ. Ông thiết tha bảo vệ những rung động của đời sống tình cảm, chống lại chủ nghĩa duy vật. Sáng tác của ông chủ yếu thể hiện nội tâm, thái độ xa lánh cuộc sống và có phần bảo thủ. Tác phẩm “Người vũ nữ ở Izu” (1926) của ông là tác phẩm đầu tiên điển hình cho phong cách ấn tượng chủ nghĩa - 18 - thể hiện bằng một ngôn ngữ nên thơ. Trong chiến tranh thế giới thứ II, ông sống cách biệt hẳn. Về văn học vô sản, được hình thành vào khoảng đầu năm 1920 song song với sự bành trướng của phong trào lao động và phong trào xã hội sau Thế chiến thứ nhất, nó lôi cuốn nhiều tác giả trẻ và đưa vào văn học những nhân vật mà các tác giả lớn ít chú ý như: nông dân, ngư dân, công nhân, những người lao động vất vả bị tư bản áp bức bóc lột. Nhiều nhà văn bên cạnh hoạt động viết văn còn tham gia các hoạt động chính trị và đã cho ra đời các tác phẩm: “Uminu ni ikuru hitobito” (Những người từ biển đến, 1926) của Hayama Yoshiki (1894-1945), “Kani kosen” (Tàu đánh cua) của Kobayashi Takigi (1903-1933), ngoài ra còn có nhà thơ nổi tiếng Nakano Shigeharu. Cơ quan ngôn luận của văn phái này là tạp chí Tanemaku hito (Người gieo hạt giống), ra đời năm 1921. Văn học đại chúng có hai cây bút đáng chú ý là Nakazato Kaizan (18851944) và Yoshikawa Eiji (1892-1962). Nakazato tác giả của “Daibosatsu toge” (Đèo Đại-bồ-tát), tác phẩm này được xem như là cuốn tiểu thuyết dài nhất trên thế giới (dài gấp 3 lần tiểu thuyết “Chiến tranh và hòa bình” của Lep-Nicôlai-Ê-Vich Tônxtôi). Yoshikawa viết tiểu thuyết lịch sử và truyện những nhà kiếm khách, nổi tiếng nhất là cuốn “Miyamoto Musashi” (Cung-bản Vũ-tạng). Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, tất cả những giá trị cổ truyền bị lung lay. Tư tưởng hòa bình chủ nghĩa và khuynh tả, kể cả chủ nghĩa cộng sản phát triển mạnh và ảnh hưởng đến hướng đi của văn học. Những nhà văn nổi tiếng trong hai cuộc chiến tranh thế giới như: Tanizaki và Kawabata vẫn theo hướng cũ; tuy nhiên cũng có nhiều nhà văn mới sáng tác của họ lại gắn với những phong trào nhằm thay đổi triệt để xã hội như Dazai Osamu, Abe Kobe hay Fumiko Hayashi,… Dazai Osamu (1009-1948) là hiện thân cho thế hệ thanh niên Đại chiến II, hoang mang trước sự tan vỡ của các lý tưởng truyền thống, phá các ước lệ đạo đức xã hội, tự hủy hoại những tình cảm thiêng liêng nhất và đánh vào những người thân thương, chán cuộc sống nên đắm mình vào những trụy lạc. Tác phẩm điển hình “Mặt trời lặn” (1947). Abe Kobe (sinh năm 1924) viết văn từ những năm 40. Ông viết tiểu thuyết tâm lí gần triết học nhân sinh, hiện thực lẫn hư cấu và đặt vấn đề số phận con người qua biểu tượng với tác phẩm “Những người phụ nữ cồn cát” (1962). - 19 -
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan