Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hiệu quả từ các gói chính sách của việt nam trong nỗ lực vượt qua khủng hoảng to...

Tài liệu Hiệu quả từ các gói chính sách của việt nam trong nỗ lực vượt qua khủng hoảng toàn cầu

.PDF
61
86
118

Mô tả:

Đ I H C Đ NG THÁP KHOA KINH T TÊN TIỂU LUẬN: HIỆU QUẢ TỪ CÁC GÓI CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM TRONG NỖ LỰC VƯỢT QUA KHỦNG HOẢNG TOÀN CẦU Nhóm SV thực hiện: G3-TCNH08A Giảng viên hướng dẫn: Hồ Thị Khánh Linh CAO LÃNH – 10/2009 TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ GVHD: H Th Khánh Linh LỜI NÓI ĐẦU Có thể nhận định rằng, nền kinh tế Việt Nam đang chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu manh nha từ nửa cuối năm 2007 cho đến nay. Không chỉ riêng Việt Nam, mà hầu hết các nước trên Thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU và các cường quốc công nghiệp khác đang phải nỗ lực không ngừng trong cuộc chiến chống lại một trong những cơn đại suy thoái khủng khiếp nhất của mọi thời đại. Khủng hoảng, suy thoái, lạm phát, thất nghiệp, phá sản, … đó là những cụm từ được nhắc đến nhiều nhất trên các phương tiện truyền thông đại chúng trong năm nay. Để đối phó với tình hình kinh tế đang ngày càng trở nên phức tạp hơn, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều gói chính sách nhằm đưa kinh tế của đất nước thoát khỏi cơn bão khủng hoảng, trở lại với mức tăng trưởng khá như kế hoạch tầm vĩ mô đã đề ra. Điều chỉnh về tài chính là việc làm cần thiết để tránh đặt toàn bộ gánh nặng lên bình ổn tỉ giá. Tuy nhiên, nếu phụ thuộc quá nhiều vào chính sách thắt chặt tiền tệ sẽ chỉ khiến cho thị trường tài sản suy yếu và gây rủi ro cho các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng cổ phần đã cho vay quá nhiều để đầu tư tài chính và bất động sản. Trong thời điểm hiện nay, chênh lệch do lạm phát giữa Việt Nam và các đối tác thương mại đã khiến cho tiền đồng tăng giá. Việc để mất khả năng cạnh tranh của đồng tiền quốc gia là một động thái không hề mong đợi trong thời điểm mức thâm hụt thương mại lên cao như vậy. Vậy những nỗ lực và động thái của Chính phủ và các nhà hoạch định chính sách trong việc cùng lúc giải quyết những vấn đề lớn của nền kinh tế ra sao? Và chúng đã phát huy tác dụng như thế nào? Trong khuôn khổ một bài tiểu luận kinh tế, chúng tôi xin được phép nêu ra những vấn đề chung nhất, mang tính khái quát nhất xoay quanh 3 nội dung chính: 1. Khủng hoảng tài chính toàn cầu. Những tác động của nó đến nền kinh tế Thế giới. 2. Khái quát tình hình kinh tế Việt Nam 2008-2009. --- G3.FB08A.DTHU --- TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ GVHD: H Th Khánh Linh 3. Các gói giải pháp của Chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát, kích cầu và bình ổn kinh tế giai đoạn 2008 – 2009. (Phần này chỉ đề cập đến hiệu quả các chính sách tiền tệ của Chính phủ). Trong quá trình thực hiện tiểu luận, nhóm đã được sự hướng dẫn, động viên chân thành của cô Hồ Thị Khánh Linh - cao học kinh tế, giảng viên khoa Kinh tế, hiện đang giảng dạy tín chỉ “Lý thuyết tài chính tiền tệ” cho lớp ĐHTCNH08A chúng em. Do hiểu biết còn hạn chế, cộng thêm điều kiện thời gian không cho phép, chắc chắn bài tiểu luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được sự góp ý từ quý thầy cô và các bạn. TP. Cao Lãnh, ngày 23 tháng 10 năm 2009 Thay mặt nhóm 3 – ĐHTCNH08A Nhóm trưởng Lương Việt Hoàng --- G3.FB08A.DTHU --- TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ GVHD: H Th Khánh Linh N HỮNG KÍ HIỆU VIẾT TẮT TRONG TIỂU LUẬN - TCTK - NHNN - NHTM - NCQLKTTƯ - VIR - ADB - BMI - IMF - EIU - WB - HA - SIV - FED - OECD : Tổng cục Thống kê : Ngân hàng Nhà nước : Ngân hàng thương mại : Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương : Vietnam Investment Review : Asian Development Bank : Business Monitor International Ltd. : International Monetary Fund : Economist Intelligence Unit : World Bank : Haver Analytics : Structured Inverstment Vehicle : Federal Reserve System : Organization for Economic Cooperation and Development --- G3.FB08A.DTHU --- TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ GVHD: H Th Khánh Linh CHƯƠNG I KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI I. NGUỒN GỐC PHÁT SINH KHỦNG HOẢNG Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 – 2009 là một cuộc khủng hoảng bao gồm sự đổ vỡ hàng loạt hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ trên quy mô lớn ở nhiều nước trên Thế giới, có nguồn gốc từ khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ diễn ra từ năm 2007. Ngòi nổ của cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng thứ cấp bất động sản tại Hoa Kỳ. Bong bóng nhà ở cùng với giám sát tài chính thiếu hoàn thiện của Hoa Kỳ đã dẫn tới một cuộc khủng hoảng tài chính ở quốc gia này từ năm 2007 và bùng phát mạnh từ cuối năm 2008. Thông qua quan hệ tài chính nói riêng và kinh tế nói chung mật thiết giữa Hoa Kỳ với nhiều nước trên Thế giới, dẫn tới những đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, làm suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên Thế giới. Một trong những tác nhân chính gây nên tình trạng khủng hoảng hiện nay là các ngân hàng thương mại (NHTM) và các tổ chức tài chính Mỹ thông qua hoạt động cho vay dưới tiêu chuẩn và nghiệp vụ chứng khoán hoá mà nhiều chuyên gia gọi là “Cỗ máy đầu tư cấu trúc” (Structured Investment Vehicle – SIV). Phương thức kinh doanh của các SIV là huy động vốn ngắn hạn thông qua việc phát hành thương phiếu (Commercial Paper) với lãi suất thấp để đầu tư vào các loại chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản (Asset-Backed Securities), đa số trường hợp là bất động sản với lãi suất cao. Như vậy, nhìn vào thực tế thì các NHTM đã huy động vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn vào một lĩnh vực khá nhạy cảm là bất động sản, mặc dù để đảm bảo khả năng thu hồi nợ họ đã bán các khoản cho vay này cho các tổ chức tài chính và đã để lại cho nền kinh tế, thị trường tài chính rủi ro rất lớn. Đó là rủi ro vỡ nợ khi giá của các tài sản dài hạn là bất động sản xuống thấp hơn giá trị của các khoản nợ ngắn hạn và rủi ro thanh khoản do việc đi vay ngắn hạn nhưng lại --- G3.FB08A.DTHU --- TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ GVHD: H Th Khánh Linh cho vay dài hạn. Rủi ro này sẽ tăng lên gấp bội trong điều kiện thiếu sự kiểm soát và giám sát của Chính phủ. II. DIỄN BIẾN CUỘC KHỦNG HOÁNG TÀI CHÍNH HOA KỲ Tháng 8 năm 2007, một số tổ chức tín dụng của Mỹ như New Century Financial Corporation phải làm thủ tục xin phá sản. Một số khác thì rơi vào tình trạng cổ phiếu của mình bị mất giá mạnh như Countrywide Financial Corporation. Nhiều người gửi tiền ở các tổ chức tín dụng này đã lo sợ và đến rút tiền, gây ra hiện tượng đột biến rút tiền gửi khiến cho các tổ chức đó càng thêm khó khăn hơn. Nguy cơ khan hiếm tín dụng hình thành. Từ Mỹ, rối loạn này lan sang các nước khác. Ở Anh quốc, ngân hàng Northern Rock bị chao đảo vì người gửi tiền xếp hàng dàitrước trụ sở công ty đòi rút tiền gửi của mình. Trước tình hình đó, Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Federal Reserve System – FED) đã tiến hành các biện pháp nhằm tăng mức độ thanh khoản của thị trường tín dụng như thực hiện nghiệp vụ thị trường mở mua vào các loại công trái Mỹ, trái phiếu cơ quan Chính phủ Mỹ. Tháng 9/2007, Cục dự trữ Liên bang tiến hành giảm lãi suất cho vay liên ngân hàng (Fed fund rates) từ 5,25% xuống còn 4,75%. Trong khí đó, Ngân hàng Trung ương Châu Âu đã bơm 205 tỷ dollar Mỹ vào thị trường tín dụng để nâng cao mức thanh khoản. Tháng 12/2007, cuộc khủng hoảng tiến sang nấc trầm trọng hơn khi những báo cáo kinh tế cuối năm cho thấy sự điều chỉnh của thị trường bất động sản diễn ra lâu hơn tự tính và quy mô của khủng hoảng cũng rộng hơn rất nhiều lân so với ước đoán của các chuyên gia kinh tế. Tình trạng đói tín dụng trở nên rõ ràng. Hệ thống dự trữ liên bang cố gắng giảm mạnh lãi suất liên ngân hàng vào tháng 12/2007 và tháng 2/2008 nhưng không có hiệu quả như mong đợi. Tháng 3/2008, Ngân hàng dự trữ liên bang New York cố cứu Bear Sterns nhưng không nổi, và công ty này phải chấp nhận để JP Morgan Chase mua lại với giá 10 dollar một cổ phiếu, nghĩa là thấp hơn rất nhiều lần so với giá 130,2 dollar một cổ phiếu trước khi khủng hoảng nổ ra. Việc Ngân hàng dự trữ Liên bang New York cứu không nổi Bear Sterns và buộc lòng để công ty này bị bán --- G3.FB08A.DTHU --- TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ GVHD: H Th Khánh Linh đi với mức giá quá rẻ đã Diễn biến kinh tế Quốc tế năm 2008 khiến cho sự lo ngại về năng lực can thiệp của Chính phủ cứu viện các tổ 2/1: Giá dầu thô lần đầu tiên vượt 100 USD mỗi thùng. 16/3: Bear Stears tuyên bố phá sản, báo hiệu chuỗi đổ vỡ của các định chế tài chính vào những tháng tiếp theo. chức tài chính gặp khó 11/7: Giá dầu chạm mức lịch sử 147,27 USD mỗi thùng. khăn. Chính sự sụp đổ của 7/9: Mỹ chi 200 tỷ USD tiếp quản Freddie Mac và Fannie Mae. Baer Sterns đã đẩy cuộc 14/9: Bank of America mua lại Merrill Lynch. khủng hoảng lên nấc thang trầm trọng hơn. Tháng 8/2008, đến 15/9: Lehman Brothers tuyên bố phá sản. 16/9: Mỹ giải cứu AIG. 21/9: Goldman Sachs và Morgan Stanley thay đổi mô hình hoạt động. 28/9: Ngân hàng Bradford & Bingley (Anh) sụp đổ. lượt Lehman Brothers, 29/9: Quốc hội Mỹ bác kế hoạch 700 tỷ USD, khiến Dow Jones có mức một tổ chức tài chính vào sụt giảm lớn nhất lịch sử, gần 778 điểm, và phố Wall mất 1.200 tỷ USD. loại lớn nhất và lâu đời 3/10: Hạ viện Mỹ thông qua gói 700 tỷ USD. nhất của Mỹ bị phá sản. 7/10: Anh chi 88 tỷ USD cứu hệ thống ngân hàng. Tiếp sau Lehman là chuỗi một loạt các công ty khác. 8/10: Các ngân hàng trung ương đồng loạt hạ lãi suất. 12/10: Chính phủ Iceland có nguy cơ sụp đổ 27/10: IMF bơm tiền hỗ trợ hàng loạt nền kinh tế. Tháng 9/2008, Thượng 5/11: Ông Barack Obama đắc cử Tổng thống Mỹ, với đường lối kinh tế viện Hoa Kỳ thông qua được Thế giới kỳ vọng thay đổi hiện trạng kinh tế Mỹ và toàn cầu. Đạo luật Ổn định kinh tế 10/11: Trung Quốc chi gần 600 tỷ USD kích thích kinh tế. khẩn cấp 2008 cho phép 14/11: 15 nước châu Âu thừa nhận lâm vào suy thoái. bộ trưởng Bộ Tài chính Hoa Kỳ chi tới 700 tỷ 17/11: Nhật thông báo đã suy thoái. 25/11: Mỹ chi thêm 800 tỷ USD hỗ trợ kinh tế. 1/12: Mỹ thừa nhận đã suy thoái từ cuối năm 2007. USD để cứu nền tài chính của nước này bằng cách 11/12: Vụ lừa đảo 50 tỷ USD của Bernard Madoff vỡ lỡ, với hàng nghìn nạn nhân. mua lại các khoản nợ xấu của ngân hàng, đặc biệt là các chứng khoán đảm bảo bằng bất động sản. Tính đến thời điểm này, tổng số ngân hàng bị giải thể ở Mỹ từ đầu năm 2009 đã lên tới con số 98 và đang tiến gần tới mốc 100, tức là gấp 4 lần so với con số 25 ngân hàng phải đóng cửa trong năm 2008. Tính bình quân, mỗi tháng trong năm 2009 đã có hơn 10 ngân hàng tại Mỹ lâm nạn, phần lớn là các ngân --- G3.FB08A.DTHU --- TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ GVHD: H Th Khánh Linh hàng địa phương, quy mô nhỏ, không đủ sức chống chọi với những khoản thua lỗ trong hoạt động cho vay tiêu dùng và nhà đất. Cũng ở thời điểm cuối quý 2, đã có 416 ngân hàng bị FDIC liệt vào danh sách những nhà băng có nguy cơ đổ vỡ. III. ẢNH HƯỞNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐẾN NỀN KINH TẾ HOA KỲ VÀ KINH TẾ THẾ GIỚI 1. Đối với Hoa Kỳ: Cuộc khủng hoảng này là nguyên nhân chính làm cho kinh tế Hoa Kỳ rơi vào suy thoái từ tháng 12 năm 2007. Nhiều chuyên gia dự đoán đây sẽ là đợt suy thoái nghiêm trọng nhất ở cường quốc kinh tế này kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Bình quân mỗi tháng, từ tháng 1 tới tháng 9 năm 2009 có 84 nghìn người lao động Hoa Kỳ bị mất việc làm. Thất nghiệp gia tăng ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập và tiêu dùng của các hộ gia đình lại càng làm cho các doanh nghiệp khó tiêu thụ được hàng hóa của họ. Nhiều doanh nghiệp lớn bị phá sản hoặc có nguy cơ bị phá sản, trong đó bao gồm cả ba nhà sản xuất ô tô hàng đầu Hoa Kỳ là General Motors, Ford Motors và Chrysler LLC. Các nhà lãnh đạo 3 hãng ô tô này đã nỗ lực vận động Quốc hội Hoa Kỳ cứu trợ, nhưng không thành công. 12/12/2008, GM (General Motors) đã phải tuyên bố tạm thời đóng cửa 20 nhà máy của hãng hoạt động không hiệu quả ở khu vực Bắc Mỹ. Tiêu dùng giảm, hàng hóa ế thừa đã dẫn đến mức giá chung của nền kinh tế giảm liên tục, đẩy kinh tế Hoa Kỳ tới nguy cơ có thể bị giảm phát. Chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones lúc đóng cửa ngày 9 tháng 3 năm 2009 là 6.547,05 – mức thấp nhất kể từ tháng 4 năm 1997. Chỉ trong vòng 6 tuần lễ, chỉ số này sụt tới 20%. Suy thoái kinh tế đã đẩy tỷ lệ dân số sống dưới mức nghèo của Mỹ lên mức 13,2% trong năm 2008, từ mức 12,5% trong năm 2007. Đây là mức cao nhất từ năm 1997 tới nay và có khả năng tiếp tục tăng cao hơn trong năm nay do tỷ lệ thất nghiệp đang leo thang. Con số này đồng nghĩa với việc 39,8 triệu người Mỹ sống với thu nhập dưới 22.025USD/năm cho một gia đình có 4 người theo chuẩn nghèo của Mỹ. Nếu tính tới yếu tố lạm phát, thu nhập bình quân của --- G3.FB08A.DTHU --- TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ GVHD: H Th Khánh Linh các hộ gia đình tại Mỹ năm 2008 thậm chí còn thấp hơn mức cách đây 1 thập kỷ. Đây được xem là một bằng chứng nữa về tác động tiêu cực của suy thoái và tình trạng lương bổng đình trệ kéo dài mà tầng lớp trung lưu ở Mỹ phải đối mặt. Cuộc khủng hoảng còn làm cho dollar Mỹ lên giá. Do USD là phương tiện thanh toán phổ biến nhất trên Thế giới hiện nay, nên các nhà đầu tư toàn cầu đã mua dollar để nâng cao khả năng thanh toán của mình, đẩy đồng tiền này lên giá nhanh chóng. Điều này khiến cho xuất khẩu của Hoa Kỳ bị thiệt hại nặng nề. Bộ Tài chính Mỹ cũng vừa thông báo trong tháng 8/2009, ngân sách của nước này đã thâm hụt thêm 111,4 tỉ USD, nâng mức thâm hụt ngân sách trong 11 tháng của tài khóa hiện nay lên 1.378 tỉ USD. Tuy nhiên, mức thâm hụt ngân sách thực tế của tháng 8 vẫn thấp hơn mức dự báo 152 tỉ USD mà các nhà phân tích đưa ra tháng trước và cũng thấp hơn mức thâm hụt 111,91 tỉ USD cách đây một năm. 2. Đối với Thế giới: Bảng 1: Dự báo sản lượng Thế giới 2009 - 2010 (Trích Dự báo triển vọng kinh tế toàn cầu - Nguồn: IMF) --- G3.FB08A.DTHU --- TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ GVHD: H Th Khánh Linh Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi nền kinh tế suy thoái, xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những nước theo hướng xuất khẩu ở Đông Á. Một số nền kinh tế ở đây như Nhật Bản, Đài Loan, Singapore và Hong Kong rơi vào cơn suy thoái. Các nền kinh tế khác đa phần đều tăng trưởng âm hoặc tăng trưởng chậm lại trong năm 2009 theo dự báo của IMF. Theo bảng 1, ta nhận thấy hầu hết các quốc gia phát triển, có nền kinh tế vững mạnh đều bị ảnh hưởng nghiêm trọng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Cụ thể là Hoa Kỳ, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Anh, Canada đều được dự báo là sẽ tăng trưởng âm trong năm 2009, thậm chí là Đức tăng trưởng âm tới 6,2%, Nhật Bản cũng không khá hơn với mức tăng trưởng – 6%. Tình hình này sẽ còn tiếp diễn và gây tác động tiêu cực cho đến tận năm 2010 ở toàn thể các nước sử dụng đồng tiền chung Euro (khối EU). Nguyên nhân của điều này là do các nước châu Âu vốn chịu quan hệ kinh tế mật thiết với Hoa Kỳ nên khi khủng hoảng xảy ra, các nước này chịu tác động nghiêm trọng cả về tài chính lẫn kinh tế. Nhiều tổ chức tài chính bị phá sản đến mức trở thành khủng hoảng tài chính nội bộ ở một số nước như Iceland, Nga. Nói về Nga, nước này được dự báo sẽ tăng trưởng âm 6.5% trong năm 2009 và đến 2010 mới có thể khôi phục nền kinh tế. Các nền kinh tế lớn nhất khu vực là Đức và Ý đều rơi vào suy thoái. Anh, Pháp, Tây Ban Nha cũng không nằm ngoài quy luật đó. Các nền kinh tế Mỹ Latin cũng có quan hệ mật thiết với kinh tế Hoa Kỳ nên cũng bị ảnh hưởng tiêu cực khi các dòng vốn ngắn hạn rút khỏi khu vực và khi giá dầu giảm mạnh. Ecuador tiến đến bờ vực của một cuộc khủng hoảng nợ. Đặc biệt, khối các nước công nghiệp mới Châu Á có mức tăng trưởng bình quân dự kiến trong năm 2009 là – 5,2%, mức tăng trưởng thấp nhất kể từ sau cơn khủng hoảng tài chính châu Á 1997. Xét trên một khía cạnh khác ,sự bền vững của tài chính toàn cầu đang là một mối lo chung của các nhà hoạch định chính sách. Rủi ro từ các thị trường mới nổi đang gia tăng một cách nhanh chóng kể từ đầu tháng 10/2008. Rủi ro từ tín dụng và kinh tế vĩ mô cũng ngày càng phình to ra. Gánh nặng tài chính đang lớn dần lên là kết quả của những kế hoạch cứu vãn ngân hàng và các gói kích cầu của --- G3.FB08A.DTHU --- TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ GVHD: H Th Khánh Linh Chính phủ. Rõ ràng, sự ổn định của nền tài chính Thế giới cần phải có nhiều thực thi chính sách tích cực hơn nữa. Hình 1: Bản đồ tình trạng bền vững của nền tài chính toàn cầu (Nguồn: Financial Stability Report – IMF Staff Estimates) Kinh tế các nước trên Thế giới đều tăng chậm lại hoặc có dấu hiệu suy thoái khiến lượng cầu về dầu mỏ cho sản xuất và tiêu dùng giảm, do đó khiến giá dầu giảm. Điều này làm cho các nước xuất khẩu dầu mỏ bị thiệt hại. Đồng thời, do lo ngại bất ổn xảy ra làm cho nạn đầu cơ lương thực nổ ra, góp phần dẫn tới giá lương thực tăng cao trong khoảng thời gian cuối năm 2007 đầu năm 2008, tạo thành cuộc khủng hoảng giá lương thực toàn cầu. --- G3.FB08A.DTHU --- TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ GVHD: H Th Khánh Linh Bảng 2: Chỉ số giá hàng hóa Thế giới 6 tháng đầu năm 2008 (Nguồn: WB-2008) Tuy nhiên, đến đầu năm 2009, mọi chuyện lại diễn biến theo chiều hướng hoàn toàn ngược lại, chứng tỏ khủng hoảng kinh tế đã chính thức tác động sâu rộng đến nền kinh tế toàn cầu. Trong “Dự báo triển vọng kinh tế toàn cầu 2009-2010” của IMF, giá các mặt hàng đều có biến động sâu sắc trong năm 2009. Bảng 3: Dự báo giá nhiên liệu và tiêu dùng 2009 - 2010 (Trích Dự báo triển vọng kinh tế toàn cầu - Nguồn: IMF) Bảng 3 cho thấy giá dầu và giá hàng hóa phi dầu đều giảm mạnh trong năm 2009, giá dầu giảm 37,6%, các hàng hóa khác giảm 23,8%, đưa mức giá của các hàng hóa này trở về thời điểm của 2 – 3 năm về trước. Giá tiêu dùng trong năm nay, được dự báo tuy không tăng trưởng âm, nhưng mức giá chung --- G3.FB08A.DTHU --- TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ GVHD: H Th Khánh Linh đều tăng chậm lại, đặc biệt là với các nước phát triển, chỉ dao động trong khoảng xê dịch dưới 0,1%. Tuy nhiên, theo những diễn biến mới nhất từ thị trường dầu thô Thế giới, giá dầu trong tháng 9-10/2009 liên tiếp có những đợt tăng giá, tính đến thời điểm ngày 22/10/2009, giá dầu đã vượt mức 81USD/thùng nhờ sự trượt giá mạnh của đồng USD. Áp lực lạm phát trở nên căng thẳng từ giữa năm 2007 kéo dài cho tới khoảng cuối năm 2008. Các nền kinh tế mới nổi có giai đoạn lạm phát danh nghĩa lên tới 9% (khoảng giữa năm 2008). Hình 2: Biểu đồ tỉ lệ lạm phát toàn cầu (Nguồn: BFM, HA & IMF) Tuy nhiên kể từ đầu năm 2009, tình hình lạm phát gần như đã xoa dịu đi mức độ suy yếu chung của nền kinh tế. Cụ thể là tỉ lệ lạm phát toàn cầu giữ ở mức dưới 6% và có xu hướng giảm rõ rệt. Thậm chí các nền kinh tế phát triển như Nhật Bản đang có chiều hướng giảm phát (tỉ lệ lạm phát dưới 0%) vì giá dầu vẫn còn thấp hơn rất nhiều so với một năm về trước, mặc dù hiện tại chúng đang nhích giá từng ngày. Tỉ lệ lạm phát cơ bản nói chung giữ ở mức trung bình, --- G3.FB08A.DTHU --- TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ GVHD: H Th Khánh Linh nhưng không đồng đều ở tất cả các quốc gia. Tỉ lệ lạm phát giảm mạnh ở Trung Quốc và khu vực Trung Đông. IV. NHỮNG TÍN HIỆU LẠC QUAN CỦA NỀN KINH TẾ TOÀN CẦU 1. Hoa Kỳ - Sự trở lại của nền kinh tế số 1 Thế giới Từ giữa năm 2009, những tín hiệu lạc quan cho sự trở lại của nền kinh tế Mỹ đã dần được biểu hiện. “Kinh tế Mỹ sẽ thoát khỏi suy thoái với mức tăng trưởng GDP 2% trong quý 3 và quý 4 năm nay nhờ hoạt động sản xuất gia tăng của các doanh nghiệp”. Đó là dự báo được đưa ra trong báo cáo UCLA Anderson Forecast do Trường Quản lý thuộc Đại học California, Mỹ, thực hiện. Theo báo cáo này, tăng trưởng GDP trong năm 2010 của Mỹ sẽ diễn ra chậm chạp do tốc độ sản xuất của các doanh nghiệp chững lại so với thời điểm làm đầy kho hàng hiện nay. Bên cạnh đó, báo cáo cũng nhận định tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ sẽ ở mức bình quân 10% trong năm tới. Báo cáo UCLA Anderson Forecast được đưa ra chỉ một ngày sau khi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) dự báo suy thoái kinh tế Mỹ có thể đã kết thúc, nhưng quá trình phục hồi và tạo việc làm sẽ diễn ra chậm chạp. Các nhà nghiên cứu thực hiện bản báo cáo này dự báo, kinh tế Mỹ tăng trưởng 2,1% trong quý 3 này, tăng 2,3% trong quý 4 tới, và tăng bình quân 2% trong năm 2010. “Tới cuối năm 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ có thể sẽ được cải thiện đáng kể, lên mức 3%”, báo cáo viết. Tuy nhiên, có thể phải mất 4-5 năm nữa, Mỹ mới có thể hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này, và điều đó sẽ khiến cho nền kinh tế số 1 Thế giới phải đối mặt với thách thức từ những nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc. 2. Nhật Bản – Suy thoái đã rời khỏi đất nước mặt trời mọc Kinh tế Nhật Bản tăng trưởng dương trở lại trong quý 2 sau 5 quý liền liên tục co cụm. Sự hồi phục của lĩnh vực xuất khẩu và chi tiêu của người dân đã giúp nước này thoát khỏi cuộc suy thoái tồi tệ nhất thời hậu chiến tranh. Số liệu thống kê do Văn phòng Nội các Nhật Bản công bố ngày 17/8 cho thấy, GDP quý 2 của Nhật đã tăng 3,7% so với cùng kỳ năm ngoái, sau khi sụt --- G3.FB08A.DTHU --- TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ GVHD: H Th Khánh Linh giảm tới 11,7% trong quý 1. Nếu so với quý 1, GDP quý 2 của Nhật tăng trưởng 0,9%. Đóng góp nhiều nhất vào tăng GDP quý 2 của Nhật là tăng trưởng xuất khẩu của nước này. Thống kê cho thấy, xuất khẩu của Nhật trong quý 2 tăng 6,3% so với quý 1. Riêng xuất khẩu ròng đóng góp 1,6% vào mức tăng GDP quý 2 của nước này so với quý 1. Chi tiêu dùng cũng là một nhân tố quan trọng nữa giúp GDP của Nhật tăng trưởng dương trở lại trong quý 2. Gói kích thích kinh tế trị giá 25.000 tỷ Yên (tương đương 263 tỷ USD) của Thủ tướng Taro Aso đã thúc đẩy người dân tại đất nước mặt trời mọc ít thắt lưng buộc bụng hơn, mạnh dạn chi tiêu trong sản xuất và tiêu dùng. Do đó, chi tiêu dùng đã tăng 0,8% trong quý 2 và đóng góp 0,5% vào tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn ở mức cao. Tỷ lệ thất nghiệp tại Nhật hiện tại là 5,4% và được dự báo có thể lên tới mức kỷ lục 5,8% vào năm sau, nếu các doanh nghiệp còn duy trì hoạt động sản xuất ở mức thấp như hiện nay. Thậm chí, nhiều chuyên gia còn dự báo, liệu Nhật Bản – sự thần kỳ của Châu Á có trở thành một Thụy Sỹ thứ hai - một đất nước giàu có, nhưng không có tầm quan trọng lớn trên trường Quốc tế, và cũng không giành được nhiều sự chú ý từ phần còn lại của Thế giới. 3. Kinh tế Ấn Độ tăng tốc: Cơ quan Thống kê Trung ương Ấn Độ (CSO) ngày 1/9/2009 cho biết, GDP quý 2 của nước này đã tăng 6,1% so với cùng kỳ năm ngoái, so với mức tăng 5,8% đạt được trong quý 1. Đây là lần đầu tiên GDP của Ấn Độ tăng tốc từ năm 2007 tới nay. Sự cải thiện tăng trưởng GDP trên cho thấy, những ảnh hưởng tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đối với kinh tế Ấn Độ có thể đã kết thúc. Việc ít phụ thuộc vào hoạt động xuất khẩu hơn so với nhiều nước khác đã giúp Ấn Độ vượt qua cơn bão kinh tế này tốt hơn. Trong thời kỳ từ 2003-2008, kinh tế Ấn Độ tăng bình quân 8,8% mỗi năm. Các chuyên gia dự báo, kinh tế nước này có thể tăng trưởng 6% trong năm tài khóa hiện tại, nhưng cho rằng, mục tiêu này có thể được vượt qua. --- G3.FB08A.DTHU --- TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ GVHD: H Th Khánh Linh Ấn Độ và Trung Quốc đang được đánh giá là hai nền kinh tế Châu Á đang có tốc độ phát triển cao, là lực đỡ chính cho suy giảm kinh tế toàn cầu. 4. Kinh tế Thế giới phục hồi nhanh hơn mong đợi: Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế - OECD cho biết tín hiệu phục hồi đã khá rõ ràng ở Mỹ, GDP dự kiến tăng 1,6% trong quý III và đạt tốc độ 2,4% vào 3 tháng cuối năm. Tốc độ tăng trưởng khu vực đồng tiền chung châu Âu sẽ phục hồi về mức 2% vào quý IV, đặc biệt là đà khởi sắc mạnh mẽ ở Pháp và Đức. Kinh tế Nhật có phần khó khăn hơn, tăng trưởng 1,1% trong quý III và có thể tiếp tục rơi về vùng âm (giảm 0,9%) trong quý cuối năm. Anh được dự báo đi sau tất cả các thành viên trong khối, hiện chưa phát đi tín hiệu tăng trưởng nào cho cả năm nay. OECD là một tổ chức đã từ lâu được xem là “sân chơi” dành riêng cho các đại gia kinh tế. Đóng góp của OECD vào kinh tế toàn cầu là rất đáng kể, tiêu biểu có thể kể đến Mỹ, Nhật Bản, Ý, Pháp, Đức, Anh, Tây Ban Nha – các cường quốc kinh tế của Thế giới. Do vậy, những dự báo lạc quan của OECD về sự phục hồi của nền kinh tế đã tác động tích cực đến tâm lý chung của những nhà hoạch định chính sách và dân chúng. Bảng 4: Tỉ lệ đóng góp vào OECD của các nước thành viên (Nguồn: OECD Annual Report) Đánh giá của OECD về tăng trưởng của các nền kinh tế thành viên lạc quan hơn rất nhiều so với cách đây vài tháng. Trong báo cáo công bố hồi tháng --- G3.FB08A.DTHU --- TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ GVHD: H Th Khánh Linh 6, tổ chức này dự báo GDP của Mỹ vẫn âm 1,9% trong quý III, thậm chí còn tệ hơn vào quý IV (giảm 2,4%). Trong lĩnh vực thương mại Quốc tế, OECD dự báo mọi khó khăn nhất có thể đã qua và tín hiệu phục hồi đã le lói. Bất chấp cuộc khủng hoảng toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ và gay gắt, những con số tăng trưởng lạc quan của các nền kinh tế mới nổi và các quốc gia đang phát triển đã góp một phần đáng kể trong việc vực dậy nền kinh tế toàn cầu. Trung Quốc – nền kinh tế mới nổi của Châu Á vẫn giữ tốc độ tăng trưởng bình quân trên 7.5%, Ấn Độ 5,4%. Các nước đang phát triển của châu Á trung bình sẽ tăng trưởng 5,5% trong năm 2009 và tiếp tục giữ đà tăng trưởng thần kỳ này đến năm 2010, với dự báo mức tăng trưởng chung 7%. Tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ ở Trung Quốc (14% trong quý II) là lực đỡ cho thương mại toàn cầu. Dựa trên tốc độ tăng trưởng hiện nay và những xu hướng trên thị trường tiền tệ, các chuyên gia dự báo rằng, kinh tế Trung Quốc có thể vượt Mỹ vào năm 2039. Và nếu Trung Quốc để đồng Nhân dân tệ của nước này lên giá 2% mỗi năm, thì mục tiêu trên có thể đạt được vào năm 2026. Trong khi đó, nguy cơ lạm phát quay trở lại hiện không còn quá lớn. Thậm chí, thiểu phát là vấn đề đáng lưu tâm không chỉ đối với Nhật Bản. Vì thế, OECD gợi ý sớm nhất vào giữa 2010 mới tiến hành các bước thắt chặt trở lại. Các Chính phủ cần duy trì những biện pháp hỗ trợ nền kinh tế trong bối cảnh thất nghiệp tiếp tục leo thang và thị trường nhà đất vẫn còn yếu ớt. OECD khuyến cáo rằng chính sách lãi suất thấp ở mức phi lý như hiện nay vẫn cần được duy trì thêm một thời gian nữa, cho đến khi nền kinh tế hoàn toàn phục hồi và đứng vững. --- G3.FB08A.DTHU --- TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ GVHD: H Th Khánh Linh Hình 3: Tỉ lệ lạm phát của Hoa Kỳ, Nhật Bản và Eurozone (Nguồn: BFM, HA & IMF) Thời kỳ tồi tệ nhất của cơn đại khủng hoảng đã đi qua. Tuy nhiên để lạc quan về viễn cảnh của nền kinh tế Thế giới là quá sớm. Trước mắt, các nhà hoạch định chính sách cần phải vạch ra những mục tiêu cụ thể trong ngắn hạn để vượt qua suy thoái, tiếp tục tăng trưởng nhanh, bền vững; đồng thời phải kết hợp với các mục tiêu mang tầm vĩ mô, trung hạn và dài hạn, tránh để nền kinh tế quốc gia nói riêng và nền kinh tế khu vực, toàn cầu phải gánh chịu một cuộc khủng hoảng tương tự trong tương lai. Đây cũng là bài học kinh nghiệm quý báu dành cho các nước trong quá trình đi lên, hội nhập và phát triển. --- G3.FB08A.DTHU --- TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ GVHD: H Th Khánh Linh CHƯƠNG II ẢNH HƯỞNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM I. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ VIỆT NAM 2008 16 14 Trung Quốc 12 10 8 Việt Nam 6 4 2 Thế giới 0 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 00 01 02 03 04 05 06 07 08 --- G3.FB08A.DTHU --- TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ GVHD: H Th Khánh Linh Hình 4: Chỉ số tăng trưởng kinh tế Thế giới, Việt Nam và Trung Quốc (Nguồn: caohockinhte.info) Tình hình phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong năm 2008 đã chịu tác động tương tác giữa quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế với nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác. Nền kinh tế toàn cầu biến động phức tạp: giá dầu tăng mạnh và giá lương thực leo thang đến tháng 8/2008; khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ vào tháng 9/2008 và nền kinh tế Thế giới lún sâu vào suy thoái. Hình 5: Chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam (Nguồn: Tổng cục Thống kê – TCTK) --- G3.FB08A.DTHU ---
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan