Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hiệu quả sử dụng của các trường hợp tách câu trong văn xuôi Nguyễn Tuân...

Tài liệu Hiệu quả sử dụng của các trường hợp tách câu trong văn xuôi Nguyễn Tuân

.PDF
51
135
120

Mô tả:

Khóa luận tốt nghiệp Trưởng ĐHSP Hà Nội 2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN NGUYỄN HÀ PHƯƠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG CỦA CÁC TRƯỜNG HỢP TÁCH CÂU TRONG VẰN XUÔI NGUYỄN TUÂN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI • • • HỌC • Chuyên ngành: Ngôn ngữ học HƯỚNG DẪN KHOA HỌC ThS. HOÀNG THỊ THANH HUYỀN HÀ NỘI 2010 Nguyễn Hà Phương K32A Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trưởng ĐHSP Hà Nội 2 MỞ ĐÀU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Như đã biết, con người giao tiếp, trao đổi thông tin với nhau thông qua các hệ thống ngôn ngữ. Hệ thống ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ kí hiệu, chữ viết rất đa dạng và phong phú. Yà dù ở một thời đại nào, một quốc gia nào, ngôn ngữ cũng đều phải tuân theo những chuẩn mực, quy ước cũng như những quy tắc kết họp nhất định. Mỗi kí hiệu, mỗi con chữ, mỗi âm thanh nếu không sắp xếp một cách hợp lý thì chúng sẽ chỉ là những bộ phận rời rạc, những thứ ngôn ngữ bất động. Chính vì vậy mà từ âm tiết ta phát triển lên thảnh từ, thành ngữ, thảnh câu, thành đoạn văn, và thành văn bản hoàn chỉnh. Nhưng để có thể hoàn thành một quá trình giao tiếp, trước hết người tham gia giao tiếp phải tạo được câu. Bởi câu chính là đơn vị nhỏ nhất có thể sử dụng trong giao tiếp. Yà câu đó phải là những câu đúng, phải thể hiện một hình thức hoàn chỉnh, chứa đựng một nội dung thống nhất. Ở một số trường họp, câu có thể tồn tại trong trạng thái không đầy đủ khi xét trên phương diện cấu trúc cú pháp cơ bản của câu. Lúc này, từ một câu ban đầu, người sử dụng đã tách thành hai câu, ba câu... Mỗi câu được tách ra ấy thực chất là một phần, một bộ phận của câu đầy đủ. Tuy nhiên những câu đó vẫn được coi là những câu đúng, vẫn thống nhất về mặt nội dung và vẫn truyền tải được thông tin cần thiết cho quá trình giao tiếp. Những câu đó được gọi là những câu tách biệt. Tìm hiểu về câu tách biệt, về phương thức tách câu sao cho đúng và hiệu quả là một điều quan trọng, cần thiết. Đặc biệt, đó lại là những câu tách, những hình thức tách câu được sử dụng trong văn chương nghệ thuật. Việc tìm ra cách diễn đạt khác với bình thường thông qua việc tách câu, sử dụng Nguyễn Hà Phương - 2 - K32A Ngữ Văn Trưởng ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp câu tách biệt cũng là một quá trình tìm tòi đổi mới của nhà văn, nhà thơ. Tất nhiên, không phải ai cũng giống ai mà còn tùy thuộc vào cá tính của mỗi người khi chấp bút. 1.2. Trong làng văn xuôi hiện đại Việt Nam, người ta thường nhắc tới tên tuổi của một nhà văn mà hình ảnh của ông đã trở thành một tấm gương sáng cho việc rèn câu chữ, trau dồi câu chữ, và đổi mới câu chữ. Đó chính là Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân là một nhà văn mà phong cách nghệ thuật của ông có thể được gói gọn trong chữ "ngông". Như những nhà văn chân chính khác, ông không chấp nhận lối văn chương dễ dãi, trơn tru, láng bóng mà ý tứ lại nhạt thếch, hời hợt và nông cạn. Ồng muốn "Nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật". Và chính vì vậy mà suốt một đời cầm bút, ông không bao giờ để hành văn của mình chìm trong lối diễn đạt ru ngủ. Qua những trang văn của con người tài hoa ấy, độc giả có cảm giác trí tưởng tượng của mình đang được trau dồi thêm, bồi đắp thêm một cách phong phú hơn nhờ lối diễn đạt tài tình, linh hoạt. Nguyễn Tuân đã biến hóa những khuôn chữ của mình có lúc ngắn gọn, súc tích chỉ với một vài con số, một từ, một ngữ mà vẫn thể hiện được giá trị nội dung cũng như giá trị tư tưởng trong tác phẩm nghệ thuật của mình. Nhưng có lúc cái khuôn chữ ấy lại như đổ tràn ra, kéo dài ra mãi, với những vế câu, những kiểu câu lồng trong câu, khiến độc giả như phải vặn mình theo lối tư duy diễn đạt của Nguyễn Tuân. Như vậy mới có thể hiểu hết được những dụng ý nghệ thuật rất kì công của một người luôn tự coi mình là "phu chữ". 1.3. Nguyễn Tuân là một tác gia lớn của nền văn học Việt Nam. Trong suốt quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật không mệt mỏi của mình, ông đã góp phần làm giàu thêm cho ngôn ngữ tiếng Việt bởi cách lựa chọn từ ngữ, hình ảnh, diễn đạt rất đa dạng và phong phú. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài "Hiệu quả sử dụng của các trường họp tách câu trong văn xuôi Nguyễn Tuân" Nguyễn Hà Phương K32A Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trưởng ĐHSP Hà Nội 2 mà chúng tôi lựa chọn ít nhiều đã thể hiện được tính cần thiết và quan trọng trong quá trình tiếp cận tác phẩm của Nguyễn Tuân trên phương diện ngôn ngữ học. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Nghiên cứu ở lĩnh vực ngôn ngữ 2.1.1. Nghiên cứu ở góc độ phong cách học Nguyễn Thái Hòa trong "Phong cách học tiếng Việt", phần "Các biện pháp tu từ và các biện pháp tu từ cú pháp" đã đưa câu tách biệt hay cách tách câu vào mục các biện pháp tu từ cú pháp: "Tách các thành phần câu, nâng các thành phần đó thành những câu, ngữ trực thuộc và câu dưới bậc là một biện pháp tu từ quan trọng"[5; tr. 243]. Tác giả đã khẳng định phép tách câu là một biện pháp tu từ học với dụng ý nghệ thuật rõ rệt, hoặc là miêu tả nhịp điệu diễn biến của hình tượng, hoặc miêu tả nhịp điệu cảm xúc. Hoặc cùng với quan điểm nghiên cứu, khi đề cập tới chức năng và vai trò của biện pháp tách câu, giáo sư Đinh Trọng Lạc trong "99 biện pháp tu từ tiếng Việt" cũng đã khẳng định tách câu là một biện pháp tu từ có giá trị nghệ thuật quan trọng: "Tách biệt là một biện pháp tu từ đặc trưng của cú pháp biểu cảm, cụ thể là tách riêng một cách có dụng ỷ từ một cẩu trúc cú pháp thong nhất ra một hay nhiều bộ phận biệt lập về mặt ngữ điệu, tách xa nhau bằng một chỗ ngẳt (trên chữ viết thì bằng dấu chấm hoặc một dấu tương đương)"[4; tr. 197]. Như vậy có thể thấy là hiện tượng tách câu đã được giới nghiên cứu quan tâm và nhắc tới. Tuy nhiên, những tác giả trên mới chỉ đề cập ở góc độ phong cách học một cách gợi mở, tức là chú ý nhiều đến hiệu quả sử dụng, giá trị tu từ của hiện tượng tách câu, chứ chưa đi sâu vào tìm hiểu quy chế cũng như các trường hợp tách câu cụ thể. 2.1.2. Nghiên cứu ở góc độ ngữ pháp tiếng Việt Nguyễn Hà Phương - 4 - K32A Ngữ Văn Trưởng ĐHSP Hà Nội 2 Khóa luận tốt nghiệp Ở góc độ nghiên cứu của Ngữ pháp tiếng Việt, Tác giả Nguyễn Minh Thuyết trong "Tiếng Việt thực hành" ở phần "Rèn luyện kĩ năng đặt câu" đã nêu định nghĩa về tách câu như sau: "Tách câu có nghĩa là tách một bộ phận của câu thành câu riêng". Và ông đã chỉ ra một số các trường hợp tách các bộ phận của câu thành câu riêng như: tách trạng ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, định ngữ... Tác giả Hoàng Kim Ngọc - "Tiếng Việt thực hành", Nxb Thông tin 4/2007, trong phần nói về các cách biến đổi câu đưa ra định nghĩa: "Tách câu có nghĩa là tách một bộ phận của câu thành một câu độc lập nhằm mục đích làm nổi rõ một thông tin nào đó''. Tác giả đã phân loại các trường họp tách câu thành: tách trạng ngữ, định ngữ, bổ ngữ và một vế của câu ghép. Tác giả còn nêu điều kiện để nhận biết biện pháp tu từ tách câu: "Câu bị tách bao giờ cũng phải nằm sau một câu trọn vẹn nào đó". GS.TS Diệp Quang Ban đã dành một phần để nói tới khả năng tách vế của câu ghép ra thành câu riêng. Trong "Ngữ pháp tiếng Việt", Tập 2, Phần Câu, ông có viết: " Việc tách vế của câu ghép đẳng lập và của câu ghép chuỗi ra thành một câu riêng, gần như không có trở ngại gì. vấn đề chỉ là sử dụng thể nào cho đúng, cho hiệu quả hoặc có giá trị tu từ học các kết từ ở vế cuối của câu ghép đẳng lập khi tách nổ ra khỏi vế đứng trước «ó"[ 1; ừ. 214]. Đối với những dạng thức câu ghép khác cũng không nằm ngoài yêu cầu trên. Cũng trong cuốn sách này, GS.TS Diệp Quang Ban đã gọi những "câu" vốn được tách ra từ câu đơn hai thành phần mà bản thân chúng có thể là một bộ phận của câu gốc, hoặc chỉ là bộ phận bổ sung cho từ, ngữ trong câu gốc là những câu dưới bậc. Theo ông, những "câu" ấy "là những biển thể của câu nhưng không mang đầy đủ các đặc trưng cần yếu của câu. Mặt khác chúng cũng không thuộc về đơn vị bậc thấp hơn câu, chúng là những biển thể dưới bậc của câu..."[\; tr.192]. Và câu dưới bậc "có ngữ điệu kết thúc, tự ỉập nhưng không tự lập về cẩu tạo ngữ pháp và về ngữ nghĩa''[ 1; tr.192]. Nguyễn Hà Phương K32A Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trưởng ĐHSP Hà Nội 2 Có thể thấy là GS.TS Diệp Quang Ban đã nghiên cứu và tìm hiểu khá kĩ về các trường hợp tách câu. Tuy nhiên, ông mới chỉ chú ý tới các trường họp tách câu ghép, còn đối với những trường họp tách câu đơn lại chưa được phân loại trên cơ sở lí thuyết một cách cụ thể và chỉ được đề cập trong phạm trù câu dưới bậc. Những nhận xét trên đã góp phần giúp chúng ta định hướng được quá trình nghiên cứu hiệu quả sử dụng của các trường họp tách câu trong văn xuôi Nguyễn Tuân một cách xác thực, họp lý nhất. 2.2. Nghiên cứu ở lĩnh vực văn học Nguyễn Tuân là một hiện tượng văn học phức tạp, nhất là trước Cách mạng tháng Tám. Khi nhắc tới ông, người ta thường nghĩ đến một nhà văn của quan điểm duy mĩ, chỉ trọng cái đẹp hình thức không cần nội dung, chủ trương viết văn không khuynh hướng, nghĩa là muốn đặt nghệ thuật lên trên mọi thứ thiện ác ở đời. Tuy nhiên đó chưa phải là tất cả quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Sự phức tạp và mâu thuẫn trong suy nghĩ, trong lối sống do chịu tác động của thời cuộc đã khiến cho hơi văn của Nguyễn Tuân mang đậm chút khinh bạc, gai góc. Nhưng bên trong con người tưởng như đang dửng dưng với đời ấy lại là một trái tim thiết tha đối với quê hương đất nước mà thể hiện trước nhất đó là ở sự gắn bó với tiếng nói cha ông. Có thể thấy là phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân đã được rất nhiều nhà nghiên cứu văn học, phê bình văn học quan tâm. Nhưng vào thời điểm những năm 60, ít người dám viết về "một người lạ" Nguyễn Tuân. Bởi ông là nhà văn, trước Cách mạng, lãng mạn tiêu cực, sau Cách mạng thì luôn luôn "có vấn đề". Từ khoảng 1957 trở đi, hết "Phở", "SêKhổp", lại đến "Tình rừng", "Tờ hoa", "Giò lụa"... Càng về sau, sự đổi mới và cách tân văn học đã góp phần tích cực làm thay đổi cách đánh giá, nhìn nhận về phong cách sáng tác, quan điểm sáng tác Nguyễn Hà Phương -6 - K32A Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trưởng ĐHSP Hà Nội 2 của ông. Nguyễn Tuân cùng với các tác phẩm của mình đã trở thành đề tài nghiên cứu phong phú của văn học ở mọi góc độ. 2.2.1. Nghiên cứu vãn xuôi Nguyễn Tuân ở góc độ từ ngữ GS Hoàng Nhân trong bài "Có gì chung giữa Nguyễn Tuân và Andregide?" (Tạp chí Yăn học, số 4 - 1998) đã đi sâu tìm hiểu biện pháp so sánh trong văn Nguyễn Tuân và nhận định "Ông vận dụng một kho từ vựng phong phú, nhiều biện pháp tu từ như so sánh, tượng trưng, ẩn d ụ '\8; tr.12]. Trong khi đó, tài năng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân lại được các nhà nghiên cứu dành cho một sự quan tâm đặc biệt thể hiện qua các bài viết: "Nhà luyện đan ngôn từ - ông lái đò chữ nghĩa" in trong cuốn "Nguyễn Tuân - nhà văn và tác phẩm trong nhà trường" của tác giả NguyễnQuang Trung chủ yếu bàn về khả năng sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt điêuluyện của Nguyễn Tuân. Ông khẳng định: "Văn Nguyễn Tuân là thứ ngôn ngữ nóng rẫy sự sổng; cái độc đáo vô song, điểm nổi bật bao trùm xuyên suốt các tác phẩm của Nguyễn Tuần, xét ở bình diện ngôn ngữ, là lấy sự thay đổi liên tục làm nét ổn định, luôn luôn mới lạ chỉnh là điều thống nhất ở mỗi dòng, mỗi ờ-ang ông viết"[ 10; tr.76]. GS. Nguyễn Đăng Mạnh cũng nhận xét về cách sử dụng từ ngữ trong văn xuôi Nguyễn Tuân như sau: "vốn từ vựng của Nguyễn Tuân thường bộc lộ đầy đủ "trữ lượng" của nổ trong hai trường hợp: một là khi ông tập trung đi sâu vào một điểm mà mô tả, nhu cầu tránh trùng lặp buộc ông phải tung ra tất cả những từ đồng nghĩa có trong vốn liếng của mình. Hai là khi cỏ hiện tượng mới lạ, độc đáo và thú vị đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ của ông, cảm hứng được khơi dậy mãnh liệt - nhiều khỉ bốc lên say sưa, chểnh choáng Nguyễn Hà Phương - 7 - K32A Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trưởng ĐHSP Hà Nội 2 - ông bèn quyết ném ra bằng hết vốn từ ngữ của mình để chạy đua với tạo vật muôn màu muôn vẻ"[7; tr. 300]. 2.2.2. Nghiên cứu văn xuôi Nguyễn Tuân ở góc độ diễn đạt Bài "Người lái đò sông Đà" của tác giả Phan Huy Chú in trong cuốn "Giảng văn văn học Việt Nam" (Nxb Hà Nội, 2000) bàn về cách hành văn trong văn Nguyễn Tuân như sau: "Khỉ miêu tả những con thác vó cùng độc ác, nham hiểm, câu văn của ông thường mang nhịp điệu dồn dập, kích thích, nhưng khi ngợi ca con sông Đà gợi cảm, câu văn lại như duỗi hết sức êm ả nghe như tiếng hát ngân nga"[ 11; tr.l 17]. GS. Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận xét rằng: "Câu văn Nguyễn Tuân có nhiều kiểu kiến trúc đa dạng, ông là một nghệ sĩ ngôn từ biết chú trọng tới âm điệu, nhịp điệu của câu văn xuôi"[7; tr.299]. Câu văn của Nguyễn Tuân "giàu màu sắc, giàu âm thanh, nhịp điệu hài hòa trầm bổng, khi có nội dung cảm xúc tương xứng, sẽ trở thành những dòng thơ trữ tình ngăn vang trong lòng người đọc"[l\ tr.300]. Chính Nguyễn Tuân cũng thường nói, người làm nghề viết phải biết tạo ra những câu văn có khớp xương co duỗi nhịp nhàng, chứ đừng bắt người ta phải đọc của mình những câu tê thấp. Ngoài ra, văn chương Nguyễn Tuân còn được xem xét ở góc độ Lí luận văn học, với nhiều đề tài để khai thác, ví dụ như: đặc trưng thể loại tùy bút, hình tượng tác giả...Tuy nhiên, có thể thấy rằng, các tác giả nghiên cứu đã nói tới giá trị của cách dùng câu trong văn Nguyễn Tuân nhưng chưa cụ thể rõ ràng, và chủ yếu mới chỉ chú ý tới cách sử dụng câu của Nguyễn Tuân như một biện pháp tu tò. Trên cơ sở những bài nghiên cứu, phê bình của các tác giả trước, chúng tôi lựa chọn đề tài "Hiệu quả sử dụng của các trường họp tách câu trong văn xuôi Nguyễn Tuân" với hi vọng sẽ đưa ra được kết quả thống kê, phân loại, Nguyễn Hà Phương - 8 - K32A Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trưởng ĐHSP Hà Nội 2 nhận xét bước đầu về mức độ sử dụng và hiệu quả nghệ thuật của các trường họp tách câu trong văn xuôi Nguyễn Tuân, dưới góc độ ngữ pháp tiếng Việt. 3. Mục đích nghiên cứu Đi sâu vào nghiên cứu đề tài "Hiệu quả sử dụng của các trường họp tách câu trong văn xuôi Nguyễn Tuân" chúng tôi nhằm đạt những mục đích sau : - Khẳng định cụ thể hóa một vấn đề lí thuyết thuộc phạm vi ngôn ngữ. Đó là vấn đề tách câu và sử dụng nó trong tác phẩm văn xuôi. - Khảo sát, thống kê, phân loại, phân tích hiệu quả sử dụng của các trường hợp tách câu nhằm góp phần khẳng định tài năng và phong cách của nhà văn Nguyễn Tuân. - Tích lũy những tư liệu cần thiết cho việc học tập, giảng dạy sau này. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tập họp các vấn đề lí thuyết có liên quan tới đề tài. - Khảo sát, phân loại miêu tả các trường hợp tách câu thông qua các ngữ liệu thống kê. - Phân tích hiệu quả sử dụng của các trường họp tách câu đó. 5. Đổi tượng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đổi tượng nghiên cứu Hiệu quả sử dụng của các trường họp tách câu trong văn xuôi Nguyễn Tuân. 5.2. Phạm vi nghiên cứu Khảo sát 47 tác phẩm văn xuôi (gồm tùy bút và kí) của tác giả Nguyễn Tuân in trong "Tuyển tập Nguyễn Tuân" Tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội, 2005. Trong tập 2 này có 48 tác phẩm. Riêng tác phẩm "Giăng liềm" là một bài thơ, không thuộc đối tượng nghiên cứu nên chúng tôi không đưa vào quá trình khảo sát. Nguyễn Hà Phương - 9 - K32A Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trưởng ĐHSP Hà Nội 2 6. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Thống kê, phân loại: Người viết đã khảo sát các trường họp sử dụng biện pháp tách câu thông qua việc đọc và ghi chép từ 47 tác phẩm tùy bút và kí của Nguyễn Tuân. Từ những kết quả đã có được, căn cứ vào những tiêu chí phân loại, người viết đã phân chia các số liệu thống kê thành tòng nhóm có chức năng và vai trò giống nhau. - Phân tích: Vận dụng những phương pháp phân tích để phân tích hiệu quả sử dụng của các trường họp tách câu trong văn xuôi Nguyễn Tuân. - Đối chiếu, so sánh: Người viết đã sử dụng phương pháp đối chiếu và so sánh câu tách biệt với các hình thức câu đặc biệt khác để nhấn mạnh đặc trưng của hình thức tách câu. - Tổng họp: Từ những ví dụ đã phân tích, nhận xét, người viết đã tổng hợp và đưa ra những kết luận khái quát nhất, chung nhất về hiện tượng câu tách biệt trong văn xuôi Nguyễn Tuân. 7. Bổ cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu, khỏa luận này gồm có 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận Chương 2: Miêu tả kết quả thống kê Chương 3: Hiệu quả sử dụng của các trường hợp tách câu trong văn xuôi Nguyễn Tuân. Nguyễn Hà Phương - 10 - K32A Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trưởng ĐHSP Hà Nội 2 NỘI DUNG CHƯƠNG 1: C ơ SỞ LÍ LUÂN 1.1 Một số vấn đề khái quát về câu 1.1.1. Định nghĩa về câu 1.1.1.1. Định nghĩa về câu của tác giả Nguyễn Thị Lương Trong quá trình giao tiếp hàng ngày, người ta không nói chuyện với nhau bằng âm vị, âm tiết, hình vị dù đó cũng là những đơn vị ngôn ngữ có sẵn. Đơn vị nhỏ nhất có thể sử dụng để giao tiếp chính là câu, đơn vị ngôn ngữ không có sẵn. Có thể thấy được rằng, ở mỗi thời kì, mỗi đối tượng, mỗi cá nhân có một cách nhìn nhận về câu khác nhau. Một định nghĩa về câu khó có thể nói hết được đầy đủ đặc điểm của câu mà vẫn đảm bảo tính khái quát, ngắn gọn. Dựa trên những đặc điểm cơ bản nhất của câu, tác giả Nguyễn Thị Lương đã lựa chọn định nghĩa về câu như sau : Câu là đơn vị ngôn ngữ không có sẵn, dùng để biểu thị sự ữnh, được tạo nên từ các đơn vị nhỏ hơn theo những quy tắc ngữ pháp nhất định, có dấu hiệu hình thức riêng, được sử dụng trong giao tiếp nhằm thực hiện một hành động nói [6; tr. 19] 1.1.1.2. Định nghĩa về câu của tác giả Nguyễn Thị Thìn Theo tác giả Nguyễn Thị Thìn, trong giao tiếp, muốn người nghe/ đọc hiểu được ý mình thì người nói/ viết cần viết thành câu hoàn chỉnh. Bởi Nguyễn Hà Phương -11 - K32A Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trưởng ĐHSP Hà Nội 2 những đơn vị ngôn ngữ nhỏ hơn câu như từ, ngữ chưa có khả năng thông báo mặc dù chúng có thể dùng để biểu thị một khái niệm hoặc dùng để gọi tên một sự vật, hiện tượng nào đó. Ngược lại, những đơn vị lớn hơn câu như đoạn văn, văn bản có nội dung đầy đủ hơn câu nhưng chúng có khả năng phân tách thành nhiều câu có nội dung hoàn chỉnh, vì vậy chúng chưa phải là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có chức năng thông báo, giao tiếp. Tác giả đã đưa ra một định nghĩa về câu nhằm chỉ ra đặc trưng quan trọng nhất giúp ta phân biệt câu với những đơn vị ngôn ngữ khác có cấp độ trên hoặc dưới câu như sau : Câu là đơn vị ngôn từ nhỏ nhất có chức năng thông báo nhỏ nhất, được dùng vào việc giao tiếp hàng ngày. [12; tr.9] 1.1.1.3. Định nghĩa về câu của tác giả Diệp Quang Ban Để có thể đưa ra một khái niệm về câu một cách hoàn chỉnh và họp lí, tác giả Diệp Quang Ban đã nhận xét về câu trên hai phương diện. về mặt ngữ pháp, khi so sánh câu với văn bản, câu là đơn vị cấu trúc ngữ pháp mang nghĩa, văn bản là đơn vị nghĩa có cấu trúc khác nhau. về mặt tổ chức nội bộ của câu, câu là một khúc đoạn ngôn ngữ tập trung chung quanh một vị ngữ (yếu tố trung tâm của câu về ngữ pháp và ngữ nghĩa), và được dùng để diễn đạt một sự việc. Từ hai mặt xem xét trên, tác giả đã nêu đinh nghĩa của câu là : Câu (câu đơn) là đơn vị lớn nhất của mặt cẩu trúc trong tổ chức ngữ pháp của một ngôn ngữ, được làm thành từ một khúc đoạn ngôn ngữ tập trung chung quanh một vị ngữ (vị tố), và được dùng để diễn đạt một sự thể (hay một sự việc). [1; tr.7] Định nghĩa trên có tính khái quát cao, không phân biệt ngôn ngữ nói và viết, không phân biệt ngôn ngữ thuộc các loại hình khác nhau, chỉ tính kiểu Nguyễn Hà Phương - 12 - K32A Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trưởng ĐHSP Hà Nội 2 nghĩa rõ nhất và tương đối ổn định trong một câu là nghĩa chỉ sự việc, chưa tính các kiểu câu khác. *Nhận xét chung : Như vậy có thể thấy rằng dù cách diễn đạt trong định nghĩa về câu của các tác giả nghiên cứu có khác nhau thì những định nghĩa đó cũng đều nhấn mạnh đặc trưng cơ bản của câu, qua đó thể hiện vai trò của câu trong giao tiếp là cần thiết và rất quan trọng. 1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của câu Để phân biệt câu với các phạm trù khác của ngôn ngữ như : âm tiết, hình vị, đoạn văn, văn bản, người ta dựa trên những đặc trưng cơ bản của câu. Trong "Câu tiếng Việt và nội dung dạy - học của câu ở trường phổ thông", tác giả Nguyễn Thị Thìn đã phân tích đặc trưng của câu trên ba phương diện : nội dung, hình thức và chức năng. 1.1.2.1. Đặc trưng về nội dung Câu phải diễn đạt một nội dung trọn vẹn, thống nhất. Nội dung của câu bao gồm hai thành phần nghĩa cơ bản : - Thảnh phần nghĩa phản ảnh hiện thực các sự vật sự việc khách quan, qua đó bộc lộ mối quan hệ của câu với hiện thực được phản ánh trong câu. Ví dụ: Trời hôm nay nắng to. - Thảnh phần nghĩa tình thái, thể hiện mối quan hệ của người nói đối với người nghe hoặc đối với hiện thực được nói tới trong câu. Thành phần nghĩa tình thái có thể thể hiện lập trường thái độ, tình cảm, cảm xúc của người nói đối với người nghe, đối với điều được nói tới trong câu hoặc thể hiện hành vi ngôn ngữ ở lời. Ví dụ: Nguyễn Hà Phương -13 - K32A Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trưởng ĐHSP Hà Nội 2 Trời nắng rồi à? Câu có thể thể hiện một trong hai nội dung trên nhưng cũng có khi nó bao gồm cả hai. Ví dụ: Trời hôm nay nắng to, thích nhĩ? Trong ví dụ trên, "Trời hôm nay nắng to" phản ánh một hiện thực về thời tiết, "thích nhĩ' thể hiện thái độ thích thú của người nói đối với hiện thực "nẳng to". 1.1.2.2 Đặc trưng về hình thức Hình thức của câu được biểu hiện ở mặt ngữ âm và ngữ pháp. a) Hình thức ngữ âm Khi nói, hình thức ngữ âm của câu thể hiện ở ngữ điệu, ở sự lên giọng hoặc hạ giọng cuối câu và quãng ngừng giọng khi chuyển sang câu khác nhằm chuẩn bị cho việc kết thúc một câu. Khi viết, dấu hiệu kết thúc câu khá rõ ràng mặc dù không được phong phú lắm. Đó là các dấu chấm câu: chấm (.), hỏi chấm (?), chấm cảm (!). Riêng dấu (...) có thể dùng để ngắt câu này với câu khác, hoặc có thể dùng để ngắt giữa câu. b) Hình thức ngữ pháp Câu được tạo nên từ nhiều thành tố giữ những chức vụ khác nhau trong câu. Những thành tố này có mối quan hệ qua lại với nhau, phụ thuộc chặt chẽ với nhau. Chúng khiến cho câu trở thảnh một cấu trúc hoàn chỉnh và độc lập. Tính độc lập ấy không phải là biệt lập và nó được thể hiện một cách tương đối. Khi câu nằm trong một đoạn văn, văn bản thì việc viết đoạn văn, văn bản sẽ chi phối từng câu được viết ra sao cho giữa các câu có sự liên kết, thống nhất về chủ đề. 1.1.2.3. Đặc trưng về chức năng Nguyễn Hà Phương - 14 - K32A Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trưởng ĐHSP Hà Nội 2 Sau khi thống nhất về mặt nội dung và hoàn chỉnh về hình thức, câu sẽ thực hiện những sứ mệnh của mình, những chức năng vốn có của câu. Một số chức năng của câu như sau: a) Chức năng giao tiếp Câu là đơn vị ngôn từ nhỏ nhất có thể dùng trong việc giao tiếp. Người ta không chỉ dùng câu để thông báo nội dung được nói đến trong câu mà còn thực hiện nhiều hành vi giao tiếp khác nữa. Ví dụ: Người Việt Nam có thói quen, gặp nhau ở ngoài đường, thay cho lời chào, thường đưa ra một câu hỏi: "Bác đi đâu đẩy ạ?". Câu hỏi này không bắt buộc phải trả lời, người đối thoại có thể chỉ cần đáp lại rằng: "ử!" b) Chức năng biểu thị phán đoán Câu là hình thức ngôn ngữ biểu thị phán đoán. Mọi phán đoán đều có thể được biểu thị bằng câu. Phán đoán là một hình thức của tư duy nhằm phản ánh hiện thực khách quan, bao gồm phán đoán đơn và phán đoán phức. Phán đoán đơn là sự liên hệ giữa khái niệm về đối tượng được phản ánh với một khái niệm về thuộc tính đặc điểm của đối tượng đó. Phán đoán đơn thường được biểu thị bằng câu đơn hai thành phần chính. Cũng có câu đơn chỉ gồm một thành phần chính biểu thị khái niệm về đối tượng còn khái niệm thuộc tính của đối tượng phải dựa vào hoàn cảnh giao tiếp mới xác định được. Phán đoán phức là phán đoán được liên kết từ hai hay nhiều phán đoán đơn. Cần lưu ý rằng mọi phán đoán đều được biểu thị bằng câu nhưng không phải câu nào cũng thể hiện chức năng phán đoán. Yí dụ: (1) Trời ơi! (2) ứ! Câu (1) thể hiện hành vi cảm thán. Nguyễn Hà Phương -15 - K32A Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trưởng ĐHSP Hà Nội 2 Câu (2) thể hiện hành vi không đồng ý, không chấp thuận. Ngoài hai chức năng trên, câu còn thể hiện nhiều chức năng đặc trưng khác nữa. 1.1.3. Các thành phần của câu 1.1.3.1. Thành phần chính của câu a) Chủ ngữ Chủ ngữ là một trong hai thành phần chính của câu, nêu lên đối tượng mà nội dung thông báo của nó được nói tới ở vị ngữ, có mối quan hệ qua lại với vị ngữ. Chủ ngữ có thể được cấu tạo bởi một từ hoặc một cụm từ. Ví dụ: (1) Tôi yêu quê hương tôi. (2) Hút thuốc lá, uống rượu bia nhiều là những thói quen không tốt. Câu (1) có chủ ngữ là một từ. Câu (2) có chủ ngữ là một cụm động từ. Chủ ngữ thường đứng trước vị ngữ. Tuy nhiên trong một số trường họp vị ngữ lại được đảo lên trước chủ ngữ. Ví dụ: Đau đớn thay phận đàn bà. (Nguyễn Du) b) Yị ngữ Vị ngữ là một trong hai thành phần chính của câu, nêu lên nội dung thông báo của đối tượng nói ở chủ ngữ, có mối quan hệ qua lại với chủ ngữ. Ví dụ: (1) Em bé khóc. (2) Cái giường chân bị gãy. Câu (1) vị ngữ là một động từ. Câu (2) vị ngữ là một kết cấu chủ vị. Nguyễn Hà Phương -16- K32A Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trưởng ĐHSP Hà Nội 2 Yị ngữ thường đứng ngay sau chủ ngữ, giữa vị ngữ và chủ ngữ không ngăn cách bằng dấu phẩy hay liên từ nào. 1.1.3.2. Thành phần phụ của câu a) Trạng ngữ Trạng ngữ là thành phần phụ của câu bổ sung ý nghĩa về hoàn cảnh, thời gian, không gian, địa điểm cho các sự kiện ở nòng cốt câu. Trạng ngữ thường ngăn cách với câu bằng dấu phẩy, bắt đầu bằng quan hệ từ V ỉ, do, bởi, trên, dưới,... Ví dụ: Mùa xuân, cây cối trăm hoa đua nở. b) Đề ngữ Đề ngữ là thành phần phụ của câu nêu lên chủ đề của câu nói. Nó có mối quan hệ chính phụ với nòng cốt câu, và có vị trí đặc thù đứng ở đầu câu. Ví dụ: Nhà, bà ấy có hàng dãy ở khắp các phố huyện. Ruộng, bà ấy có hàng trăm mẫu ở nhà quê. (Nguyễn Công Hoan) c) Vị ngữ phụ Yị ngữ phụ là thành phần tương ứng vị ngữ được đẩy lên trước, bổ sung ý nghĩa cho nòng cốt câu: ý nghĩa về sự kiện. Nó có thể kết họp với chủ ngữ để tạo thành một câu trọn vẹn trong trường hợp vắng vị ngữ chính. Ví dụ: Tay xách nón, chị Dậu rón rén bước lên thềm nhà. (Ngô Tất Tố) 1.1.3.3. Thành phần phụ của từ a) Bổ ngữ Bổ ngữ là thành phần phụ của từ bổ sung ý nghĩa cho động từ hoặc tình từ trong câu. Nó có thể đứng sau hoặc trước động từ hoặc tính từ mà nó bổ nghĩa. Nguyễn Hà Phương - 17 - K32A Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trưởng ĐHSP Hà Nội 2 Yí dụ: Nó xây nhà. Nhà là bổ ngữ chỉ vật được tạo tác, bổ sung ý nghĩa cho xây. b) Định ngữ Định ngữ là thành phần phụ của từ bổ sung ý nghĩa cho danh từ. Ví dụ: Cái bàn màu xanh là của tôi. Màu xanh là định ngữ chỉ màu sắc, bổ sung ý nghĩa cho bàn. c) Giải ngữ của từ Giải ngữ của từ là thành phần phụ dùng để thuyết minh thêm nội dung hay giải thích, bổ sung thêm khía cạnh nào đó cho từ mà nó phụ thuộc về nghĩa. Ví dụ: Rồi bà cười ha hả, cái cười ích kỉ, vơ vào. (Nguyễn Công Hoan) 1.13.4. Thành phần biệt lập của câu a) Tình thái ngữ Tình thái ngữ là thành phần biệt lập, được dùng trong câu để bổ sung ý nghĩa về mặt cảm xúc, thái độ, về sự đánh giá của người nói đối với người nghe hoặc đối với nội dung được nói tới trong câu. Tình thái ngữ có vị trí khá linh hoạt trong câu. Ví dụ: Chính mắt tôi nhìn thấy nó. Trời đang mưa kia à\ Chỉnh thể hiện thái độ khẳng định, chắc chắn còn kia à ỉ thể hiện thái độ ngạc nhiên. b) Hô ngữ Nguyễn Hà Phương - 18 - K32A Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trưởng ĐHSP Hà Nội 2 Hô ngữ là thành phần biệt lập dùng thêm trong câu để gọi hoặc đáp. Đây là dấu hiệu cho người nghe chú ý tới giao tiếp. Phần gọi có nhiệm vụ thiết lập quan hệ giao tiếp, thu hút chú ý của người nghe. Phần đáp thể hiện tín hiệu phản hồi, chứng tỏ người nghe chịu cộng tác với người nói. Ví dụ: Lan 07, đợi tớ với! Dạ, con nhớ rồi! Hô ngữ ngoài chức năng gọi đáp còn thể hiện mối quan hệ tình cảm giữa những người tham gia giao tiếp. c) Phụ chú ngữ (giải ngữ của câu) Phụ chú ngữ là bộ phận chêm xen, nằm ngoài cấu trúc cú pháp của câu, dùng để chú giải thêm một khía cạnh nào đó có liên quan đến sự tình nêu trong câu, giúp người nghe/ đọc hiểu rõ hơn về nội dung của câu hay dụng ý của người chú giải. Ví dụ: Cô gái nhà bên (có ai ngơ) Cũng vào du kích Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích Mắt đen tròn {thương thương quá đi thôi)... (Giang Nam) d) Liên ngữ Liên ngữ là thành phần biệt lập được dùng thêm trong câu để nối câu chứa nó với những câu khác. Yí dụ: Hồ Chủ tịch thường nói: không có cái gì dễ mà cũng không có cái gì khó. Nghĩa là, có dễ đi nữa thì cũng phải phấn đấu mới thành công, còn khó đến mấy mà quyết tâm phấn đấu, phấn đấu có phương pháp, có kế hoạch thì cũng thắng lợi. Nguyễn Hà Phương - 19 - K32A Ngữ Văn Khóa luận tốt nghiệp Trưởng ĐHSP Hà Nội 2 (Phạm Văn Đồng) 1.1.4. Các kiểu cẩu tạo ngữ pháp của câu 1.1.4.1. Tiêu chỉ phân loại Có nhiều cách phân loại câu. Tùy theo tiêu chí của mỗi tác giả nghiên cứu mà câu được phân thành nhiều loại khác nhau. Ở đây chúng tôi sử dụng cách phân loại câu của GS.TS Diệp Quang Ban để có được tính hệ thống và nhất quán khi nghiên cứu về vấn đề tách câu trong các trường họp câu được phân loại. Sự phân loại câu của tác giả Diệp Quang Ban gồm : - Mặt cấu tạo về ngữ pháp cơ bản của câu. - Mặt tác dụng giao tiếp cơ bản hay mục đích nói của câu. - Mặt cấu tạo dạng phủ định của câu. Ở đây chúng ta chỉ bàn đến cách phân loại về mặt ngữ pháp, tức là sự phân loại dựa đồng thời vào hình thức biểu hiện và nội dung khái quát được biểu hiện. Sự phân loại này, mặt khác cũng căn cứ trước hết vào câu ở vị trí cô lập, không đặt nó vào trong tổ chức lớn hơn, không tính đến tác dụng của yếu tố bên ngoài bản thân nó. Như vậy, câu sẽ được phân loại thành: câu đơn và câu ghép. Và trong mỗi loại câu lại được chia nhỏ thành nhiều loại câu khác nữa. 1.1.4.2. Ket quả phân loại a) Câu đơn a. 1. Khái niệm: Câu đơn là câu chỉ có một nòng cốt câu. Ví dụ: Một con hải âu bay ngang, là là nhịp cánh. (Nguyễn Tuân) CN: một con hải âu. Nguyễn Hà Phương - 20 - K32A Ngữ Văn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất