Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hiện thực cuộc sống trong truyện ngắn lê minh khuê sau 1975.....

Tài liệu Hiện thực cuộc sống trong truyện ngắn lê minh khuê sau 1975..

.PDF
60
6
64

Mô tả:

1 ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KHOA NGỮ VĂN ---------- NGUYỄN THỊ THU HÀ Hiện thực cuộc sống trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP 2 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Sau 1975, đặc biệt là sau 1986, đời sống văn học Việt Nam có nhiều thay đổi. Sự chuyển tiếp từ thời chiến sang thời bình với những quy luật của nó, sự ảnh hưởng của công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng, cùng những vấn đề bức thiết nổi lên trong lịch sử dân tộc thời hậu chiến,… là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thay đổi của văn học. Văn học bước sang một chặng đường mới với những chuyển biến tích cực trên nhiều phương diện. Trong bức tranh chung ấy, cùng với sự khởi sắc của tiểu thuyết và kí, truyện ngắn cũng đang có bước đột phá về nghệ thuật. Xuất hiện hàng loạt cây bút nữ năng động như Võ Thị Hảo, Dạ Ngân, Nguyễn Thị Ấm, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phạm Thị Hoài…mỗi người một phong cách, một nét vẽ, cùng góp phần làm sinh động hơn, phong phú hơn bức tranh truyện ngắn đương đại. Lê Minh Khuê là một trong những nhà văn nữ để lại dấu ấn khá đậm trong làng truyện ngắn sau 1975. Chị để lại ấn tượng bởi một lối viết sắc sảo, chân thực, khách quan, đôi khi lạnh lùng và suồng sã. Chị quan tâm nhiều hơn đến những trăn trở, băn khoăn về số phận con người, thâm nhập sâu hơn vào 3 những vùng hiện thực chưa được khai phá. Với bản lĩnh của người cầm bút, với tâm huyết và sự say mê nghề nghiệp, Lê Minh Khuê đã tìm được vị trí xứng đáng trên văn đàn Việt Nam. Chọn, nghiên cứu đề tài Hiện thực cuộc sống trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975 chúng tôi hi vọng góp thêm một góc nhìn đối với truyện ngắn Lê Minh Khuê cũng như định vị được vai trò, vị trí của cây bút truyện ngắn này trong dòng chảy truyện ngắn đương đại. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Là một nhà văn, nhà báo năng động và nhạy cảm, ngòi bút Lê Minh Khuê sớm thích ứng với thời cuộc. Nếu trước 1975, những trang văn đẹp của chị là những trang viết sống động về chiến tranh, về huyền thoại người lính thì sau 1975 những sáng tác hấp dẫn, để lại dư ba là những tác phẩm mạnh dạn chạm đến những vấn đề gai góc của cuộc sống đời thường. Cuộc sống thời hậu chiến ngổn ngang, bề bộn là mảnh đất màu mỡ để ngòi bút của chị thăng hoa. Chị viết nhiều. Sau khi khởi động bằng tập truyện ngắn Đoạn kết (1981), chị tiếp tục tăng tốc với Một chiều xa thành phố (1987), Bi kịch nhỏ (1993), Lê Minh Khuê – truyện ngắn (1994), Trong làn gió heo may (1999), Màu xanh man trá (2006), Một mình qua đường (2006), Những ngôi sao, trái đất, dòng sông (2009) …Truyện ngắn của chị dành được sự quan tâm đặc biệt của bạn đọc và các nhà nghiên cứu. Lê Thị Đức Hạnh trong bài viết Lê Minh Khuê ngòi bút truyện ngắn sung sức nhận xét: “Lê Minh Khuê là một cây bút nữ có nhiều đóng góp về truyện ngắn. Từ hồn nhiên trong trẻo đến sắc sảo, nghiêm ngặt, chị luôn có chất giọng riêng…Việc đổi mới bút pháp trong những năm gần đây là dấu hiệu đáng mừng. Lê Minh Khuê là một trong những cây bút đầy tài năng và rất sung sức”.[7] 4 Là người viết nghiên cứu và phê bình già dặn, nhiều kinh nghiệm, Bùi Việt Thắng khi bàn về truyện ngắn Lê Minh Khuê cũng đã nhận định: “Lê Minh Khuê là một nhà văn có phong cách độc đáo”, sử dụng nhiều giọng điệu khác nhau. Nhưng về cơ bản Lê Minh Khuê có những giọng chính: “Giọng điệu trữ tình, giọng hài hước, giễu nhại, giọng lo âu” [19] Còn trong bài Ấn tượng Lê Minh Khuê, Bùi Việt Thắng cho rằng: “Có những nhà văn viết một cách bình thường về những điều khác thường. Có nhà văn khác lại lấy giọng khác thường để kể về những điều bình thường. B aben kể về những điều khác thường một cách cũng rất khác thường. Lê Minh Khuê theo tôi nghĩ thuộc kiểu nhà văn thứ nhất như lời của I.Erenbua” [20]. Cũng bàn về giọng điệu, trong bài Lê Minh Khuê một cốt cách văn chương, Vũ Hà viết: “giọng văn của chị là một “giọng văn đẹp và trang nghiêm, khiến độc giả không thể không suy ngẫm, trái tim không ngủ yên” [5]. Vượt qua phạm vi đánh giá về một mặt riêng lẻ, hoặc những nhận xét có tính chất khái lược về một tác phẩm cụ thể, Hồ Anh Thái trong bài viết Lê Minh Khuê – người đàn bà “viễn thị” đã giúp người đọc có cái nhìn toàn diện hơn về con người cũng như sáng tác của chị. Bên cạnh các nhận xét, đánh giá cao về truyện ngắn Lê Minh Khuê, còn một vài ý kiến ngược chiều tỏ ra nghi ngờ những vấn đề mà Lê Minh Khuê đặt ra trong tác phẩm. Trong bài Bi kịch nhỏ là một truyện ngắn không trung thực đăng trên Báo Sài Gòn Giải Phóng (Chủ nhật ngày 5/9/1993), Trung Nguyễn cho rằng “Bi kịch nhỏ là không trung thực. Dụng ý bôi đen bóp méo sự thật của tác giả thật rõ ràng” . Ngoài những nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu, mười năm gần đây truyện ngắn Lê Minh Khuê cũng nhận được sự quan tâm đặc biệt của sinh viên, học viên cao học tại các trường đại học. Trong luận văn Thạc sĩ Đặc sắc truyện ngắn Lê Minh Khuê, tác giả Nguyễn Thị Đạm (Đại học Vinh) đã 5 khẳng định vị trí và những đóng góp của Lê Minh Khuê trong văn xuôi đương đại. Luận văn cũng đã chỉ ra những nét đặc sắc của truyện ngắn Lê Minh Khuê trên phương diện kết cấu và giọng điệu. Tuy nhiên, do đề tài khá rộng, phủ hết toàn bộ sáng tác của Lê Minh Khuê trước và sau 1975 nên nhìn chung còn khái quát, chưa đi sâu vào từng phương diện cụ thể trong sáng tác của chị. Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Thị Mai (Đại học sư phạm Đà Nẵng) chú ý đến Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê. Khóa luận tập trung nghiên cứu các phương diện: Nhân vật trần thuật, điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật. Nhìn chung, các bài viết, các nghiên cứu trên bước đầu cũng đã khai vỡ được một số phương diện của truyện ngắn Lê Minh Khuê, đặc biệt nghệ thuật trần thuật – một bước tiến về mặt nghệ thuật của Lê Minh Khuê được nhiều nghiên cứu quan tâm. Tiếp cận các nghiên cứu trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài Hiện thực cuộc sống trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975 hy vọng đem đến cái nhìn tương đối toàn diện về truyện ngắn Lê Minh Khuê, trên cơ sở đó đánh giá những đóng góp của chị đối với tiến trình vận động của truyện ngắn đương đại. 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng khảo sát chính của đề tài là 4 tập truyện ngắn của Lê Minh Khuê Bi kịch nhỏ (Nxb Hội nhà văn, 1993); Màu xanh man trá (Nxb Phụ nữ, 2006); Một mình qua đường (Nxb Phụ nữ, 2006); Những ngôi sao, trái đất, dòng sông (Nxb Phụ nữ, 2009). Ngoài ra đề tài còn tham khảo một số truyện ngắn trước 1975 của Lê Minh Khuê để vận dụng trong quá trình so sánh, đối chiếu. 3.2. Phạm vi nghiên cứu 6 Với đề tài này, khóa luận tập trung nghiên cứu bức tranh hiện thực trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975 và các phương thức biểu hiện đặc sắc như nhân vật trần thuật, kết cấu và giọng điệu. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp thống kê - Phương pháp đối chiếu – so sánh - Phương pháp phân tích – tổng hợp 5. BỐ CỤC KHÓA LUẬN Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, khóa luận cấu trúc gồm 3 chương: Chương 1: Truyện ngắn Lê Minh Khuê trong tiến trình truyện ngắn sau 1975 Chương 2: Truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975 – bức tranh hiện thực nhiều màu sắc Chương 3: Phương thức biểu hiện hiện thực cuộc sống trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975 7 8 Chương 1 TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ TRONG TIẾN TRÌNH TRUYỆN NGẮN SAU 1975 1.1. LÊ MINH KHUÊ - NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG ĐỜI, NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG VĂN 1.1.1. Những chặng đường đời Cuộc đời là một trong những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến hành trình sáng tạo văn chương của nhà văn. Từ cuộc đời người đọc có thể tìm thấy sự đồng cảm, tri âm cũng như chân dung, quan niệm văn chương của chính tác giả. Đối với Lê Minh Khuê, mỗi chặng đường đời in dấu rất rõ trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của chị. Lê Minh Khuê tên khai sinh là Lê Thị Minh Khuê, sinh ngày 6 tháng 12 năm 1949, tại xã An Hải, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Lê Minh Khuê mồ côi cha mẹ từ rất sớm, lớn lên trong sự cưu mang, đùm bọc của chú và dì. Người chú yêu thích văn học Pháp, sách vở của ông đã mở ra trong tâm hồn cô bé một thế giới mới, ươm mầm hạt giống văn chương đầu tiên trong Lê Minh Khuê. Năm 1965, chiến tranh diễn ra vô cùng ác liệt, cô gái tỉnh Thanh chưa đầy 16 tuổi rời ghế nhà trường, tham gia kháng chiến. Những tháng năm gian khổ, đối đầu với bom rơi, đạn nổ khốc liệt suốt ngày đêm trên tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử, cô gái đầy mẫn cảm ấy đã tận mắt chứng kiến sự khốc liệt của chiến tranh, lặng lẽ khóc bên những nấm mộ đồng đội ngã xuống, nhiều đêm mất ngủ, trăn trở, suy nghĩ về chiến tranh, về đất nước, con người. Chính những năm tháng gian khổ đầy thử thách ấy là nguồn cảm xúc dồi dào trong những sáng tác sau này của nhà văn. 9 Năm 1967, chị bị thương và điều trị tại quân y viện. Với lòng say mê văn học cùng sự động viên của nhiều người, Lê Minh Khuê bắt đầu viết và lần lượt cho ra đời những bài ghi chép, phóng sự, truyện ngắn dưới bút danh Vũ Thị Miền. Năm 1969 chị được chuyển về làm phóng viên báo Tiền Phong, đến năm 1973 chị đi B. Đây cũng là thời gian chị làm phóng viên của đài truyền hình Việt Nam (1973 – 1977). Công việc thông tấn gấp gáp dường như không thích hợp với tố chất của chị. Năm 1978 Lê Minh Khuê chuyển sang làm biên tập viên của nhà xuất bản Hội nhà văn. Hiện nay, đã nghỉ hưu nhưng chị vẫn được tín nhiệm đảm trách cương vị Chủ tịch hội đồng văn xuôi của Hội nhà văn Hà Nội, Phó chủ tịch hội đồng văn xuôi Hội nhà văn Việt Nam. Và điều đáng ghi nhận hơn cả, con người của công việc không bao giờ ngừng nghỉ trong chị, vừa làm việc Lê Minh Khuê vừa sáng tác, các tác phẩm của chị vừa ra đời đã được sự đón đọc nồng nhiệt của nhiều thế hệ bạn đọc. 1.1.2. Những chặng đường văn Khai sinh đứa con đầu lòng Bức tranh in trên báo Văn nghệ năm 1971, kí tên Vũ Thị Miền, Lê Minh Khuê tỏ ra là một cây bút có duyên với truyện ngắn. Từ những bước đi đầu tiên đến với văn chương và dần hiện lên rõ nét qua từng trang viết, ngòi bút của chị càng viết càng chín. Chặng đường văn của chị là một quá trình phát triển liên tục, đều đặn, trải dài trên cả hai mốc thời gian trước và sau 1975. Trước 1975, để cổ vũ cho tinh thần chiến đấu của toàn dân tộc, ngòi bút Lê Minh Khuê chủ yếu hướng vào đề tài chiến tranh, ca ngợi những con người đang chiến đấu ngoài mặt trận, những con người đặt lợi ích chung của đất nước lên trên quyền lợi cá nhân, sẵn sàng hi sinh cái tôi cũng như mọi quyền lợi chính đáng để chung tay góp sức vào cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc. Các nhân vật của chị được đặt trong các cao điểm bom đạn, ranh giới 10 giữa sự sống và cái chết rất mong manh, nhưng tất cả không làm vơi đi nhiệt huyết của tuổi trẻ, họ sẵn sàng chấp nhận. Ở chặng thứ nhất này Lê Minh Khuê đã sáng tác tất cả 12 truyện gồm: Con sáo nhỏ của tôi, Bạn bè tôi, Nơi bắt đầu những bức tranh, Những ngôi sao xa xôi, Cao điểm mùa hạ, Mẹ, Tình yêu người lính, Con trai của những người chiến sĩ, Bình minh ven biển, Chuyện nhỏ hồi chiến tranh và hai truyện cuối cuộc chiến: Anh kĩ sư dạo trước, Bầu trời trong xanh. Trong số 12 truyện đó, ngoài 10 truyện đầu tác giả xây dựng nhân vật theo mô hình lý tưởng của văn học thời chiến, 2 truyện sáng tác cuối cuộc chiến có sự thay đổi về nghệ thuật xây dựng nhân vật, báo hiệu cho sự vận động trong cái nhìn cũng như bút pháp của nhà văn trên con đường văn nghiệp của mình. Bước sang chặng thứ hai, ngòi bút Lê Minh Khuê càng sung sức. Một loạt truyện ngắn ra đời trong sự nỗ lực đổi mới của chị. Tuy nhiên, một số tác phẩm vẫn còn dấu ấn của phong cách sáng tác trước 1975. Nhưng đến khi tập truyện ngắn Một chiều xa thành phố (1987), tập truyện ngắn được giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 1987 xuất hiện thì truyện ngắn Lê Minh Khuê thực sự chuyển hướng. Sau tập Một chiều xa thành phố (1987) là sự kế tiếp của Bi kịch nhỏ (1993), Lê Minh Khuê – truyện ngắn (1994), Trong làn gió heo may (1999), Màu xanh man trá (2006), Một mình qua đường (2006), Những ngôi sao, trái đất, dòng sông (2009). Với quan niệm “Văn chương phải là văn chương. Người viết không nên kể sống sít cho xong một câu chuyện, một tâm trạng mà không bộc lộ được ý tưởng chính. Đã viết văn, thì cần phải cẩn thận từng dấu chấm, dấu phẩy, cách dùng từ, cách diễn đạt cảm xúc”, các tác phẩm của Lê Minh Khuê ngày càng thu hút được đông đảo bạn đọc trên nhiều vùng miền tổ quốc. Bên cạnh giải thưởng của Tạp chí Văn nghệ Quân đội (Bi kịch nhỏ), giải thưởng của Hội nhà văn (Một chiều xa thành phố, Trong làn gió heo may), tháng 4 năm 2008 với tập 11 truyện ngắn Những ngôi sao, trái đất, dòng sông chị đã nhận được giải thưởng văn học quốc tế của Hàn Quốc mang tên văn hào Byeong – Ju Lee. Nhìn một cách tổng quan hai chặng đường sáng tác của Lê Minh Khuê, có thể thấy chị xứng đáng được tôn vinh là cây bút truyện ngắn xuất sắc trong dòng văn học đương đại Việt Nam. Chín tập truyện ngắn được sáng tác trong hai giai đoạn khác nhau. Mỗi giai đoạn tập trung vào một mảng đề tài cụ thể và sự thay đổi không ngừng về bút pháp. Đó là những nỗ lực của Lê Minh Khuê trên hành trình sáng tạo. 1.2. TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ TRONG DÒNG CHẢY TRUYỆN NGẮN SAU 1975 1.2.1. Vài phác thảo về bức tranh truyện ngắn sau 1975 Bước ra khỏi cuộc chiến tranh với tâm thế của người thắng cuộc, thế nhưng chúng ta lại vấp phải vô vàn khó khăn khi bắt tay vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Với những di chứng đau thương còn sót lại của chiến tranh cộng thêm vào đó là sự bất cập của cơ chế bao cấp lạc hậu đã đặt ra yêu cầu cấp thiết cho Đảng và nhà nước ta, là cần phải có một đường lối đổi mới phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước. Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) là mốc đánh dấu sự chuyển mình của xã hội Việt Nam, mở ra thời kì mới đưa đất nước phát triển theo con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Hòa chung vào không khí đổi mới của đất nước, văn học đã có sự chuyển mình và phát triển trên nhiều phương diện. Bên cạnh những đổi mới về nội dung và nghệ thuật; sự cách tân về mặt thể loại cũng là bước tiến đáng kể của văn học thời kì này. Cùng với tiểu thuyết và kí, truyện ngắn đã gặt hái được nhiều thành công. Không những phong phú về nội dung, đề tài, truyện ngắn còn đạt đến độ kết tinh về mặt nghệ thuật. Đặc biệt có độ lùi nhất định về thời gian, truyện ngắn có điều kiện suy ngẫm, chiêm ngiệm về những vấn đề đã và đang xảy ra sâu sắc và chín chắn hơn. 12 Bàn về sự đổi mới của truyện ngắn sau 1975, không thể không nhắc đến sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người. Nếu truyện ngắn trước 1975 khám phá con người dưới ánh sáng của lý tưởng và cảm hứng sử thi, thì truyện ngắn sau 1975 đã đi sâu vào đời sống nội tâm, để cảm nhận những suy tư thầm kín, những nỗi niềm trắc ẩn của con người. Con người được khai thác ở nhiều bình diện, trong nhiều mối quan hệ đan xen, chồng chéo, đặc biệt đời sống tâm linh, vẻ đẹp phồn thực của cuộc đời trần thế, tình yêu, tình dục đã được truyện ngắn mạnh dạn tiệm cận. Truyện ngắn giai đoạn này xuất hiện nhiều kiểu nhân vật mới mà trước đây chưa có như: nhân vật sám hối, nhân vật cô đơn, nhân vật bản năng. Các kiểu nhân vật này có thể bắt gặp trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Lập, Ma Văn Kháng, Võ Thị Hảo… Bên cạnh sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người, truyện ngắn sau 1975 còn có nhiều cách tân trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Việc xây dựng nhân vật trong truyện ngắn bây giờ không còn là xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, tiêu biểu cho một xã hội, một giai cấp nhất định như trước nữa. Sau 1975 với sự phát triển của đời sống mới, kéo theo đó là bao bộn bề, lo toan của cuộc sống thường ngày đã tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học. Cuộc sống thời hậu chiến là một thế giới sống động, đa chiều, đa diện được tạo nên bởi những mảng hiện thực đa dạng, nhiều gam màu. Và con người trong văn học hôm nay không phải đơn phiến, đơn trị như trước mà thay vào đó là con người đa chiều, lưỡng diện với nhiều giá trị khác nhau: nhân cách và phi nhân cách, ý thức và vô ý thức, khát vọng cao thượng và dục vọng thấp hèn… Truyện ngắn giai đoạn này còn có sự cách tân về mặt kết cấu. Nếu như trước đây, truyện ngắn chủ yếu được xây dựng theo kiểu kết đơn tuyến, diễn biến sự kiện theo mạch thời gian thì kết cấu truyện ngắn sau 1975 đã có sự 13 biến hóa, xuất hiện cốt truyện phân mảnh, lắp ghép. Và các mảnh ghép không còn được mô tả theo trật tự tuyến tính, mà được phục dựng thông qua thủ pháp hồi tưởng, ghép nối, cắt dán khá mới lạ. Kết thúc truyện ngắn cũng khá bất ngờ và ấn tượng. Hầu hết truyện ngắn sử dụng kiểu kết cấu mở - bỏ ngỏ vấn đề, sự kiện tạo cơ hội để người đọc cùng đối thoại, cùng tranh luận. Sau 1975, truyện ngắn tiếp cận hiện thực ở cự li gần bằng thái độ thân mật, suồng sã, vì vậy mà ngôn ngữ, giọng điệu trong truyện ngắn giai đoạn này mang đậm tính khẩu ngữ. Ngôn ngữ không còn mang tính chất hoa mĩ, trang trọng như trước đây, thay vào đó là lớp ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi với cuộc sống đời thường. Sự cách tân về mặt giọng điệu cũng là điểm mới đáng ghi nhận của truyện ngắn. Nếu như truyện ngắn trước 1975 nổi lên với giọng ngợi ca đậm chất sử thi thì truyện ngắn sau 1975 thật sự sinh động với sự kết hợp, hòa phối bởi nhiều kiểu giọng: giọng phấn chấn, ngợi ca; giọng hài hước, châm biếm; giọng trầm tư, xúc cảm; giọng chiêm nghiệm, triết lý. Có thể nói, đây là một trong những yếu tố làm nên thành công của truyện ngắn sau 1975, đưa truyện ngắn đến gần với bạn đọc. Nhìn lại chặng đường phát triển của truyện ngắn, có thể thấy hơn ba mươi năm không ngừng vận động và chuyển biến, truyện ngắn đã có những bước tiến dài về mặt nghệ thuật: đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người, về kỉ thuật xây dựng nhân vật, về kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu…tất cả đem lại cho truyện ngắn một diện mạo mới, hấp dẫn người đọc như nhà văn Nguyễn Minh Châu từng nhận: “Chỉ cần ít trang văn xuôi mà họ có thể làm nổ tung trong tình cảm và ý nghĩ người đọc những điều rất xa và da diết của con người, khiến người đọc phải nhớ mãi, suy nghĩ mãi, đọc đi đọc lại vẫn không thấy chán”. 14 1.2.2. Lê Minh Khuê – cây bút truyện ngắn sắc sảo Bước chân vào làng văn từ rất sớm, Lê Minh Khuê đã khẳng định vị trí trên văn đàn. Được ươm mầm văn chương từ nhỏ bởi người chú say mê văn học Pháp, cộng thêm vào đó là cuộc đời đầy trải nghiệm của một chiến sĩ thanh niên xung phong, Lê Minh Khuê đã có một hành trình sáng tạo nghệ thuật rất phong phú và đa dạng. Chặng đường văn của chị trải dài trên cả hai mốc thời gian đánh dấu sự chuyển mình của văn học dân tộc trước và sau 1975. Trước 1975, người đọc tìm thấy trong những trang văn của Lê Minh Khuê hình ảnh của một nhà văn đồng thời là một người chiến sĩ, dùng văn chương để phục vụ nhiệm vụ chính trị và cổ vũ tinh thần chiến đấu của dân tộc. Đọc tác phẩm Lê Minh Khuê giai đoạn này người đọc sẽ bắt gặp một Lê Minh Khuê năng động dấn thân trên các nẻo đường, trên các mặt trận ác liệt để kịp thời ghi nhận những biến chuyển của cuộc kháng chiến, cũng như ngợi ca những con người đặt lợi ích chung của đất nước lên trên quyền lợi cá nhân, sẵn sàng hi sinh quyền lợi cá nhân góp sức vào cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc. Nhìn chung, giai đoạn này, chị viết không nhiều song truyện ngắn của chị đã thể hiện những khám phá mới của một cây bút trẻ khao khát sáng tác và trải nghiệm. Bước sang chặng đường thứ hai của hành trình sáng tạo nghệ thuật, ngòi bút truyện ngắn Lê Minh Khuê có sự chuyển hướng rõ rệt. Chị quan tâm nhiều hơn đến số phận con người, đi sâu vào khai thác nội tâm nhân vật kể cả miền khuất lấp, trắc ẩn. Đối tượng quan sát trong các tác phẩm của chị cũng đa dạng, phong phú hơn với đầy đủ thành phần từ trí thức, nghệ sĩ, quan chức cho đến tiểu thương, nông dân…, đặc biệt Lê Minh Khuê đã mạnh dạn khai phá những vùng hiện thực phức tạp, đó là sự sa sút của nhân tính, của lòng vị tha, là sự gia tăng của cái xấu, cái ác. Viết về cái ác, cái xấu, cái ti tiện, cái bất nhân, nhưng không phải vì thế mà cho rằng nhà văn chán ghét cuộc sống. Viết về cái xấu là nhằm thức tỉnh con người, nhằm xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn. 15 Nếu như ở chặng thứ nhất, với khuynh hướng sử thi kết hợp với cảm hứng lãng mạn, Lê Minh Khuê khai thác con người ở vẻ đẹp cộng đồng, họ hầu hết là những chiến sĩ cách mạng, kết thúc truyện bao giờ cũng tươi sáng, tràn đầy niềm lạc quan, tin tưởng, thì đến chặng thứ hai khuynh hướng sử thi đã được thay thế bằng khuynh hướng phi sử thi hóa, con người được nhìn ở góc cạnh đời tư thế sự, được nhìn nhiều chiều với đầy đủ các tính cách của con người thực tại. Bên cạnh sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người, truyện ngắn Lê Minh Khuê cũng đang dần đạt được nhiều cách tân về mặt kết cấu. Nếu như trước 1975 truyện ngắn của chị chủ yếu được xây dựng theo lối kết cấu đơn tuyến, thì sau 1975 kết cấu truyện ngắn của chị biến hóa theo hướng hiện đại. Hầu hết truyện ngắn của chị giai đoạn này có kết thúc khá bất ngờ, ấn tượng. Bên cạnh đó, ngôn ngữ và giọng điệu cũng đạt được nhiều bước tiến đáng ghi nhận. Ngôn ngữ mang tính chất trang trọng trước đây được thay thế bằng lớp ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi với cuộc sống đời thường. Giọng điệu thì hấp dẫn, sinh động hơn bởi sự đan xen nhiều kiểu giọng: giọng hài hước, giễu nhại, giọng trữ tình thương cảm, giọng chiêm nghiệm, triết lý… Nhìn lại hành trình sáng tạo của Lê Minh Khuê, có thể nhận xét: chị là cây bút truyện ngắn sắc sảo. Mạnh dạn lao vào những vùng hiện thực nguy hiểm, mạnh dạn mổ xẻ bằng “lưỡi dao” sắc cạnh, truyện ngắn của chị thực sự để lại dấu ấn trên dòng chảy truyện ngắn đương đại Việt Nam. 16 Chương 2 TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU 1975 – BỨC TRANH HIỆN THỰC NHIỀU MÀU SẮC 2.1. HIỆN THỰC NHÌN TỪ SỨC MẠNH ĐỒNG TIỀN Trong xã hội Truyện Kiều, đồng tiền mang trong mình sức mạnh tác quái ghê gớm:“Quan lại vì tiền mà bất chấp công lý; sai nha vì tiền mà tra tấn cha con Vương ông; Tú Bà, Mã Giám Sinh, Bạc Bà, Bạc Hạnh vì tiền mà làm nghề buôn thịt bán người; Sở Khanh vì tiền mà tán tận lương tâm; Khuyển, Ưng vì tiền mà làm những điều đại ác. Cả một xã hội chạy theo đồng tiền. Đồng tiền cơ hồ đã thành một thế lực vạn năng. Tài hoa, nhan sắc, tình nghĩa, nhân phẩm, công lý đều không có nghĩa lý gì trước thế lực của đồng tiền”. Trong thời đại ngày nay, đồng tiền càng khẳng định rõ hơn sức mạnh của nó. Đồng tiền không chỉ là nguồn lực của sự phát triển, nâng cao đời sống xã hội, mà đồng tiền còn làm đảo lộn cuộc sống, làm suy vi những giá trị đạo đức, làm mai một ý chí, nhân phẩm con người…Dường như, đồng tiền đang nghiễm nhiên trở thành một lực lượng vô hình chi phối toàn bộ cuộc sống xã hội. Về sự thao túng của đồng tiền, có lẽ Lê Minh Khuê là nhà văn đã có nhiều thành công nhất định. 2.1.1. Đồng tiền và sự suy vi các giá trị đạo đức xã hội Đến với tác phẩm của Lê Minh Khuê người đọc như bị lạc vào thế giới đầy bí ẩn đằng sau mặt trái của đồng tiền. Tất cả các mối quan hệ thiêng liêng, huyết thống bấy lâu nay được trân trọng, gìn giữ giờ đây đang dần mai một bởi sự chi phối của đồng tiền. Nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sùng bái đồng tiền một cách thái quá. Họ sẵn sàng dẫm đạp lên tất cả miễn sao có tiền. Chém giết, xâu xé nhau vì tiền, có nhân vật đem đồng tiền ra làm 17 trò đùa, có kẻ xem đồng tiền là mục tiêu của hành động…Dưới ngòi bút của Lê Minh Khuê nhân vật như con thiêu thân lao vào vòng lợi danh của đồng tiền. Giá trị đạo đức bị suy vi đến mức cực độ. Ma lực của đồng tiền đã làm cho máu đổ, anh em chém giết nhau, con âm mưu kiếm tiền từ thân xác của người cha già, ngay cả những đứa trẻ ngây thơ mới lọt lòng mẹ cũng trở thành món hàng béo bở của người cha trong cơn thèm thuốc phiện… Khảo sát 4 tập truyện ngắn của chị, chúng tôi thấy nổi lên nhiều truyện ngắn phản ánh sự suy vi của các giá trị đạo đức truyền thống: Đồng đô la vĩ đại, Những kẻ chờ sung, Anh lính Tô – ny D, Kí sự những mảnh đời trong ngõ, Sân gôn… Đồng đô la vĩ đại là một trong những truyện ngắn thành công của Lê Minh Khuê khi viết về mảng hiện thực này. Câu chuyện kể về đại gia đình lão Trương, một mẫu gia đình điển hình cho sự hám tiền, chỉ trừ thằng Nghẽo dở người không biết gì và cô Trang được xem là “ngôi sao lạ lạc vào bầu trời tăm tối nhà lão Trương” còn lại từ con trai cho đến các nàng dâu đều mang trong mình thói hám tiền. Chỉ vì 100 đô la cô Trang gửi về nuôi thằng Trọng mà gia đình lão Trương đã xảy ra một vụ án “kinh thiên động địa”. An đâm chết chị dâu và cái bào thai bảy tháng tuổi. Kết cục, An lĩnh án tử hình, Khang thì hóa điên. Đồng tiền có sức mạnh ghê gớm, nó làm cho con người mất hết lương tâm, mất hết nhân tính. Nếu trong Đồng đô la vĩ đại người đọc được chứng kiến một cảnh tượng vô cùng ghê sợ, máu lạnh, với hành động nhẫn tâm đâm chết chị dâu và cái bào thai bảy tháng tuổi của An thì đến truyện ngắn Những kẻ chờ sung vợ chồng lão Tê cũng là những kẻ bất nhân không kém. Hiện lên trong truyện ngắn là vợ chồng lão Tê và vợ chồng lão Tái, họ đều có chung một tâm lý chờ đợi, “há miệng chờ sung”. Họ hờ hững trước tất cả, lúc nào cũng chỉ trông mong, ỷ lại và chờ đợi vận may đến với mình. Tình cảm anh em chỉ thức dậy trong lão Tê khi bức thư của cô Cành gửi về “Cậu Tê phải tìm cho được cậu Tái, rồi tôi sẽ mang tiền về cho hai 18 cậu. Cố tìm nhau. Nếu không được thì tôi cũng chưa về và cũng chưa gửi tiền” [10, tr 158]. Vậy là công cuộc tìm kiếm người em thất lạc bấy lâu nay được lão Tê tiến hành khẩn cấp. Đồng tiền có sức mạnh thật lớn lao, nó có thể đánh thức được tình anh em bấy lâu nay được chôn vùi trong lòng lão Tê, một con người vốn vô tâm, dửng dưng với tất cả mọi thứ. Đồng tiền đã khiến cho cuộc gặp gỡ giữa hai anh em lão Tê trở thành cuộc gặp gỡ định mệnh. Chỉ vì mấy cây vàng, lão Tê đã bất chấp tình máu mủ, sát hại em mình một cách vô cùng tàn nhẫn. Đến cả những chỉ vàng cuối cùng lão Tái thu ở vùng kín của cơ thể cũng bị lão Tê phát giác. Nhân cơ hội lão Tái đang ngủ say thì lão Tê ra tay hành động, lão lấy gối chặn mũi, bóp bộ hạ gần như bị nát ra, khi đụng quần lão Tái nhầy nhụa một thứ nước gì đó trộn lẫn với phân lão Tê mới bừng tỉnh. Độc ác, nhẫn tâm hơn để phi tang chứng cứ, lão đã cắt thân xác em mình ra làm nhiều mảnh rồi đem chôn xuống nền nhà. Cái chết thê thảm của lão Tái cùng với bộ dạng điên khùng của lão Tê ở cuối truyện là hậu quả của những việc làm mất nhân tính, vô lương tâm của con người khi chạy theo ham muốn, dục vọng của đồng tiền. Ma lực của đồng tiền trong truyện ngắn của Lê Minh Khuê thật quá khủng khiếp. Lòng tham và sự độc ác, đã biến con người thành một con mãnh thú nhẫn tâm sát hại cả những người thân cùng chung dòng máu với mình. Cuộc sống dường như đang bị đảo lộn bởi đồng tiền, tình cảm anh em máu mủ đang ngày càng nhạt lạnh, thay vào đó là những án mạng. Bàn tay vô hình của đồng tiền trong bóng tối như đang giăng lưới bủa vây, kìm tỏa con người trong vòng xoáy của sự tham lam và độc ác. Phải chăng, Lê Minh Khuê đang cố hết sức mình để kéo họ về phía ánh sáng mặt trời, ánh sáng của sự thức tỉnh. Hòa chung mạch đề tài này, truyện ngắn Anh lính Tô – ny D người đọc được chứng kiến một màn kịch gay cấn về sự đảo lộn tôn ti trật tự trong gia đình thì truyện ngắn Kí sự những mảnh đời trong ngõ lại mở ra trước mắt người đọc một màn kịch “báo hiếu trả nghĩa cha” đầy kịch tính của vợ chồng lão Tó. Là 19 một người có địa vị và một công ty hái ra tiền, thế nhưng lão Tó lại là một kẻ vô cùng tham tiền. Nhìn cái chết của cô Tý câm và sự lên đời của mụ Tít – mẹ cô Tý sau khi được gã lai tây bồi thường mà lão không thể kìm nén lòng tham vô hạn của mình “mặt Tó trông rất lạ. Cái gì đó vừa lóe lên như một phát kiến vĩ đại đến với ngài, mặt ngài rạng rỡ lên một phút” [11, tr 111]. Vợ chồng lão rắp tâm đem người bố già yếu của mình ra nằm hóng mát ở lề đường mong thằng tây kia say rượu chẹt chết để được nhận tiền bồi thường. Vợ chồng lão không ai bảo ai thầm nghĩ “Nhà này đã giàu rồi. Nhưng nếu được chục triệu như mụ Tít thì ai dám chê? Gì chứ mả nhà mình có phát, thằng tây say rượu có xồ vào ông bố 90 nhà mình. Chục triệu mình không thèm. Phải hơn gấp đôi” [11, tr 113]. Sự đời thật trớ trêu, con cái đền công sinh thành của bố bằng cách cầu mong thằng tây say rượu chẹt chết bố mình để nhận tiền bồi thường. Bầu trời dường như bị bao phủ bởi một màu đen tối của đồng tiền, để rồi, đau đớn thay màn kịch khép lại với lời rủa của vợ chồng lão Tó với thằng tây “Mẹ nó, sao dạo này nó đi đứng cẩn trọng thế?” [11, tr 115]. Nếu như Kí sự những mảnh đời trong ngõ đưa người đọc đến với vợ chồng lão Tó bất hiếu, mưu cầu tiền bạc từ thân xác ông bố già 90 tuổi, thì ở truyện ngắn Sân gôn người đọc lại bắt gặp Lanh, một ông bố mất hết nhân tính. Hắn kiếm tiền bằng cách dụ dỗ con mình bán cho bọn buôn người qua biên giới để thỏa mãn cơn thèm thuốc phiện. Tình phụ tử bị Lanh chối bỏ bằng một câu nói vô cảm “tôi đang cần tiền mà”. Quan hệ trong gia đình đang đứng trên bờ vực thẳm. Cuộc sống bây giờ không còn là “môi hở răng lạnh”, “máu chảy ruột mềm” nữa mà thay vào đó là sự lên ngôi và ngự trị của đồng tiền. Viết những truyện ngắn này, Lê Minh Khuê như muốn gióng một hồi chuông cảnh tỉnh đến toàn xã hội: hãy biết trân trọng gìn giữ và nâng niu những mối quan hệ tốt đẹp trong gia đình, hãy thoát khỏi vũng bùn của căn bệnh trông chờ ỷ lại, “há miệng chờ sung”. Con người cũng nên thay đổi 20 cách suy nghĩ, nhìn nhận của mình về đồng tiền, đồng tiền không phải là toàn năng mà ẩn chứa đằng sau nó là biết bao nguy hiểm, tội ác, đau thương có khi phải đổi bằng cả tính mạng. 2.1.2. Đồng tiền và sự băng hoại lối sống của con người Không chỉ tác yêu tác quái, khởi nguồn cho những cuộc chiến đẫm máu trong gia đình, đồng tiền còn tấn công làm đảo lộn đạo đức xã hội. Dưới ma lực hấp dẫn của đồng tiền, những lối sống đẹp đã mất dần thay vào đó là lối sống thực dụng, sùng bái đồng tiền, chạy theo vật chất, chạy theo dục vọng để rồi dẫm đạp lên sự đau khổ của những người xung quanh. Với con mắt tinh tế của một nhà văn từng trải, Lê Minh Khuê đã soi thấu vào những góc khuất của cuộc sống, chị nhận ra rằng trong cuộc đời này bên cạnh những người tốt vẫn còn không ít những kẻ lừa lọc, tham lam luôn sống trong cái tôi cá nhân ích kỉ, nhỏ bé, thấp hèn. Đọc truyện ngắn của chị chúng ta không khỏi bức xúc trước nhân vật Phúc trong Trò chơi cờ bạc luôn tìm cách trục lợi gia sản, ham muốn giàu sang trong khi đó mình chỉ là một anh sinh viên nghèo, tri thức dở dang, lười nhác. Hay Đáng trong Xóm nhỏ, là một trí thức song lại mang trong mình bản chất của kẻ bất nhân, vô đạo đức. Vì đồng tiền, Đáng không ngần ngại đẩy bà cô đến cái chết trước tuổi để cướp đi căn nhà, tiền của kiếm được từ mồ hôi, nước mắt của bà. Nhân vật Sánh trong Những ngày trở về tìm đủ mọi cách để có được những thứ mà mình không đổ mồ hôi làm ra. Tất cả các nhân vật trên của Lê Minh Khuê đều là những kẻ luôn chạy theo lối sống thực dụng, sẵn sàng đánh mất lòng tự trọng của bản thân mình. Không dừng lại ở lối sống thực dụng, nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê còn hiện ra với lối sống hám tiền, sùng bái đồng tiền để rồi giẫm đạp lên sự đau khổ của những người xung quanh. Trong Đồng tiền có màu xanh huyền ảo, Vĩnh luôn lấy đồng tiền ra giăng bẫy người khác, hắn cho
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng