Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Hệ thống tòa án anh và mỹ dưới góc độ luật so sánh...

Tài liệu Hệ thống tòa án anh và mỹ dưới góc độ luật so sánh

.PDF
20
637
109

Mô tả:

ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI KHOA LUẬT ❧❧ TIỂU LUẬN MÔN LUẬT SO SÁNH Hệ thống Tòa án Anh và Mỹ dưới góc độ Luật So Sánh Nhóm thực hiện: Lớp tín chỉ: Giảng viên hướng dẫn: Nhóm 3 PLU202.1 Đặng Thị Minh Ngọc Hà Nội, 2017 Danh sách thành viên trong nhóm STT 1 2 3 4 HỌ VÀ TÊN Nguyễn Ngọc Huyền Phạm Anh Đức Hoàng Bích Thảo Hà Thuỳ Linh MÃ SINH VIÊN 1616610058 1616610026 1616610096 1616610067 ĐÁNH GIÁ CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM VỀ HIỆU QUẢ LÀM VIỆC Họ tên MSV Phân công công việc Hiệu quả làm việc Nguyễn Ngọc Huyền 1616610058 (Trưởng nhóm) Lời mở đầu Phần III, mục 2 Phần V Tổng hợp, biên tập Hoàn thành tốt Phạm Anh Đức 1616610026 Phần III, mục I Phần IV, mục 2 Hoàn thành tốt Hà Thùy Linh 1616610097 Phần II Phần IV, mục I Hoàn thành tốt Hoàng Bích Thảo 1616610096 Phần I Phần VI Lời kết Hoàn thành tốt MỤC LỤC MỤC LỤC 1 LỜI MỞ ĐẦU 2 PHẦN NỘI DUNG 3 I. Cơ sở lý luận về đề tài nghiên cứu 3 II. Sự tương đồng cơ bản giữa hệ thống tòa án Anh và hệ thống tòa án Mỹ 4 III. Sự khác biệt giữa hệ thống tòa án Anh và hệ thống tòa án Mỹ 5 IV. Lý giải sự tương đồng và khác biệt trong hệ thống tòa án của Anh và Mỹ 12 V. Một số nhận xét, đánh giá về hệ thống tòa án Anh và Mỹ 14 VI. Vận dụng đề tài nghiên cứu trong việc hoàn thiện hệ thống tòa án tại Việt Nam 14 LỜI KẾT 16 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 17 LỜI MỞ ĐẦU Pháp luật là vị quan tòa không biết nói, và quan tòa là pháp luật biết nói. Luật pháp và tòa án có một mối quan hệ chặt chẽ và mật thiết với nhau. Tòa án là công cụ đắc lực để pháp luật có thể được thực thi. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về pháp luật của bất cứ quốc gia nào, thì hệ thống tòa án luôn là một chủ đề quan trọng và không thể thiếu. Việc nghiên cứu hệ thống tòa án có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn bởi nếu có thể hiểu được bản chất, xác định chính xác và sử dụng đúng đắn các kết quả nghiên cứu ấy sẽ góp phần tích cực vào công cuộc hoàn thiện hệ thống tòa án và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật của nó. Vì những lý do trên, nhóm chúng em đã lựa chọn đề tài nghiên cứu “ Hệ thống tòa án Anh và Mỹ dưới góc độ Luật so sánh”. Cùng thuộc dòng họ Common Law, Anh, Mỹ đều mang những nét đặc trưng của dòng họ pháp luật này, song không thể phủ nhận những nét riêng trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, đặc biệt là trong hệ thống tòa án. Với mục đích nghiên cứu nhằm tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trong hai hệ thống tòa án của hai quốc gia đứng đầu trên thế giới, nhóm chúng em mong muốn có thể có một cái nhìn cụ thể, chi tiết hơn về hệ thống tòa án của dòng họ Common law nói chung cũng như hệ thống tòa án Anh – Mỹ nói riêng từ đó lý giải và đưa ra quan điểm của nhóm về việc vận dụng đề tài này trong hoàn thiện hệ thống tòa án ở Việt Nam. Tuy nhiên do thời gian nghiên cứu có hạn, cũng như để đảm bảo hoàn thiện bài tiểu luận, trong nghiên cứu ngày, chúng em xin tập trung so sánh về cấp xét xử cao nhất trong hệ thống tòa án – Tòa án tối cao. Do thời gian làm gấp rút, nhóm chúng em không tránh khỏi những sai sót nhất định trong bài tiểu luận, chúng em hi vọng nhận được sự góp ý, lời nhận xét để bài tiểu luận của chúng em trở nên hoàn thiện hơn. Chúng em xin trân trọng cảm ơn Ths. Đặng Thị Minh Ngọc đã hướng dẫn để chúng em có thể thực hiện bài tiểu luận một cách tốt nhất. PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận về đề tài nghiên cứu 1. Khái quát về dòng họ Common Law Common Law là dòng họ pháp luật lớn và cơ bản trên thế giới, nó bao gồm các hệ thống pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống pháp luật của Anh như Mỹ, Úc, Canada,... Có nguồn gốc từ luật Anh cổ. Các đặc điểm của dòng họ Common law: Thứ nhất, Common Law là dòng họ pháp luật trong đó các hệ thống pháp luật trực thuộc ít, nhiều chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Anh và thừa nhận án lệ như nguồn luật chính thống, tức là thừa nhận học thuyết tiền lệ pháp. Thứ hai, thẩm phán trong các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ này đòng vai trò quan trọng trong việc sáng tạo và phát triển các quy phạm pháp luật. Thứ ba, nhìn chung các hệ thống pháp luật thuộc Common Law không có sự phân biệt giữa luật công và luật tư như Civil Law, trừ hệ thống pháp luật Anh. Thứ tư, chế định pháp luật tiêu biểu của các hệ thống pháp luật trong Common Law chế định ủy thác. 2. Hệ thống tòa án – Cơ quan tư pháp Theo nghĩa truyền thống được sử dụng trong khoa học pháp lý, thuật ngữ “quyền tư pháp” thường được giải thích một cách đơn giản là quyền xét xử. Nói một cách cụ thể hơn, đó là quyền của Tòa án xét xử một vụ việc thực tế nào đó trên cơ sở xem xét các tình tiết thực tế của vụ việc, áp dụng pháp luật để xác định hậu quả pháp lý và ra phán quyết. Theo nghĩa đó, hệ thống cơ quan thực hiện quyền tư pháp là hệ thống cơ quan thực hiện quyền xét xử, tức là hệ thống tòa án. Khái niệm này được chính thức đề cập trong tác phẩm nổi tiếng nhất của thuyết tam quyền phân lập, cuốn “Tinh thần pháp luật” của Môngtécxkiơ. Khái niệm tòa án - cơ quan tư pháp sau đó được phản ánh đậm nét trong Bài luận liên bang số 78 của Alếchxanđơ Hamintơn (Alexander Hamilton) - một trong bốn nhà sáng lập nên Hiến pháp Hoa Kỳ. Sự tương đồng cơ bản giữa hệ thống tòa án Anh và hệ thống tòa án II. 1. Mỹ Thừa nhận tiền lệ pháp như một nguồn luật Do cùng thuộc dòng họ pháp luật Common Law nên cả Anh và Mỹ đều thừa nhận tiền lệ pháp như một nguồn luật. Ở Mỹ, khi xét xử các hành vi vi phạm pháp luật và các tranh chấp nảy sinh, các tòa án cần phải diễn giải luật bằng các bản án trước đó của Tòa án cùng cấp hoặc Tòa án cấp cao hơn. Đây được gọi là nguyên tắc theo quyết định trước hay đơn giản gọi là án lệ, tiền lệ pháp. Nếu phải đối mặt với các án lệ bất lợi, bị đơn sẽ tìm cách phân biệt sự khác nhau giữa vụ việc của mình với những vụ việc trước đó. Sau đó Tòa án cấp cao hơn sẽ tìm cách giải quyết mâu thuẫn này để bổ sung cho án lệ ngày một hoàn chỉnh hơn. Ở Anh Quốc, vai trò sáng tạo của án lệ rất quan trọng, được thể hiện theo quy tắc của tiền lệ pháp đã xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ XIX được hiểu như một qui tắc đã được lập ra trong một phán quyết ban hành trước đó chỉ có hiệu lực ràng buộc đối với các thẩm phán khi xét xử các vụ kiện tương tự. Việc xây dựng án lệ theo quan điểm xét xử của các tòa án có thẩm quyền xem xét bản án của tòa án cấp dưới đã góp phần bổ sung tốt sự thiếu sót của các qui định luật pháp trong thực tiễn, nên việc vận dụng án lệ kể cả tục lệ pháp được thực hiện khá phổ biến.1 2. Hệ thống tòa án đều phân cấp xét xử. Hệ thống tòa án Anh và Mỹ đều phân cấp xét xử.Hệ thống tòa án liên bang tại Mỹ gồm có 3 cấp độ: tòa án địa phương (tòa sơ thẩm), tòa án khu vực là cấp phúc thẩm đầu tiên, và Tòa án Tối cao Hoa Kỳ - cấp phúc thẩm cao nhất trong hệ thống liên bang. Có tất cả 94 tòa án địa phương, 13 tòa án khu vực, và 1 tòa án Tối cao trên cả nước. Còn trong hệ thống tòa án Vương quốc Anh, cấp cơ sở bao gồm tòa địa hạt, tòa pháp quan; tòa án cấp cao bao hồm tòa Nữ hoàng, tòa gia đình, tòa 1 Xem Th.S Lê Văn Sua, Án lệ và vai trò của án lệ trong hoạt động xét xử của Tòa án, đăng trên Cổng thông tin điện tử Bộ tư pháp: http://moj.gov.vn ngày 03/11/2015 đại pháp, tòa phúc thẩm, tòa án hình sự trung ương và cấp xét xử cao nhất là Tòa án tối cao Vương quốc Anh. 3. Chế độ thẩm phán: thẩm phán ở Anh và thẩm phán ở tòa án Liên bang Mỹ đều có nhiệm kì suốt đời. III. Sự khác biệt giữa hệ thống tòa án Anh và hệ thống 1. Những điểm khác biệt cơ bản trong hệ thống tòa án 1.1. Sự phân cấp của hệ thống tòa án tòa án Mỹ Hệ thống tòa án Anh bao gồm các tòa án cấp cơ sở và tòa án cấp cao. Ở tòa án cấp cơ sở thì bao gồm Tòa án Địa hạt (County Courts) và Tòa án Pháp quan (Magistrates’ Courts). Tòa án Địa hạt là cấp xét xử thấp nhất trong cấp tòa án dân sự và chỉ được xét xử trong lĩnh vực dân sự. Gần tương tự, tòa án Pháp quan (Magistrates court) là tòa án cấp thấp nhất trong hệ thống tòa án xét xử nhưng xét xử ở lĩnh vực hình sự. Tòa án này được thiết lập ở Anh với mục đích xử lí những tội nhẹ. Tất cả các vụ án phạm đều bắt đầu được giải quyết ở đây và hơn 95% những vụ án này cũng được giải quyết luôn ở tòa, những vụ việc nghiêm trọng hơn sẽ được gửi lên Tòa án Trung ương. Một số vụ việc hình sự giải quyết ở đây là những vụ phạm tội có tính chất ít nghiêm trọng nhất. Chúng bao gồm những tội như lái xe ẩu, phá hoại, gây tổn thất ở phạm vi nhỏ, hành vi bạo lực ở mức độ thấp, … Đôi khi tòa án Pháp quan còn có thẩm quyền xử lí một số vụ việc dân sự liên quan đến nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước và những vụ về quan hệ gia đình. Cao hơn tòa án ở cấp cơ sở là tòa án cấp trên (Senior Court). Đây là tòa án quan trọng nhất ở Anh, gồm có Tòa phúc thẩm (Court of Appeal), Tòa cấp cao (High Court) và Tòa trung ương (Crown Court). Trong từng Tòa lại chia ra làm nhiều tòa nhỏ hơn nữa, cụ thể là Tòa cấp cao có Tòa Nữ hoàng chuyên trách, Tòa Đại pháp chuyên trách, Tòa Gia đình chuyên trách. Tòa Nữ hoàng có hai vai trò chính là tòa xét xử phạm vi rộng lớn các vụ việc về luật hợp đồng, về bồi thường thương tật cá nhân nhưng Tòa cũng có trách nhiệm đặc biệt như một tòa giám sát. Tòa thay mặt Nữ hoàng giám sát tất cả các tòa án cấp dưới và các cơ quan của Chính phủ. Tòa Đại pháp thì giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến kinh doanh, tài sản đất đai; tranh chấp thương mại; quyền sở hữu trí tuệ và hiệu lực của di trúc. Tòa Gia đình chuyên giải quyết những vụ việc li dị, nuôi con, tài sản, điều trị bệnh. Một thành phần nữa của tòa án cấp trên là Tòa án trung ương. Tòa Trung ương chính là nơi có thẩm quyền xét xử những vụ việc hình sự nghiêm trọng va một vài vụ việc dân sự, không những vậy Tòa này còn có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những vụ việc bởi tòa pháp quan khi có kháng cáo. Bộ phận cuối cùng của tòa án cấp trên là Tòa phúc thẩm. Chức năng chính của Tòa là xét xử những vụ việc dân sự và hình sự đã được xét xử bởi Tòa cấp cao và Tòa địa hạt. Khác với hệ thống tòa án của Anh, hệ thống tòa án ở Mỹ lại là hệ thống tòa án kép là hệ thống tòa an Bang và hệ thống tòa án Liên bang. Hệ thống tòa án Liên bang từ cao xuống dưới thấp có: tòa án tối cao, 13 tòa án lưu động phúc thẩm và 94 tòa án quận. Tòa án quận có thẩm quyền xét xử hầu hết các vụ tranh tụng bản án, hoặc quyết định của tòa án quận có thể bị đương sự đề nghị xem lại ở tòa án phúc thẩm. Tòa án phúc thẩm thì được tổ chức theo vùng, mỗi vùng gồm ba Bang hoặc nhiều hơn. Mỹ hiện nay có 11 tòa án phúc thẩm liên bang. Trong tòa án Bang lại chia ra làm hai cấp tòa án nhỏ là tòa án sơ thẩm cấp quận và tòa án cấp phúc thẩm. Tòa án sơ thẩm cấp quận xét xử chủ yếu những vụ việc hình sự cũng như dân sự. Phán quyết của tòa án sơ thẩm lại tiếp tục có thể kháng cáo lên lên Tòa tối cao của bang hoặc Tòa phúc thẩm cuối cùng của bang. Tòa án tối cao Liên bang chủ yếu xử phúc thẩm những vụ việc đã được giải quyết bởi tòa phúc thẩm của bang và có quyền quyết định lựa chọn những vụ việc để xử phúc thẩm . Phán quyết của tòa án này là quyết định cuối cùng. 1.2. Thuật ngữ pháp lí Thuật ngữ pháp lý được sử dụng ở hai quốc gia nay cũng khác nhau: Ví dụ “High court” ở Mĩ được hiểu là tòa án tối cao, trong khi đo ở Anh “high court” laị được hiểu là tòa án sơ thẩm và có thẩm quyền xét sử những vụ việc dân sự có giá trị tranh chấp lớn và xét sử phúc thẩm với một số vụ việc hình sự từ tòa án hình sự cấp cơ sở. 1.3. Chức năng của các tòa án Ngoài chức năng xét xử mà bất kì các tòa án trên thế giới nào cũng có, Tòa án Anh và Mỹ còn có những chức năng riêng biệt khác. Như chúng ta đã biết, hệ thống pháp luật anh là hệ thống pháp luật common law, vì vậy nên nguồn luật chính của mà các tòa án Anh hay dùng chính là án lệ. Các án lệ ấy được tạo ra trong quá trình xét xử bởi các thẩm phán tiền bối trong cá bản tuyên án trong quá khứ. Và chúng ta có thể hiểu rằng, Tòa án ở Anh còn có cả chức năng tạo ra luật. Và thẩm phán trong hệ thống tòa án Anh đóng vai trò quan trọng trong việc sáng tạo và phát triển các quy phạm pháp luật. Hơn nữa, nếu ở Anh, Hiến pháp không được coi trọng, thậm chí là Anh còn không có hiến pháp thành văn thì ở Mỹ, các tòa án lại rất coi trọng hiến pháp và mỗi khi ban hành một luật mới, hoặc xét xử một vụ việc, Tòa án Mỹ đều phải xét đến tính hợp hiến. 1.4. Phương thức hoạt động của tòa án Ở Anh mỗi tòa án buộc phải tuân thủ theo các quyết định của tòa án cấp cao hơn trong cùng một hệ thống. Phán quyết của những tòa án ngang cấp với nhau chỉ có giá trị tham khảo. Còn ở Mỹ, hệ thống tư pháp được tòa án tiến hành thông qua tranh tụng và phán quyết của các tòa án tối cao cấp liên bang không chịu sự ràng buộc của chính mình; tòa án bang không bị bắt buộc tuân thủ án lệ của các bang khác. 1.5. Chế độ bổ nhiệm thẩm phán Ở Anh, thẩm phán tại Anh được Ủy ban tư pháp lựa chọn và bổ nhiệm. Ủy ban này hoạt động một cách độc lập không chịu sự ảnh hưởng của bất kì một tổ chức nào. Để làm được thẩm phán, các ứng viên phải có bằng cấp luật tương ứng và kinh nghiệm phục vụ ít nhất năm năm trong ngành. Ở Mĩ áp dụng mô hình tuyển chọn thẩm phán theo dạng tranh cử, vận động ủng hộ. Mô hình này thường được sử dụng dựa trên chuyên môn kinh nghiệm và năng lực vận động thuyết phục của ứng viên. Theo đó ứng cử viên phải đảm bảo những phẩm chất vượt trội của một thẩm phán tiềm năng. Cụ thể về năng lực chuyên môn, thẩm phán thường là những luật sư giỏi có năng lực vượt trội về chuyên môn điều này được thể hiện qua uy tín và danh tiếng trong sự nghiệp của họ. Bên cạnh đó thẩm phán phải có thành tích trong lĩnh vực chính trị. Thẩm phán liên bang do tổng thống bổ nhiệm và được thượng viện bỏ phiếu phê chuẩn. Để làm được làm thẩm phán thì phải trải qua công tác luật sư trong vòng 6 năm. 1.6. Tính độc lập của tòa án Ở Anh, nghị viện là cơ quan lập pháp đồng thời cũng là cơ quan cao nhất trong hệ thống tòa án Anh. Nghị viện cũng trở thành cấp xét xử cuối cùng với đối với tất cả các vụ án hình sự và dân sự ở Anh.Tiếp theo đó là thượng nghị viện thực hiện chức năng xét xử thông qua Ủy ban phúc thẩm của thượng nghị viện. Còn ở Mỹ, do áp dụng mô hình tam quyền phân lập nên tòa án là cơ quan độc lập với hành pháp và lập pháp, là cơ quan xét xử cao nhất trong hệ thống tòa án. Tòa án tối cao là cấp xét xử cuối cùng, những phán quyết của tòa án tối cao chỉ có thể sửa đổi bằng thủ tục sửa đổi Hiến pháp. 1.7. Cách áp dụng các đạo luật của tòa án Ở Anh, luật bất thành văn được áp dụng cho tòa án áp dụng thông luật, luật thành văn áp dụng cho các tòa án Công bình. Nhưng ở Mỹ, luật thành văn lại được áp dụng trong các đạo luật để xét xử. Khi không có sự khống chế của các quy định hiến pháp và đạo luật, tòa án liên bang và bang thường đối chiếu với thông luật. Tầm quan trọng của án lệ của từng hệ thống tòa án cũng là rất khác. Án lệ được coi là nguồn luật chính thống và chủ yếu ở nước Anh. Ở Anh người ta coi trọng án lệ, vì cho rằng đây là phương thức đạt được công lý. Đó là khi các bên đương sự trong các vụ án tương tự phải nhận được những phán quyết tương tự, nếu không pháp luật trở nên bất công và tùy tiện; pháp luật được đặt ra và áp dụng một cách công bằng, nhất quán và xác đáng hay thỏa đáng. Khi một nền pháp luật tạo ra và bảo đảm được ba giá trị đó thì xã hội sẽ có công lý. Nhưng đối với tòa án Mỹ, án lệ ít quan trọng hơn và chúng chỉ được áp dụng cho các tòa án cấp trên. 2. 2.1 Những điểm khác việt về cấp xét sử cao nhất . Tòa án tối cao Vương quốc Anh (Supreme Court of the United Kingdom) Trong nhiều thế kỉ tới gần cuối năm 2009, Vương quốc Anh khác với Mỹ ở chỗ không có tòa án phúc thẩm cao nhất và duy nhất. Thẩm quyền xét xử phúc thẩm cuối cùng của Vương quốc Anh đồng thời thuộc về Ủy ban phúc thẩm của Thượng nghị viện và Ủy ban tư pháp của Hội đồng cơ mật. Do nhu cầu về một tòa án tối cao xét xử phúc thẩm cuối cùng độc lập với Thượng nghị viện ngày càng trở nên bức thiết ở Vương quốc Anh, năm 2005, Nghị viện Anh đã thông qua Luật sửa đổi Hiến pháp, theo đó Tòa án tối cao Vương quốc Anh được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/10/2009 với tư cách là cấp xét xử phúc thẩm cuối cùng ở Vương quốc Anh. Tòa án tối cao Vương quốc Anh bao gồm 12 thẩm phán, trong đó có một chánh án và một phó chánh án, đều do Nữ hoàng bổ nhiệm. 10 trong số 12 thẩm phán là các thượng nghị sĩ phúc thẩm hưởng lương (Lords of Appeal in Ordinary)vốn thực hiện công tác xét xử cho Thượng nghị viện và Hội đồng cơ mật.2 Khi Tòa án tối cao chính thức đi vào hoạt động, Tòa lấy lại thẩm quyền xét xử phúc thẩm từ Thượng nghị viện và quyền giải quyết các vụ việc về phân định thẩm quyền giữa chính phủ trung ương và chính quyền địa phương từ Hội đồng cơ mật. Tòa án tối cao chỉ xét xử phúc thẩm với những vụ việc có liên quan rộng rãi tới lợi ích công cộng và là cấp xét xử phúc thẩm cuối cùng trong các vụ án dân sự, hình sự ở England, xứ Wales và Bắc Ireland; và là tòa phúc thẩm cuối cùng trong án vụ án dân sự ở Scotland. Trong trường hợp ngoại lệ thì Tòa có thể trực tiếp phúc 2 Dịch từ https://en.wikipedia.org/wiki/Supreme_Court_of_the_United_Kingdom thẩm các vụ án liên quan đến giới quý tộc Anh hoặc từ tòa án cấp cao. Tòa án tối cao Vương quốc Anh có quyền giữ nguyên hoặc bác bỏ quyết định, bản án của tòa án cấp dưới. Khi đó, thẩm phán sẽ phải đọc lại tất cả các tài liệu trong vụ án, lắng nghe lập luận của luật sư, thậm chí phải thực hiện lại các bước điều tra cơ bản từ đầu trong một vụ án.3 Về thủ tục xét xử, Tòa án tối cao Vương quốc Anh chỉ xét xử khi vụ việc đó có giấy phép phúc thẩm do Tòa án tối cao hoặc do Tòa phúc thẩm (Court of appeal) cấp. Tuy nhiên, giấy phép phúc thẩm thường chỉ được cấp trong những vụ việc có nảy sinh vấn đề pháp lý thuộc mối quan tâm chung của xã hội. 4 Khi phúc thẩm các phán quyết của Tòa phúc thẩm Scotland hay Bắc Ailen, Tòa án tối cao sẽ áp dụng pháp luật của Scotland hay Bắc Ailen. Nếu các quy định pháp luật của Scotland hay Bắc Ailen giải thích, áp dụng giống pháp luật của Anh thì quyết định của Tòa trong trường hợp này có giá trị như án lệ ở nước Anh.5 Tuy nhiên, dù là Tòa án tối cao Vương quốc Anh nhưng trên thực tế quyền lực của Tòa án này lại không được đánh giá cao. Thay vào đó, Tòa phúc thẩm, với số lượng đơn kháng cáo, kháng nghị được giải quyết lớn hơn rất nhiều so với Tòa án tối cao được đánh giá là tòa có quyền lực nhất, và nhiều người cho rằng Chánh án Tòa phúc thẩm , trên thực tế là thẩm phán có thế lực nhất ở Anh. 2.2 . Tòa án tối cao Liên bang Mỹ (Supreme Court of the United States) Khác với hệ thống tòa án của Anh, nơi cái được gọi là “Tòa án tối cao” thực chất lại không phải là tòa án cao nhất trong hệ thống tòa án. Ở Mỹ, Tòa án tối cao Liên bang (Tối cao Pháp viện) là cấp xét xử cao nhất trong hệ thống tòa án Liên bang và là tòa án thực sự rất có quyền lực. Tòa án tối cao Liên bang có thẩm quyền tối hậu trong việc giải thích Hiến pháp Hoa Kỳ, và có tiếng nói quyết định trong các tranh tụng về luật liên bang, cùng với quyền tài phán chung thẩm (có quyền 3 Keenan 599, 136; Bogdan 182, 124-5; Canton 868, 491 - Dịch từ “Evaluation of the applicability of common law approaches to precedent in VietNam” của TS Đỗ Thị Mai Hạnh, ĐH Wollongong, nước Úc năm 2011. 4 Xem Micheal Bogdan, Luật So sánh. Nxb. Kluwer, Norstedts Juridik, Tano 2002. Trang 96 5 Xem Micheal Bogdan, Luật So sánh. Nxb. Kluwer, Norstedts Juridik, Tano 2002. Trang 97 tuyên bố các đạo luật của Quốc hội Hoa Kỳ và của các Viện lập pháp tiểu bang, hoặc các hoạt động của nhánh hành pháp liên bang và tiểu bang là vi hiến). Tại Anh, cấp xét xử phúc thẩm cao nhất trong hệ thống tòa án không có quyền năng này. Ngoài ra, Tối cao pháp viện là nơi duy nhất có quyền xử tội tổng thống (chẳng hạn trường hợp Bill Clinton trong vụ Monica Lewinsky) 6, đây cũng là nơi chính thức công nhận ghế tổng thống (vụ tranh chấp lá phiếu tổng thống trong cuộc bầu cử năm 2000 giữa ứng cử viên Al Gore và George W. Bush đã được xem xét tại đây và chánh án Tối cao pháp viện cũng là đứng ra làm lễ nhậm chức cho ngày đăng quang tổng thống)7. Là định chế quyền lực cao nhất của nhánh tư pháp trong Chính phủ Hoa Kỳ, Tối cao Pháp viện là tòa án duy nhất được thiết lập bởi Hiến pháp. Tất cả tòa án liên bang khác được thành lập bởi quốc hội. Với số lượng thẩm phán ít hơn ở Anh, Tòa án tối cao Liên bang Mỹ gồm có 9 thẩm phán, trong đó có một chánh án, do Tổng thống bổ nhiệm với sự chấp thuận của Thượng nghị viện. Tất cả các Thẩm phán Tòa án tối cao đều đã học luật, đã từng hành nghề luật và nhiều người trong số họ đã làm Thẩm phán của một Tòa án khác trước khi được bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án tối cao. Và hầu hết trong số họ đều cùng định hướng chính trị với Tổng thống bổ nhiệm họ.8 Tòa án tối cao có quyền tùy ý trong việc thụ lý hồ sơ khiếu kiện với một vài ngoại lệ: Tòa chỉ xét xử những vụ việc mà Tòa muốn xử, Tòa có toàn quyền quyết định tiếp nhận giải quyết đơn kháng cáo, kháng nghị nếu cảm thấy đó là vụ việc quan trọng hoặc vì mâu thuẫn nào đó trong các phán quyết của tòa án kinh lí phúc thẩm hoặc vì một vài lí do nào đó. Khi thụ lí hoặc từ chối giải quyết vụ việc, Tòa không phải đưa ra lí do. Hầu hết công việc của Tòa án tối cao là các vụ việc đã được đồng ý phát lệnh lấy lên xét xử (Certiorari), và đây là lệnh tùy ý không bắt buộc. Lệnh này phải được 6 Đọc thêm Kalb, Marvin. One Scandalous Story: Clinton, Lewinsky, and Thirteen Days That Tarnished American Journalism. New York: Free Press, 2001. 7 Đọc thêm Bush v. Gore, https://en.wikipedia.org/wiki/Bush_v._Gore 8 Xem Trương Hòa Bình (Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TANDTC), Chế định bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án tối cao một số nước trên thế giới, đăng trên Báo Công lý: http://congly.vn, ngày 02/10/2014 ít nhất bốn thẩm phán ủng hộ, và có giá trị là lệnh của Tòa án tối cao gửi một tòa án cấp dưới yêu cầu tòa cấp dưới chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc để Tòa án tối cao có thể xem xét lại. Trong lịch sử, Tòa án tối cao chỉ đồng ý chấp nhận yêu cầu phát lệnh lấy lên xét xử cho một tỷ lệ số vụ việc rất ít, thường là dưới 10%, và trong những năm gần đây con số đó đã giảm xuống gần 1%.9 Ngoài khiếu nại phúc thẩm, Tòa án tối cao cũng có chung thẩm quyền sơ thẩm (với tòa án hạt Hoa Kỳ) trong một số vụ án nhất định do đại sứ hoặc lãnh sự nước ngoài khởi kiện, hoặc bị kiện, các vụ việc giữa Chính phủ Hoa Kỳ (liên bang) với một bang, và những vụ việc trong đó một bang này chống lại công dân của một bang khác hoặc công dân nước ngoài. Những trường hợp đó, tức là có chung thẩm quyền, thì gọi là thẩm quyền đồng thời (Concurrent jurisdiction). Các vụ việc mà Tòa án tối cao có thẩm quyền sơ thẩm thường là các vụ quan trọng, nhưng chúng không tỷ lệ với khối lượng công việc. Trong những năm gần đây, chỉ chưa đầy 1% khối lượng công việc của Tòa án tối cao là các vụ xét xử theo thẩm quyền sơ thẩm..10 Lý giải sự tương đồng và khác biệt trong hệ thống tòa án của Anh và IV. 1. Mỹ Lý giải sự tương đồng Common Law là dòng họ pháp luật có cội nguồn từ hệ thống pháp luật Anh. Vì vậy, các quốc gia có hệ thống pháp luật thuộc dòng họ này đều chịu ảnh hưởng từ hệ thống pháp luật Anh, trong đó có Mỹ. Pháp luật Anh tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ ở nước Mỹ trước khi cuộc Cách mạng Mỹ năm 1776, nó là một phần của luật pháp của Hoa Kỳ thông qua quy chế tiếp nhận, ngoại trừ ở Louisiana từ đó Pháp luật Anh và cung cấp cơ sở nền tảng cho truyền thống pháp lý và chính sách ở Mỹ mặc dù nó không có thẩm quyền thay thế pháp luật. 9 Xem Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tư pháp, Thông tin cơ bản về hệ thống tư pháp Hoa Kỳ, đăng trên Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp: http://moj.gov.vn ngày 07/09/2015 10 Xem Phương thức hoạt động của tòa án Hoa Kỳ, Tạp chí điện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tập 4, số 2, tháng 9/1999 do Phòng Thông tin – Văn hóa, Đại sứ quán Hoa Kỳ dịch 2. Lý giải sự khác biệt Nước Mỹ ra đời là sự liên hợp của 13 nước thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ. Người Anh đã mang hệ thống luật của mình đến với các thuộc địa này. Mặc dù có nguồn gốc từ hệ thống pháp luật Anh nhưng từ sau năm 1776, khi Mỹ tuyên bố độc lập, hệ thống pháp luật cũng như hệ thống tòa án của hai nước đã phát triển theo những hướng khác nhau, kéo theo những sự khác biệt nhất định giữa hai hệ thống tòa án. Một trong những điểm dễ thấy nhất giải thích cho sự khác biệt giữa hai tòa án này là đặc điểm về mặt địa lý. Mỹ là lãnh thổ rộng lớn thứ ba trên thế giới với diện tích là 9 629 091 , bao gồm 50 bang, lại có dân số chủ yếu là dân nhập cư, đa tôn giáo, đa sắc tộc đi cùng với lối sống đặc trưng về nền kinh tế và xã hội vì vậy dễ hiểu vì sao Mỹ lại thiết lập tòa án theo Bang gồm các tòa án Liên Bang và các tòa án Bang. Sự thiết lập này giúp cho sự quản lí nằm trong tầm kiểm soát. Bên cạnh đó, việc tổ chức dưới dạng cộng hòa liên bang của nước Mỹ đã tạo nên sự độc lập của riêng mình, các bang không chỉ có chính phủ riêng mà còn có cả hiến pháp riêng nữa mặc dù hầu hết các mô hình hiến pháp bang được soạn thảo theo mô hình hiến pháp liên bang. Trong khi đó, Anh chỉ là một quốc đảo nhỏ với diện tích 130 279 , có dân cư gần như thuần nhất vì thế nên tòa án Anh được thiết lập theo khu vực (Tòa án khu vực) và có tòa nữ Hoàng để đại diện cho Hoàng gia. Bên cạnh đó, sự thiếu tin tưởng của vào tiền lệ pháp của người Mỹ thuở ban đầu, chủ yếu là vì tiền lệ pháp có nguồn gốc từ Anh, xứ sở không được người Mỹ ưa chuộng sau chiến tranh giành chủ quyền độc lập; một phần là do thái độ của người Mỹ đối với những phán quyết trong quá khứ đã bị tác động bởi những sự thay đổi nhanh chóng, trên quy mô phát triển kinh tế - xã hội. Tư tưởng tôn kính tiền lệ pháp của người Anh cũng khác quan điểm truyền thống của người Mỹ vì thực tế người Mỹ đến từ nhiều tôn giáo, chủng tộc và xã hôi khác nhau, do đó sự chấp nhận quyền lực của một cái gì đó dù là án lệ, một cách thụ động không phải là nét tiêu biểu của người Mỹ. V. Một số nhận xét, đánh giá về hệ thống tòa án Anh và Mỹ Về hệ thống tòa án Anh, quyền tư pháp được thể hiện tập trung, phù hợp với chính thể quân chủ lập hiến ở Anh. Tuy nhiên, Anh quốc không có hệ thống tòa án đơn nhát được tổ chức chặt chẽ và các tòa án cũng không được phát triển một cách đồng bộ với các quyền hạn chồng chéo. Bên cạnh đó, việc sử dụng luật bất thành văn cũng dẫn đến sự bất ổn định trong hệ thống tòa án. Về hệ thống tòa án Mỹ, đây không những là một thành tựu về xây dựng và tổ chức hệ thống pháp lý mà còn được coi như một mô hình tham chiếu thực tiễn rộng rãi của nhiều quốc gia khác. Kiến trúc cơ bản của hệ thống này là một thừa kế tiến bộ của hơn 1000 năm truyền thống pháp lý thông luật của Vương quốc Anh. Sự hoạt động độc lập và hiệu quả của tòa án đã đóng góp to lớn vào sự thành công trong các lĩnh vực kinh tế, dân chủ, dân sinh và nhân quyền, bên cạnh đó ngăn chặn và hóa giải những xung đột sâu sắc có thể đã diễn ra trong xã hội cực kỳ đa dạng về chủng tộc, văn hóa, và khuynh hướng tư tưởng tại Hoa Kỳ. Bên cạnh những thành tựu, hệ thống tòa án Mỹ vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Các hệ thống tòa án tiểu bang tương đối đa dạng và không đồng đều, bị phụ thuộc vào những khung pháp lý khác nhau cũng như trình độ phát triển và tổ chức rất khác biệt ở mỗi bang. Hơn nữa, quan hệ giữa các tòa án và giữa các bộ luật liên bang và tiểu bang tương đối phức tạp, dẫn đến sự phức tạp trong việc áp dụng án lệ nào của tòa nào và trong án cụ thể nào. VI. Vận dụng đề tài nghiên cứu trong việc hoàn thiện hệ thống tòa án tại Việt Nam Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Tòa án là một cơ quan thực thi pháp luật quan trọng, đồng thời là một phương thức giải quyết tranh chấp. Hơn 40 năm qua, các Toà án thuộc hệ thống Tòa án Việt Nam đã góp phần đắc lực vào bảo toàn lãnh thổ quốc gia, bình ổn trật tự đời sống người dân Việt Nam. Có thể thấy, hệ thống tòa án Việt Nam cũng có một số điểm tương đồng với hệ thống tòa án Anh Mỹ như đều phân thành nhiều cấp xét xử khác nhau từ trung ương tới địa phương, đều có 2 cấp xét xử là sơ thẩm và phúc thẩm được chia thành vụ việc hình sự và vụ việc dân sự; trong quá trình xét xử có sự tham gia của đại diện nhân dân tuân thủ nguyên tắc xét xử công khai và độc lập; áp dụng chế độ bổ nhiệm đối với thẩm phán. Bên cạnh đó, hệ thống tòa án Việt Nam vẫn còn những thiếu sót và cần vận dụng linh hoạt những ưu điểm trong hệ thống tòa án của hai quốc gia đứng đầu trên thế giới, đặc biệt là trong việc hoàn thiện Tòa án Nhân dân tối cao. Hiện tại, cơ chế giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật ở nước ra nếu xét trên bình diện bảo hiến (chỉ tập trung vào việc phán xét việc tuân thủ Hiến pháp) thì có quá nhiều bất cập, như: cơ chế giám sát quá nhiều chủ thể và nhiều tầng nấc làm hạn chế và lu mờ vai trò giám sát tối cao của Quốc hội đông thời làm hạn chế, giảm đi tính tối cao, tính hiệu lực của hoạt động đó; chưa phân biệt giám sát Hiến pháp với các loại giám sát khác dẫn đến việc giám sát bản thân Quốc hội còn bỏ ngỏ. Trong khi đó, tại Mỹ, mô hình giám sát Hiến pháp với Tài phán Hiến pháp không tách rời và được tập trung quyền lực ở Tòa án tối cao Liên bang Mỹ. Mô hình này thông qua việc giải quyết các vụ việc cụ thể, dựa vào các đơn kiện của đương sự, các sự kiện pháp lý cụ thể mà bảo vệ Hiến pháp. Với mô hình này, bảo hiến không trừu tượng vì nó liên quan đến những vụ việc cụ thể nên bảo vệ Hiến pháp một cách cụ thể. Là một trong những nước đi đầu về cơ chế bảo vệ Hiến pháp, mô hình bảo hiến của Mỹ rất đáng để cho nước ta tham khảo, học hỏi và áp dụng vào hệ thống tòa án nhân dân, đặc biệt là Tòa án Nhân dân tối cao để có thể nâng cao hiệu quả xét xử, đưa đất nước đến gần hơn với mục tiêu công bằng - dân chủ văn minh. LỜI KẾT Sau quá trình nghiên cứu đề tài “Hệ thống tòa án Anh – Mỹ dưới góc độ Luật so sánh”, chúng ta đã có thêm kiến thức về hệ thống tòa án của quốc gia Anh, Mỹ hai đại diện kinh điển cho dòng họ Common law. Việc tiếp cận cùng một lĩnh vực của các quốc gia khác nhau dưới góc độ so sánh góp phần củng cố và hoàn thiện hệ thống tòa án nước nhà. Thông qua việc so sánh hai tòa án tối cao Anh – Mỹ đã cho chúng ta thấy được các điểm mạnh nào cần phát triển hơn nữa, các điểm yếu nào cần cải thiện hoặc lược bỏ trong hệ thống tòa án Việt Nam nói chung và Tòa án nhân dân tối cao nói riêng. Các điểm khác biệt giữa cơ chế giám sát Hiến pháp của Việt Nam và mô hình bảo hiến của Mỹ cho thấy ý nghĩa quan trọng của cơ chế bảo hiến ngày càng được thừa nhận và được chứng minh trong quá trình của pháp luật. Đây là một điểm đáng chú ý trong việc sửa đổi cơ chế bảo hiến, hoàn thiện hệ thống tòa án Việt Nam. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật so sánh, NXB Công an nhân dân, 2. 3. 2015. Micheal Bogdan, Luật So sánh. Nxb. Kluwer, Norstedts Juridik, Tano 2002. Th.S Lê Văn Sua, Án lệ và vai trò của án lệ trong hoạt động xét xử của Tòa án, đăng trên Cổng thông tin điện tử Bộ tư pháp: http://moj.gov.vn ngày 4. 03/11/2015. Evaluation of the applicability of common law approaches to precedent in 5. VietNam, TS Đỗ Thị Mai Hạnh, ĐH Wollongong, nước Úc năm 2011. Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tư pháp, Thông tin cơ bản về hệ thống tư pháp Hoa Kỳ, đăng trên Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp: http://moj.gov.vn ngày 6. 07/09/2015. Xem Trương Hòa Bình (Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TANDTC), Chế định bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án tối cao một số nước trên thế giới, đăng 7. trên Báo Công lý: http://congly.vn, ngày 02/10/2014. Phương thức hoạt động của tòa án Hoa Kỳ, Tạp chí điện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tập 4, số 2, tháng 9/1999 do Phòng Thông tin – Văn hóa, Đại sứ 8. quán Hoa Kỳ dịch. https://en.wikipedia.org/wiki/Supreme_Court_of_the_United_Kingdom.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan