Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hệ thống lời bình ở truyền kỳ mạn lục nguyễn dữ trong mối quan hệ với phần chính...

Tài liệu Hệ thống lời bình ở truyền kỳ mạn lục nguyễn dữ trong mối quan hệ với phần chính văn

.PDF
104
86
87

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- MAI THỊ THU HUYỀN HỆ THỐNG LỜI BÌNH Ở TRUYỀN KỲ MẠN LỤC – NGUYỄN DỮ TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI PHẦN CHÍNH VĂN LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội-2014 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- MAI THỊ THU HUYỀN HỆ THỐNG LỜI BÌNH Ở TRUYỀN KỲ MẠN LỤC – NGUYỄN DỮ TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI PHẦN CHÍNH VĂN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Ngọc Vương Hà Nội-2014 2 LỜI CẢM ƠN Xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy Trần Ngọc Vương cùng các thầy cô, anh chị ở phòng Văn học cổ - trung đại Việt Nam, Viện nghiên cứu Văn học – những người đã hết lòng chỉ bảo, hướng dẫn em từ trước đến nay. Cảm ơn bố mẹ, em trai và những người bạn luôn ở bên tôi trong những năm tháng nhọc nhằn nhưng dấu yêu này. Mai Thị Thu Huyền 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan nội dung của luận văn này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Mọi ý tưởng hay câu chữ của người khác nếu được sử dụng lại đều có chú thích cụ thể, rõ ràng. Nếu có bất cứ vấn đề gì liên quan đến bản quyền xảy ra, tôi sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn trước pháp luật. Mai Thị Thu Huyền 4 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 3. Mục đích nghiên cứu 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu 6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 7. Cấu trúc luận văn NỘI DUNG Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Phê bình văn học Việt Nam thời trung đại 1.2. Tiểu thuyết và truyền kỳ - những kẻ bên lề 1.2.1. Tiểu thuyết 1.2.2. Truyền kỳ Tiểu kết Chương 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA LỜI BÌNH VÀ CHÍNH VĂN TRONG TÁC PHẨM TRUYỀN KỲ MẠN LỤC 2.1. Sự thống nhất giữa chính văn và lời bình ở một số truyện 2.1.1. Xu hướng khuyến thiện, trừng ác 2.1.2. Yêu cầu về đạo đức của người quân tử 2.1.3. Đòi hỏi về phẩm chất của người cầm quyền 2.1.4. Thái độ đối với các tín ngưỡng, tôn giáo khác 2.2. Sự mâu thuẫn giữa chính văn và lời bình ở những truyện còn lại 2.2.1. Thái độ đối với tình yêu 2.2.2. Quan niệm về người ẩn dật Tiểu kết Chương 3: VAI TRÒ CỦA LỜI BÌNH TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC 3.1. Văn bản tác phẩm Truyền kỳ mạn lục và vấn đề tác giả của 19 lời bình 3.2. Ý nghĩa của 19 lời bình trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục 3.2.1. Nếu những lời bình là của Nguyễn Dữ 3.2.1.1. Lời bình củng cố ý đồ giáo huấn đạo đức 3.2.1.2. Lời bình như một thủ đoạn vượt rào 3.2.2. Nếu những lời bình không phải do Nguyễn Dữ viết ra 3.2.2.1. Lời bình thể hiện một cách tiếp nhận văn học 3.2.2.2. Lời bình hợp lý hoá việc lưu truyền tác phẩm Tiểu kết KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO 5 7 7 12 12 13 13 14 15 15 15 33 33 39 44 45 45 45 46 51 56 60 62 62 69 72 73 73 78 78 78 80 91 91 92 94 95 98 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Không khó để nhận thấy trong nhiều tác phẩm văn học thời trung đại ở các quốc gia Đông Á nói chung, Việt Nam nói riêng, ngoài phần chính văn còn có những lời bình, các bài tựa, bạt do chính tác giả hoặc người khác chấp bút. Nếu ở thời hiện đại, mỗi tác phẩm văn học đều có một lượng độc giả nhất định và nhà văn dễ dàng biết được phản hồi của bạn đọc về đứa con tinh thần của mình thì ở thời trung đại, do việc in ấn, xuất bản hạn chế, bản thân người cầm bút lại không có ý định sáng tác cho độc giả phổ thông mà chỉ viết cho mình và những người giống như mình nên công chúng văn học thời kì này cực kì hạn hẹp, chính vì vậy, có thể coi những lời bình, bạt, tựa do người khác viết ra là sự phản hồi của công chúng về tác phẩm. Còn phần tựa, bạt, bình của chính tác giả, thông thường, đó là nơi để người viết làm rõ hơn hoàn cảnh sáng tác, mục đích sáng tác hay những vấn đề khác của tác phẩm, đôi khi còn định hướng một cách tiếp cận cho người đọc. Bởi vậy, việc xem xét những lời bình ở văn học trung đại không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của các tác phẩm mà còn thấy được quan điểm sáng tác, tư tưởng của người cầm bút cũng như lý luận văn học và tiếp nhận văn học thời cổ. Theo hướng làm việc đó, chúng tôi lựa chọn tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ làm đối tượng nghiên cứu. Trước hết là bởi ở tác phẩm này, ngoại trừ Kim Hoa thi thoại ký (Cuộc nói chuyện ở Kim Hoa), 19 truyện còn lại đều có lời bình ở cuối, được viết rất ngắn gọn với nội dung cô đọng và súc tích. Số lượng lời bình này theo chúng tôi là thích hợp để khảo sát trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ. Ngoài ra, trước chúng tôi, một số nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về Truyền kỳ mạn lục đều nhận thấy trong một số truyện, giữa phần lời bình và phần chính văn có độ chênh nhất định và đã đi vào lý giải sự mâu thuẫn ấy, song mỗi người giải thích theo một cách khác nhau. Điều đó cho thấy sự phức tạp ở bản thân tập “thiên cổ kỳ bút” này không chỉ thể hiện trong tương quan giữa các truyện với nhau mà còn bộc lộ ở mối quan hệ giữa phần chính văn và phần lời bình. Không có tham vọng luận giải tất cả các vấn đề của Truyền kỳ mạn lục, thông qua việc so sánh hệ thống lời bình với phần 6 chính văn trong tập truyện này, chúng tôi sẽ làm rõ hơn giá trị của phần lời bình – bộ phận có ý nghĩa quan trọng không kém những câu chuyện được kể. 2. Lịch sử vấn đề Được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút”, là “áng văn hay của bậc đại gia” (Phan Huy Chú), không có gì khó hiểu khi Truyền kỳ mạn lục được rất nhiều nhà nghiên cứu cũng như bạn đọc yêu thơ văn tìm hiểu. Xét riêng những bộ văn học sử về mười thế kỷ đầu của văn học dân tộc, có thể thấy, Truyền kỳ mạn lục luôn được ưu ái dành cho một số lượng trang không nhỏ với nhận định khá thống nhất rằng đây là một thành tựu xuất sắc của văn xuôi chữ Hán nói riêng cũng như của văn học hình tượng thời trung đại nói chung. Hai tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương và Chuyện chức phán sự đền Tản Viên trong Truyền kỳ mạn lục đã được đưa vào giảng dạy ở bậc Trung học cơ sở và Trung học phổ thông (chương trình Ngữ văn lớp 9 và lớp 10), đó là sự khẳng định giá trị cổ điển, mẫu mực của tập truyện này. Song hầu hết các nhà nghiên cứu chủ yếu dành sự quan tâm đến phần chính văn của Truyền kỳ mạn lục chứ ít chú ý tới 19 lời bình ở cuối các truyện, những ghi nhận, khẳng định giá trị của Truyền kỳ mạn lục trước nay đều căn cứ trên phần chính văn. Mặc dù vậy, hệ thống lời bình ở Truyền kỳ mạn lục cũng đã được một số nhà nghiên cứu như Bùi Duy Tân, Trần Thị Băng Thanh, Phạm Tú Châu, Nguyễn Phạm Hùng, M. Tkachov, Trần Ích Nguyên… đề cập đến trong các bài viết của mình. Những ý kiến về lời bình trong Truyền kỳ mạn lục chủ yếu xoay quanh hai vấn đề: tác giả của lời bình và mối quan hệ giữa lời bình và chính văn. Trước hết là về tác giả của lời bình. Từ trước đến nay, hầu hết mọi người đều cho rằng Nguyễn Dữ là tác giả của cả phần chính văn lẫn lời bình: Ngay trong bản giải âm Truyền kỳ mạn lục, người dịch tác phẩm ra chữ Nôm đã ba lần dịch thẳng những chữ “Viết 曰” trong lời bình thành “Nguyễn Dữ rằng 阮嶼哴” ở các truyện Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu, Chuyện yêu quái ở Xương Giang và Chuyện nghiệp oan của Đào thị. Trong lời giới thiệu bản dịch Truyền kỳ mạn lục của Trúc Khê Ngô Văn Triện, Bùi Kỷ viết: “20 truyện trong tác phẩm này, trừ truyện 12 và 14, toàn là truyện quỷ thần 7 yêu quái, sau từng truyện, phụ thêm một bài bàn, theo ý chúng tôi, đều là lời tác giả” (dẫn theo [3, tr.282]). Nhà nghiên cứu người Nga K.I. Golưgina gọi đó là những lời “khuyến giới”, đóng vai trò là “lời giải thích giản đơn ‘từ tác giả’ vào tự sự” [30, tr.21]. Tương tự như thế, khi giới thiệu tác phẩm Truyền kỳ mạn lục ở cuốn sách Tiễn đăng tân thoại, Truyền kỳ mạn lục, Trần Thị Băng Thanh cho rằng: “Truyện được viết bằng văn xuôi Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim Hoa thi thoại ký) đều có lời bình thể hiện rõ chính kiến của tác giả” [1, tr.202]. Lại Văn Hùng thì mặc nhiên coi Nguyễn Dữ là người viết lời bình: “Nhiều khi truyện và lời bình không khớp nhau. Khi viết lời bình, Nguyễn Dữ từ điểm nhìn của Nho giáo để ‘phán’ các truyện; nhưng trong các truyện lại hàm chứa nhiều kiểu cách phi Nho” [33, tr.60]. Nguyễn Quang Hồng, Trần Đình Sử, Trần Ích Nguyên, Lê Văn Tấn cũng quan niệm: “Vì đoạn ‘Lời bình’ này không được ghi rõ là của ai, nên ta có thể mặc nhiên coi là do chính Nguyễn Dữ viết lấy” [2, tr.13]; “Lời bình trong Truyền kỳ mạn lục hẳn là của Nguyễn Dữ” [86, tr.297], “sau đoạn kết của 19 truyện còn lại đều có một lời bình ngắn gọn, đó chính là Nguyễn Dữ đã từ sau cánh màn chạy ra sân khấu để ‘hiện thân thuyết pháp’, biểu đạt tình cảm yêu ghét của mình” [70, tr.53], “Lời bình là do Nguyễn Dữ viết ra” [92]. Còn Kim Seona đã đưa ra bốn lý do để khẳng định điều này: “1) Qua tên sách, hầu như Nguyễn Dữ muốn phân bua, ông không hề ‘bịa chuyện’ mà chỉ ghi chép một cách khách quan những chuyện lạ vẫn được lưu truyền ở đời. Chỉ đến lời bình ông mới thể hiện kiến giải của mình. 2) Tác phẩm là của một tác giả chứ không như sử kí là của nhiều người tham gia và nhiều sử thần bình luận. 3) Các nhà nho xưa thường rất cẩn trọng trước trước tác của người khác, nếu bình thường ghi tên của mình vào. 4) Tác phẩm được đề tựa sớm và định danh sớm” [48, tr.43]. Mặc dù vậy, vẫn có một số nhà nghiên cứu tỏ ý nghi ngờ việc Nguyễn Dữ viết 19 lời bình trong Truyền kỳ mạn lục. Bùi Duy Tân thể hiện thái độ lưỡng lự khi nhận định: “Trừ truyện số mười chín (Cuộc nói chuyện ở Kim Hoa) các truyện còn lại đều có lời bình của tác giả ở cuối truyện”, sau đó chú thích: “Hoặc lời bình đó là của một người cùng quan điểm với tác giả” (“Truyền kỳ mạn lục, 8 một thành tựu của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán”, [44, tr.505]). Marian Tkachov trong khi coi lời bình là một thủ pháp nhằm vãn hồi tính tư tưởng – đạo đức hợp pháp cho tác phẩm, để nó lưu truyền được ở đời, đã lật lại vấn đề tác giả của chúng: “Ai đã cố gắng làm điều đó – phải chăng là chính tác giả? Chưa chắc gì… Ông không thích vinh quang và chẳng muốn có điều đó. Phải chăng bằng hữu hoặc độc giả tài hoa của ông muốn bảo vệ để truyện khỏi mai một? Hay những lời khuyến giới thoát ra từ ngọn bút của người chép truyện?” (“Bậc thầy của những chuyện kỳ diệu sáng tạo từ đất Hải Dương, [64, tr.89]). Cũng trong bài viết này, Tkachov cho rằng tập sách của Nguyễn Dữ đã được Nguyễn Bỉnh Khiêm “chất chính nghiêm khắc” [64, tr.75], và đây là cơ sở để Nguyễn Nam đặt câu hỏi về mức độ phủ chính của Bạch Vân Am cư sĩ đối với Truyền kỳ mạn lục: “Mức độ ‘phủ chính’ nọ có chăng vượt khỏi khuôn khổ những câu chuyện, tham gia cả vào lời bình (‘khuyến giới’)?” (“Đọc lời bạt bản dịch Nga văn Truyền kỳ mạn lục”, [64, tr.65]). Phân tích một số tác phẩm, nhà nghiên cứu Phạm Tú Châu cho rằng: “sự khập khiễng quá rõ ở một số lời bình so với truyện cho phép chúng ta nghĩ tới khả năng người viết truyện và người bình không phải là một mà là hai người có trình độ khác nhau về nhiều mặt” [17, tr.78]. Dường như có chung mối nghi ngờ đó, một số tác giả đã không xác quyết ai là tác giả của các lời bình mà sử dụng cụm từ “tác giả lời bình” để chỉ người đã chấp bút nên những dòng bình luận đó, chẳng hạn như Nguyễn Đăng Na trong bài viết Truyện ngắn trong sự phát triển của văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại [62, tr.389]), hay Trần Thị Nhung trong Luận văn Thạc sĩ Nhân vật phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục nhìn từ quan điểm giới. Theo chúng tôi, sự thận trọng đó là hợp lý khi chưa có tư liệu xác tín để khẳng định chắc chắn vấn đề này. Tuy nhiên, khi nhận xét về mối quan hệ giữa hệ thống lời bình với phần chính văn của Truyền kỳ mạn lục, ý kiến của các nhà nghiên cứu trên lại khá thống nhất. Bùi Duy Tân [44], Nguyễn Phạm Hùng (“Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ”, [34]), Trần Đình Sử (“Con người cá nhân trong văn học Việt Nam từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVIII”, [118]), M. Tkachov 9 [64], Lê Văn Tấn [92]… đều nhận thấy hầu hết lời bình ở các thiên truyện tương đối thống nhất với nội dung tư tưởng tác phẩm, “tức là nếu cảm hứng của tác phẩm là phê phán thì lời bình cũng là sự phê phán, cảm hứng của tác phẩm là ngợi ca thì lời bình cũng sẽ là ngợi ca” [92]; những truyện còn lại “không có sự thống nhất giữa thế giới nghệ thuật trong tác phẩm và phần lời bình. Nghĩa là có sự khác biệt và mâu thuẫn giữa con người Nguyễn Dữ trong tác phẩm và con người Nguyễn Dữ trong phần lời bình. Tác phẩm ca ngợi một vấn đề nào đó thì lời bình có thể lại là phê phán, hoặc bày tỏ một thái độ khác; ngược lại, tác phẩm phê phán một vấn đề nào đó thì lời bình có thể lại ngợi ca hoặc định hướng cho người đọc cảm thụ hình tượng theo một hướng khác” [92], và tiêu chuẩn để ngợi ca hay phê phán của tác giả lời bình là việc nhân vật trong tác phẩm có tuân thủ theo các chuẩn mực đạo đức Nho giáo hay không, nếu vượt ra ngoài những khuôn phép đó thì họ sẽ bị lên án, phê phán. Mặc dù có sự đồng thuận trong nhận xét nhưng cách lý giải sự mâu thuẫn giữa phần chính văn và phần lời bình ở một số truyện trong Truyền kỳ mạn lục của các nhà nghiên cứu trên lại khác nhau. Bùi Duy Tân cho rằng: sự tác động của hoàn cảnh xã hội đầy biến động đương thời đã khiến tư tưởng Nho giáo ở Nguyễn Dữ có những rạn nứt nhất định, lại chịu ảnh hưởng của Phật giáo, Đạo giáo và văn hóa dân gian nên khi xây dựng các nhân vật, Nguyễn Dữ đã ít nhiều đi ra ngoài các quy phạm; tuy nhiên, khi thoát khỏi thế giới nghệ thuật đó để đứng ở vị trí một người bình luận, với sự níu kéo của lễ giáo phong kiến, ông lại trở về vị trí một nhà nho thuần túy [44]. Lê Văn Tấn cũng nhận định: “Sự rạn nứt và đổ vỡ của tư tưởng Nho giáo khi Nguyễn Dữ xây dựng hình tượng nhân vật và sự trở về của nó trong quan niệm, tư tưởng của ông ở lời bình bộc lộ một sự dùng dằng và day dứt của nhà nho Nguyễn Dữ trước những biến động chóng mặt của xã hội Việt Nam thế kỷ XVI” [92]. Ngược lại, M. Tkachov không xem những lời bình trong Truyền kỳ mạn lục là sự phản ánh mâu thuẫn giữa con người nghệ sĩ và con người Nho gia trong Nguyễn Dữ như hai tác giả trên mà phỏng đoán rằng đó là một thủ pháp để tác phẩm được lưu truyền và không bị 10 mai một. Phạm Tú Châu khẳng định sự mâu thuẫn đó cho thấy người viết lời bình không có cùng trình độ với Nguyễn Dữ [17]. Có thể thấy, ở những mức độ khác nhau, các nhà nghiên cứu đi trước đã chỉ ra sự đồng nhất và không đồng nhất giữa hai phần này cũng như lý giải sự không đồng nhất ấy. Đó là những gợi dẫn quan trọng để chúng tôi đi vào tìm hiểu mối quan hệ giữa phần chính văn và phần lời bình trong Truyền kỳ mạn lục. 3. Mục đích nghiên cứu Tiến hành tìm hiểu mối quan hệ giữa chính văn và lời bình trong Truyền kỳ mạn lục, chúng tôi sẽ làm rõ hơn vai trò của phần lời bình đối với tác phẩm này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn của chúng tôi chỉ dừng lại ở việc khảo sát mối quan hệ giữa phần chính văn và phần lời bình trong Truyền kỳ mạn lục chứ không đi vào tìm hiểu toàn bộ các vấn đề của tác phẩm. Chúng tôi lựa chọn bản Truyền kỳ mạn lục do Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch, NXB Trẻ - NXB Hồng Bàng, Tp. HCM xuất bản năm 2013 làm văn bản nghiên cứu chính, có tham khảo các bản dịch Quốc ngữ Truyền kỳ mạn lục của một số tác giả khác đã được Nguyễn Nam tập hợp trong công trình Phiên dịch học lịch sử - văn hóa trường hợp Truyền kỳ mạn lục [64] và bản Truyền kỳ mạn lục giải âm tương truyền do Nguyễn Thế Nghi dịch từ nguyên tác chữ Hán sang văn Nôm, Nguyễn Quang Hồng phiên âm sang chữ Quốc ngữ [2], đồng thời đối chiếu với nguyên tác Hán văn ở các bản in và chép tay Truyền kỳ mạn lục hiện có trong nước. Ngoài ra, chúng tôi cũng tiến hành khảo sát các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam được in trong Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam [5] và Tổng tập văn học Việt Nam [7] mà chúng tôi xét thấy là cần thiết để giải quyết những mục tiêu của luận văn. 5. Phương pháp nghiên cứu Với đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử - xã hội, phương pháp tiếp cận văn hoá học cùng các thao tác phân tích, so sánh, thống kê. 11 - Phương pháp lịch sử - xã hội: chúng tôi sẽ đặt Truyền kỳ mạn lục trong bối cảnh thời đại của Nguyễn Dữ để tìm hiểu sự ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội tới tư tưởng của tác giả. - Phương pháp tiếp cận văn hoá học: Những vấn đề mà chính văn và lời bình của Truyền kỳ mạn lục đề cập đến cũng như hoạt động phê bình văn học thời trung đại sẽ được nhìn nhận trong môi trường văn hoá thời kỳ này (liên quan đến các vấn đề tư tưởng, văn hoá chính trị, thị hiếu độc giả…) - Thao tác phân tích: Là thao tác chính để làm rõ mối quan hệ giữa phần chính văn và phần lời bình ở Truyền kỳ mạn lục. - Thao tác so sánh: không chỉ được sử dụng để tìm ra sự tương đồng hay không tương đồng về khuynh hướng tư tưởng của phần chính văn và phần lời bình, việc so sánh còn góp phần làm rõ hơn sự khác nhau giữa phê bình văn học Việt Nam và phê bình văn học Trung Quốc thời trung đại, giữa phê bình văn học trung đại và phê bình văn học hiện đại… - Thao tác thống kê: thao tác này giúp cho việc chỉ ra có bao nhiêu truyện trong Truyền kỳ mạn lục có sự thống nhất giữa hai bộ phận và ngược lại. 6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn Nếu được thực hiện tốt, luận văn của chúng tôi sẽ góp phần làm rõ hơn mối quan hệ giữa phần chính văn và phần lời bình trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục – vấn đề đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến nhưng chưa thực sự quan tâm tìm hiểu. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học ngành Ngữ văn và những người quan tâm tới Truyền kỳ mạn lục nói riêng và văn học trung đại Việt Nam nói chung. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, phần Nội dung của luận văn bao gồm ba chương, cụ thể như sau: Chương 1: Những vấn đề chung 12 Trong chương này, chúng tôi sẽ phác hoạ diện mạo của phê bình văn học Việt Nam thời trung đại và đặc điểm của tiểu thuyết và truyền kỳ nhìn từ phương diện những cá thể nằm ngoài hệ thống thể loại văn học chính thống. Các vấn đề này đều có liên quan tới Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ và hệ thống lời bình ở tác phẩm này. Chương 2: Mối quan hệ giữa lời bình và chính văn trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục Đối chiếu khuynh hướng xây dựng nhân vật, cách giải quyết vấn đề, nội dung tư tưởng… ở phần chính văn và cách đánh giá, nhận xét ở lời bình trong Truyền kỳ mạn lục, chúng tôi phân chia 19 truyện trong Truyền kỳ mạn lục thành hai nhóm: Nhóm tác phẩm có phần phần lời bình thống nhất với phần chính văn và nhóm tác phẩm có sự mâu thuẫn giữa hai bộ phận này. Song song với việc phân tích, đánh giá lời bình và chính văn trong Truyền kỳ mạn lục, chúng tôi sẽ liên hệ, so sánh với một số tác phẩm văn học ra đời trước và sau đó như Việt điện u linh tập (Lý Tế Xuyên), Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế Pháp), Thánh Tông di thảo (tương truyền của Lê Thánh Tông), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh), Vân nang tiểu sử (Phạm Đình Dục), Nam thiên trân dị tập (Vũ Xuân Tiên), Dã sử (Khuyết danh)… và những tác phẩm nước ngoài mà chúng tôi thấy là cần thiết để giải quyết các mục tiêu đặt ra. Chương 3: Vai trò của lời bình trong Truyền kỳ mạn lục Chúng tôi sẽ đưa ra một số khả năng, ngõ hầu có thể làm rõ hơn nguyên nhân của sự mâu thuẫn giữa hai bộ phận này và xác định vai trò thực chất của những lời bình trong Truyền kỳ mạn lục. Những khả năng đó đều liên quan mật thiết đến việc ai là tác giả của các lời bình, do đó, chúng tôi sẽ triển khai theo hai hướng: Vai trò của các lời bình nếu Nguyễn Dữ là người viết ra chúng và ngược lại. 13 NỘI DUNG Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Phê bình văn học Việt Nam thời trung đại Sẽ là khiên cưỡng nếu khẳng định sự tồn tại của một nền phê bình ở văn học Việt Nam thời trung đại, bởi phải đến tận đầu thế kỷ XX, khi văn học Việt Nam có sự tiếp xúc với văn học phương Tây, phê bình văn học đúng nghĩa mới được hình thành với hàng loạt cây bút tên tuổi như Phạm Quỳnh, Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Trương Tửu, Thạch Lam, Trương Chính, Vũ Ngọc Phan... Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động phê bình, đánh giá, thẩm định tác phẩm vẫn diễn ra trong mười thế kỷ đầu của nền văn học viết dân tộc, tồn tại dưới dạng những bài tựa, bạt của các tập sách, các đoạn bình luận về tác phẩm do chính tác giả hay người khác viết, trong những buổi bình thơ, bình văn, xướng hoạ văn chương của các nhóm xã hội khác nhau. Xem xét những văn bản hiện còn liên quan đến vấn đề này, chúng ta có thể sơ bộ hình dung về tình hình phê bình văn học thời trung đại. Nhìn chung, hoạt động phê bình văn học ở Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn này tương đối khác nhau. Không thể không nhắc đến các nhà phê bình đã gắn tên tuổi và sự nghiệp của mình với những tác phẩm nổi tiếng nhất của văn học Trung Quốc như Kim Thánh Thán với một loạt bài bình luận về thơ Đường cùng “lục tài tử thư” (bao gồm Nam hoa kinh – Trang Tử, Ly tao – Khuất Nguyên, Sử ký – Tư Mã Thiên, thơ luật của Đỗ Phủ, Thuỷ hử – Thi Nại Am, Tây sương ký – Vương Thực Phủ), Mao Luân – Mao Tôn Cương và Tam Quốc chí diễn nghĩa, Trương Trúc Pha và Kim Bình Mai, Chi Nghiên Trai và Hồng lâu mộng, Nhàn Trai Lão Nhân và Nho lâm ngoại sử. Sự công phu của những công trình này thể hiện ở việc sau mỗi hồi, bình điểm gia lại phân tích khá tỉ mỉ tình tiết, kết cấu, cách hành văn… nhằm làm rõ dụng ý của tác giả; đánh giá hành động, lời nói của nhân vật; đồng thời bộc lộ cảm nghĩ của mình khi đọc tác phẩm. Được bàn luận kĩ lưỡng hơn cả có lẽ là Kim Bình Mai: “Có lời bình sau mỗi hồi, có lời bình giữa các hàng, có lời bình trên đầu trang. Ngoài việc khuyên điểm chỗ hay ra, nhà bình điểm còn viết một loạt các bài phê bình dành riêng cho tiểu 14 thuyết này: Trúc Pha nhàn thoại, Khổ hiếu thuyết, Kim Bình Mai ngụ ý thuyết, Kim Bình Mai tạp lục tiểu dẫn, Kim Bình Mai độc pháp. Tổng cộng hơn mười ngàn chữ”1. Một số bình giả không chỉ bộc lộ quan điểm của mình khi đánh giá, bàn luận mà còn “mạnh tay” san định tác phẩm, chẳng hạn như Kim Thánh Thán đã cắt bỏ những hồi mà ông không thấy có giá trị trong Tây sương ký, Thuỷ hử; hay Mao Luân, Mao Tôn Cương sửa chữa Tam Quốc chí theo hướng thêm bớt, nhuận sắc một số chi tiết, sửa những chỗ trùng lặp hoặc chưa thỏa đáng, tước bỏ rất nhiều chương tấu, bài bình, tán, thay đổi một số câu thơ lẫn lộn văn kể với văn vần, dồn 240 tiết thành 120 hồi. Các bản Thuỷ hử, Tam Quốc chí do Kim Thánh Thán, Mao Luân – Mao Tôn Cương san cải nhanh chóng trở thành những bản sách thịnh hành nhất, điều này phần nào cho thấy uy tín của bình điểm gia trong đời sống văn học bấy giờ. Tuy nhiên, uy quyền của những cây bút phê bình chuyên nghiệp thể hiện rõ nhất ở việc tên tuổi của họ góp phần quyết định độ bán chạy của các tác phẩm. Vậy nên, Mao Tôn Cương đã phải thác danh Kim Thánh Thán để đề tựa cho bản Tam Quốc chí của mình, và gọi đó là Thánh Thán ngoại thư như một hình thức “dựa uy tiền bối”; hay bản Lý Trác Ngô tiên sinh phê bình Tam Quốc chí thực chất là công trình do Diệp Trú mạo danh người đề tựa cho Tây sương ký viết nên; hoặc những nhà buôn sách đương thời đã lấy một bản Tam Quốc chí có phần bình luận được “xào xáo” từ những lời bình của Mao Tôn Cương và Diệp Trú, và đề là Lý Lạp Ông phê duyệt Tam Quốc chí [90, tr.489]. Có thể thấy, nhà phê bình đóng một vai trò khá quan trọng trong đời sống văn học Trung Quốc. Trong khi đó, Việt Nam thời trung đại không có đội ngũ bình giả chuyên nghiệp cùng những công trình phê bình văn học công phu như vậy. Rất ít tác phẩm được bình chú một cách tỉ mỉ về cả nội dung lẫn nghệ thuật như Kim Bình Mai, Thuỷ hử, dường như chỉ có Đào hoa mộng ký tục Đoạn trường tân thanh do Tiên Phong Liên Đình Nguyễn Đăng Tuyển và Cấn Phong Hà Đạm Hiên soạn, Lê Bỉnh Đức đề thơ là được bàn luận khá kĩ lưỡng. Ngoài phần “Tổng luận” trình bày về lý do sáng tác, phân tích các nhân vật trong thế so sánh với Đoạn trường tân thanh, khẳng định 1 Chu Nhất Huyền, Kim Bình Mai tư liệu hội biên, dẫn theo [91]. 15 giá trị của tác phẩm, Tương Giang Mai Cát Phủ còn bàn tương đối sâu về các tình tiết, nhân vật… ở đầu mỗi hồi của Đào hoa mộng ký. Bên cạnh đó, cũng chỉ có một số tác phẩm được “giới bút mực” Việt Nam quan tâm bình luận nhiều, và càng ít có những cuộc tranh luận văn học xoay quanh một tác phẩm dưới thời trung đại. Có lẽ ngoại lệ duy nhất là Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du. Truyện Nôm này được đón nhận một cách nồng nhiệt với các ý kiến trái chiều ngay từ lúc tác giả còn sống đến cả khi ông đã qua đời với những lời bình của Vũ Trinh, Nguyễn Lượng; tựa của Tiên Phong Mộng Liên đường chủ nhân; tựa của Đào Nguyên Phổ; được vua tôi nhà Nguyễn bàn luận sôi nổi trong triều đình và trở thành đề tài của các buổi bình Kiều, vịnh Kiều… Thậm chí các nhân vật trong tác phẩm gốc Kim Vân Kiều truyện (Thanh Tâm Tài Nhân) còn nhờ Đoạn trường tân thanh mà gây được cảm hứng với các nhà nho Việt Nam, được Nguyễn Văn Thắng lập thành án, đánh giá bởi “ba thước gươm không tư vị” (Tựa Kim Vân Kiều án)… Còn lại hầu hết các tác phẩm chỉ được bình với một số lượng chữ nghĩa khiêm tốn. Tình trạng ấy, theo chúng tôi, phần nào có liên quan đến môi trường sinh hoạt văn chương ở Việt Nam thời trung đại. Hiển nhiên là trong giai đoạn này, công chúng văn học ở Trung Quốc rộng lớn hơn ở Việt Nam rất nhiều. Nếu chữ Hán là văn tự phổ thông ở Trung Quốc nên hầu như mọi người đều có thể đọc được sách ở những mức độ khác nhau (dù viết bằng văn ngôn hay bạch thoại) thì tại Việt Nam, dù chữ Hán đã được công nhận là văn tự chính thức của nhà nước, phần lớn các văn bản (hành chính, lễ nghi, nghệ thuật) đều viết bằng ngôn ngữ này, và khi chữ Nôm ra đời với tư cách là công cụ ghi tiếng dân tộc, nhiều tác phẩm Nôm cũng xuất hiện, nhưng chữ nghĩa vẫn là thứ xa lạ với số đông quần chúng nhân dân, tác phẩm văn học nói riêng và sách vở nói chung chỉ dành riêng cho một bộ phận “tinh tuyển” là tầng lớp trí thức, mà chủ yếu là nhà Nho. Vì thế, Hoàng Đức Lương mới coi đây là một trong số các nguyên nhân khiến cho thơ văn không lưu truyền rộng rãi ở đời2. Bên cạnh đó, người cầm bút thời trung đại 2 “Đối với văn thơ, cổ nhân ví như gỏi nem, ví như gấm vóc: gỏi nem là vị rất ngon trên đời, gấm vóc là mầu rất đẹp trên đời, phàm người có miệng, có mắt, ai cũng quý trọng mà không vứt bỏ, khinh 16 không phải là nhà văn sống bằng nghề viết như thời hiện đại, sáng tác của họ không hướng đến đông đảo công chúng mà trước hết là dành cho mình, thứ nữa là bạn bè, con cháu, hoặc gửi tới bậc cầm quyền. Những gì họ viết cũng không được phổ biến mà phần lớn hoặc “tàng ư danh sơn, truyền ư bách thế”, hoặc được trao tay giữa những người tri âm tri kỷ, chứ ít có tác phẩm được khắc in, hoặc khắc in với số lượng không nhiều và phải chịu sự kiểm duyệt của nhà nước3. Bởi vậy, công chúng văn học thời kỳ này cực kỳ hạn hẹp, và đều là trí thức chứ không đa dạng về tầng lớp như ở Trung Quốc. Đô thị và nghề in ở Việt Nam cũng không phát triển bằng nước láng giềng4, nên văn học về cơ bản vẫn chưa là một loại hàng hoá mà là một hình thức quà thường. Đến như văn thơ, thì lại là sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon, không thể đem mắt tầm thường mà xem, miệng tầm thường mà nếm được. Chỉ có thi nhân là có thể xem mà biết được sắc đẹp, ăn mà biết được vị ngon ấy mà thôi” (Tựa Trích diễm thi tập, [93, tr.28]). 3 Theo Hoàng Đức Lương trong bài tựa Trích diễm thi tập: “Sách vở ở nhà Lý, nhà Trần, phần nhiều chỉ thấy sách nhà chùa là được lưu hành (…) còn như thơ văn nếu như chưa được lệnh vua chúa, không dám khắc ván lưu hành” [93, tr.29]. Ở các triều đại sau, nhà nước vẫn quản lý việc xuất bản sách, chẳng hạn năm Quý Mão, niên hiệu Cảnh Trị 1 triều Lê (1663), có lệnh: “Phàm các sách kinh, sử, tử, tập cùng văn chương có quan hệ đến luân thường đạo lý ở đời, mới được khắc in và lưu hành. Còn các loại sách dị đoan, tà thuyết, Đạo giáo, Phật giáo cùng các truyện Nôm và thơ ca Nôm có liên quan đến chuyện dâm đãng, thì không được khắc in, mua bán, làm tổn hại đến phong hóa” (Lê triều chiếu lệnh thiện chính, Bản chữ Hán A.257. Dẫn theo [7, tr.16-17]). 4 Ở Trung Quốc, từ đời Tống trở về sau, đặc biệt là giai đoạn Minh – Thanh, nghề in phát triển mạnh mẽ với hàng nghìn xưởng in thuộc ba bộ phận: xưởng in do nhà nước quản lý; xưởng in riêng của gia đình; và xưởng in của những nhà buôn, xuất bản sách vì mục đích thương mại. Điều này khiến cho số lượng sách in tăng ồ ạt, lượng tiêu thụ lớn, thị trường sách do đó trở nên sôi động hơn trước rất nhiều (Theo Cynthia J.Brokaw, “On the History of the Book in China”, Printing and Book Culture in Late Imperial China, ed. Cynthia J. Brokaw and Kaiwing-Chow, Berkeley: University of California Press, 2005, tr.3-54 và Tobie Meyer-Fong, “The Printed World: Books, Publishing Culture, and Society in Late Imperial China”, The Journal of Asian Studies, Vol.66, No.3 [August], 2007, tr.787-817). Trong khi đó, ở Việt Nam, 70% thư tịch hiện còn là sách chép tay, trong 30% còn lại, hầu hết đều là sách in từ thời Lê trung hưng trở về sau. Chắc chắn các biến cố lịch sử đã làm cho không ít thư tịch bị thất tán, nhưng căn cứ vào những ghi chép trong sử sách và tư liệu hiện còn, có thể ghi nhận rằng nghề in 17 tặng, tồn tại trong các giao tiếp xã hội như thù tạc, xướng hoạ… giữa những người có trình độ tương đương nhau, có cùng một nền tảng giáo dục từ nơi cửa Khổng sân Trình. Những bàn luận, trao đổi về văn học giữa họ, do đó, không thiên về phân tích tỉ mỉ, kĩ lưỡng như bình điểm gia Trung Quốc đã thực hiện để giúp cho ngay cả độc giả phổ thông, ít học cũng có thể phần nào nắm bắt được cái hay, cái đẹp của tác phẩm, mà chỉ dừng lại ở việc phê điểm những chỗ họ cảm thấy tâm đắc nhất bằng một lượng chữ nghĩa vừa phải, bởi những người còn lại đều là “các bậc cao minh học rộng” (Hồ Tông Thốc, Tựa Việt Nam thế chí, [93, tr.20]), “các bậc quân tử bác nhã” (Phùng Khắc Khoan, Tựa Ngôn chí thi tập, [93, tr.41]), “bậc già dặn trong làng bút mực” (Nguyễn Văn Siêu, Thư viết cho Trần Đức Anh, [93, tr.122]), cũng có phông văn hoá ngang với người phê bình, hoàn toàn có thể cảm thụ được giá trị của tác phẩm. Đương nhiên phải tính đến quy mô của sự phát triển văn học như một nhân tố quan trọng khiến cho trong văn học trung đại Việt Nam không có những công trình đồ sộ về lý luận, phê bình như văn học Trung Quốc, nhưng theo chúng tôi, công chúng văn học nhỏ bé giới hạn trong một môi trường sinh hoạt văn chương khép kín cũng là lý do dẫn đến tình trạng phê bình văn học Việt Nam thời trung đại không phát triển bằng nước láng giềng. Những đặc điểm thuộc về người phê bình, người tiếp nhận sự phê bình và môi trường sinh hoạt văn chương như trên đồng thời cũng quy định diện mạo của phê bình văn học thời trung đại. Trước hết, vì phần lớn những bàn luận, đánh giá về tác giả, tác phẩm văn học thời kỳ này đều nằm trong những thư từ trao đổi giữa bạn bè, đồng nghiệp với nhau, trong phần tựa, bạt của các thi tập, văn tập mà thường là do chính người sáng tác thi tập, văn tập nhờ viết, vì vậy nhận xét của họ không tránh khỏi ít nhiều tán tụng với ở Việt Nam chỉ thực sự phát triển vào thời Nguyễn với 318 nhà in của nhà nước, của chùa/ đình/ đền/ quán/ miếu và của tư nhân, tuy nhiên không có chuyện khắc in tràn lan vì nhà nước quy định phường hội nào muốn khắc in sách thì phải làm đơn trình lên Sử quán để xem xét và phải chuyển ván khắc vào kinh đô Huế (Theo Lê Quốc Việt và Cung Khắc Lược, “Nghề in và đồ hoạ sách thời Nguyễn”, Thông báo Hán Nôm học 1998, tr.481-496). 18 nhiều câu chữ hoa mỹ, chẳng hạn: “Mở ra xem, thấy bàng hoàng như nhạc trời trước mặt, vang lên cái nguyên âm của đất trời, châu ngọc bày ra phía trước, kèm thêm cái vị ngon ngọt của lúa ngô. Đúng là cái gọi là ‘ôn hậu mà có lý, nhã đạm mà không lớn’. Các thiên trong tập thơ như Thù đáp, Tinh xá, đều phát hiện ra cái tinh thần ở ngoài phận sự (như Tinh xá viết: ‘Núi sông hàm động tĩnh, chim cá xét cao thâm’), tự nhiên, đáng yêu đáng mến, có lẽ nó cũng sâu nơi đạo thuật chăng? Đến như ngưng thần nơi Hồng Lĩnh, đặt ý ở hoa ngàn, thì lại là âm điệu gõ ngọc khua vàng số một. Những thí dụ như vậy, chỗ nào cũng thấy, còn cái cao hơn có lẽ là điều tôi chưa nhìn thấy. Tình ngụ nơi vật mà sông núi thấy là đạo tâm; thanh viết nên lời, mà mây gió đều là sắc thái. Đây là lụa gấm, phải chăng? Tiên sinh vốn người đôn hậu không thích chạm trổ, nhưng riêng tập này lời thơ lại rực rỡ như hoa xuân. Tôi xem văn mà thấy lòng, nên trộm ngưỡng mộ” (Nguyễn Thứ Phủ, Bạt Quy điền thi tập, [117, tr.213]). Một số trường hợp lại là bầy tôi bình thơ của bề trên nên có khi đi quá đà, trở nên xu phụ, nịnh nọt, như bài khải của Phan Lê Phiên về Càn nguyên thi tập của chúa Trịnh Doanh5. Bình luận về bài khải này, Phan Huy Chú viết: “Tám đời chúa Trịnh, trước chưa đời nào ham thích văn thơ. Đến Hy Tổ (Trịnh Cương) và Dụ Tổ (Trịnh Giang) tuy có ưa chuộng văn nghệ, nhưng cũng lưu ý đến thú ngâm vịnh. Đến An Vương (Trịnh Doanh) dụng công về việc làm thơ, làm đến vài trăm bài, cũng đáng gọi là một 5 Xin dẫn ra đây một đoạn: “Để sửa sang đạo hoá thì tìm rõ đầu mối ở Chín Kinh; để nung đúc tính linh thì thường thấm nhuần lục nghĩa; lòng chứa chan lý thú, tình dào dạt văn thơ; răn các tướng, khuyên các quân, theo lối cũ của thơ Thái dĩ, thơ Xa công; nhớ người đi sứ, khen người nhiều tuổi, rõ là phong thái của thơ Hoàng hoa, thơ Hàng vĩ; tỏ lòng thành kính, như thơ Văn hán, ngụ hứng vui chơi, như thơ Quyền a; trong cung cấm thì bảo ban nghiêm chỉnh, nêu phép thường như thơ Tư trai; ngoài triều đình thì hỏi han khuyên răn, theo mưu hay như thơ Phóng lạc. Ở ngôi chúa hai mươi tám năm, làm thơ được 200 bài. Việc việc đều là tu tề trị bình, theo thói tốt thời Tam đại; lời lời đều hoà nhã trọng hậu, dựng tiêu chuẩn cho bách vương. Sang sảng như tiếng cung tiếng vũ chen nhau, lấp lánh như sao Khuê sao Lâu cùng sáng. Thực là văn chương rực rỡ đáng theo; nên cơ nghiệp tổ tiên được thịnh. Kính nghĩ thánh thượng, đức sáng như vua Thuấn, lòng hiếu như vua Vũ; bồi nền đạo trong yên tĩnh, ngày hát thơ Quan thư, Lân chỉ; lấy kinh luân mở phép trị, thường ngâm thơ Thiên bảo, Thái vi. Lời dạy bảo đã sẵn có từ tổ tiên, lời nói hay đã nghe ở trong gia đình. Bảo rằng lời vàng ngọc của tiên vương, nên đem dạy cho muôn đời, thế mà những di cảo quý báu ấy, chưa được chép ra thành tập. Bèn tìm trong kho sách, truyền đem trang hoàng, nêu tên đẹp để tỏ đức, cho muôn phương thấy đạo trời; chép thành sách những bài hay, để đời sau biết là thánh. Vật quý báu của nhà nước, vật lớn lao của cõi đời, sẽ ban cho thần dân, để mọi nhà được đọc, chẳng ai không nức lòng mà vui vẻ ngâm nga” [117, tr.154-155]. 19 vị chúa hiền thích văn học. Nhưng tập thơ này đặt tên là Càn nguyên cũng là tiếm loạn quá (!), thế mà các văn thân bấy giờ biên chép, lại tôn sùng rất mực, coi như thực là thiên tứ rồi, sự thế bấy giờ như thế, nên phải như thế, có gì lạ đâu!” (Lịch triều hiến chương loại chí, dẫn theo [93, tr.248-249]). Những bài phê bình có ý tán tụng như trên không phải là hiếm gặp, song nhìn chung, nhà nho khi “luận sự thường tồn trung hậu tâm”, dù khen hay chê, họ đều khá ôn tồn, chừng mực, tránh sự quá khích, cực đoan, trong một số trường hợp còn rào đón khá kĩ lưỡng để người được/bị phê bình không cảm thấy mất lòng, tiêu biểu như cách phê bình Thục khách giải trào của Nhữ Bá Sĩ. Mở đầu, người viết tự nhận “đối với văn xưa tôi còn quá ư lạo thảo, đâu dám đi bình duyệt văn người”, rồi bằng “kiến văn sơ lậu” của mình, Nhữ Bá Sĩ chỉ ra “ba điều đáng lấy”, “bảy điều đáng bàn” của tác phẩm, cuối cùng khẳng định lại học thức của bản thân và khuyến khích tác giả cố gắng hơn nữa: “Với sự kém cỏi của tôi mà dám khen chê bàn bạc văn người e rằng ngoài sân mua cười, lại thêm một chữ ‘cười’ nữa. Nhưng tôi muốn bậc quân tử mở rộng lòng tới điều quý báu nhất, hay gắng sức vượt trèo, bơi lội kiếm tìm trong các đại gia, dốc hết tinh thần truy cứu, có lúc sẽ nắm được nó, rồi dần dà mới biết: bừng tỉnh cái gốc, gắp lại cái nguồn, thì hạt trai như núi, hạt ngọc như bể, đầy dẫy trước mặt ta. Còn cái mà tôi nói ra, chẳng qua chỉ nhỏ nhặt như một mảnh ngọc trong vẩy con ly long, đáng kể vào đâu” [93, tr.139142]. Không chỉ chừng mực trong cách phê bình tác phẩm của người khác, nhà nho còn coi đó là một trong những tiêu chí thẩm mỹ của văn học nghệ thuật nói chung. Khổng tử phê phán âm nhạc của các nước Trịnh, Tống, Vệ, Tề vì bốn loại này đều là “nịch âm” (âm thanh say đắm), gây ảnh hưởng đến chí: “Ca nhạc nước Trịnh vì hiếu lạm nên làm cho chí dâm, ca nhạc nước Tống vì say đắm nữ sắc nên làm cho chí đắm đuối, ca nhạc nước Vệ vì quá gấp gáp, dâm dật nên làm cho chí rối loạn, ca nhạc nước Tề vì quá phóng túng nên làm cho chí kiêu” (Nhạc ký, dẫn theo [37, tr.31]). Trái lại, Khổng tử coi trọng Kinh thi bởi sự “ôn nhu đôn hậu” của ba trăm bài thơ này, bởi “Thi khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán” (Thi có thể lay động lòng 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan