ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ HỒNG
HÀNH VI CẦU KHIẾN VÀ ỨNG DỤNG TRONG GIẢNG
DẠY TIẾNG VIỆT NHƯ MỘT NGOẠI NGỮ
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI – 2008
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ HỒNG
HÀNH VI CẦU KHIẾN VÀ ỨNG DỤNG TRONG GIẢNG
DẠY TIẾNG VIỆT NHƯ MỘT NGOẠI NGỮ
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ: 60 22 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ ĐÌNH TƯ
HÀ NỘI – 2008
2
M ỤC L ỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Trang
1. Lí do chọn đề tài
01
2. Đối tƣợng nghiên cứu
02
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
02
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
03
5. Ý nghĩa của luận văn
04
6. Bố cục của luận văn
05
CHƢƠNG 1: HÀNH VI NGÔN NGỮ VÀ HÀNH VI
06
CẦU KHIẾN
06
1.1. Hành vi ngôn ngữ
1.1.1. Phát ngôn ngữ vi và biểu thức ngữ vi
08
1.1.2. Động từ chỉ hành vi ngôn ngữ và động từ ngữ vi
09
1.1.3. Biểu thức ngữ vi nguyên cấp và biểu thức ngữ vi tƣờng
10
minh
1.1.4. Hành vi ở lời gián tiếp
11
1.2. Cầu khiến và hành vi cầu khiến
12
1.3. Phân loại hành vi cầu khiến
14
1.4. Văn hoá và lịch sự trong lời cầu khiến tiếng Việt
21
1.5. Sơ lƣợc về hành vi cầu khiến trong tiếng Việt
26
CHƢƠNG 2: HÀNH VI CẦU KHIẾN TRONG CÁC
30
SÁCH DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƢỜI NƢỚC NGOÀI
2.1. Khảo sát hành vi cầu khiến đƣợc đƣa vào trong các sách
30
dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài
2.1.1. Về các loại hành vi cầu khiến
3
30
2.1.2 Về ngữ cảnh của các hành vi cầu khiến
41
2.1.3. Về các phƣơng tiện biểu hiện hành vi cầu khiến
47
2.2. Kết quả phân tích định lƣợng
50
2.3. Kết quả phân tích định tính
50
2.4. Tiểu kết
55
CHƢƠNG 3: ỨNG DỤNG VÀO GIẢNG DẠY CHO NGƢỜI
56
NƢỚC NGOÀI
3.1. Văn hoá giao tiếp trong sử dụng các hành vi cầu khiến
56
3.2. Hành vi cầu khiến trong các cấp độ giảng dạy cho ngƣời
60
nƣớc ngoài
3.3. Một số kiến nghị trong việc giảng dạy hành vi cầu khiến
62
cho ngƣời nƣớc ngoài
PHẦN KẾT LUẬN
65
TÀI LIỆU THAM KHẢO
70
TƢ LIỆU NGHIÊN CỨU
4
KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
SP1
ngƣời thực hiện hành động
SP2
ngƣời tiếp nhận hành động
BTNV
biểu thức ngữ vi
Đck
động từ ngữ vi cầu khiến
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tiếng Việt đã có một quá một quá trình lịch sử lâu dài gắn liền
với sự phát triển của đất nƣớc. Ngày nay, đất nƣớc đang chuyển mình hội
nhập với thế giới. Vì vậy, tiếng Việt không chỉ có vai trò hết sức to lớn đối
với cộng đồng ngƣời Việt mà còn có vị trí quan trọng đối với bạn bè quốc
tế. Là phƣơng tiện giao tiếp, đồng thời cũng là phƣơng tiện để tiến hành các
hoạt động kinh tế - chính trị - xã hội, tiếng Việt trở thành công cụ không
thể thiếu trong quá trình giao lƣu và hội nhập.
Trong xu thế hội nhập toàn cầu, tất cả các ngôn ngữ không chỉ bó
hẹp trong cộng đồng, quốc gia của mình mà còn trở thành một mắt xích
làm thúc đẩy quá trình hội nhập phát triển mạnh mẽ hơn. Từ thực tế đó,
làm xuất hiện một vấn đề: ngƣời ở cộng đồng ngôn ngữ này học tập ngôn
ngữ của cộng đồng khác, tức là học ngoại ngữ. Việc học ngoại ngữ ngày
càng đƣợc nhiều ngƣời quan tâm. Cùng với xu thế đó, tiếng Việt cũng là
một trƣờng hợp ngôn ngữ đƣợc đề cập đến với tƣ cách là một ngoại ngữ
nhƣ những ngôn ngữ khác trên thế giới.
1.2. Với tƣ cách là một ngoại ngữ, tiếng Việt đã dần trở thành một
đối tƣợng đƣợc nhiều ngƣời ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới học
tập. Từ những năm 60 của thế kỉ trƣớc, đã có một số sinh viên từ các nƣớc
Xã hội chủ nghĩa và bạn bè nhƣ: Liên Xô, Trung Quốc, CHDCND Triều
Tiên, CHDC Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc, Cuba, Lào vv ... đến Việt Nam học
tiếng Việt và lịch sử văn hóa Việt Nam. Những năm gần đây, do mối quan
hệ của Việt Nam ngày càng đƣợc mở rộng nên cơ cấu những sinh viên đến
Việt Nam học tiếng Việt đã có sự thay đổi lớn. Đó là sự có mặt của các
sinh viên đến từ những quốc gia nhƣ: Mĩ, Anh, Nhật, Tây Ban Nha, Hàn
Quốc, Ấn Độ, Mông Cổ, Singapo, Thái Lan vv... Đồng thời, những cơ sở
6
đào tạo tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài cũng xuất hiện nhiều hơn ở Hà
Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng ...
1.3. Đáp ứng nhu cầu học tập tiếng Việt ngày càng đông của ngƣời
nƣớc ngoài và phục vụ cho việc giảng dạy tiếng Việt nhƣ một ngoại ngữ
đƣợc hiệu quả, chúng ta đã xây dựng đƣợc hệ thống các giáo trình ở tất cả
các trình độ và đang dần hoàn thiện các bộ giáo trình tiếng Việt chuyên
ngành. Những bộ giáo trình này là cơ sở giúp ngƣời nƣớc ngoài tiếp cận
với tiếng Việt đƣợc hệ thống và dễ dàng.
1.4. Tiến hành khảo sát những nội dung trong các bộ giáo trình dạy
tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài hiện có là một việc cần thiết. Trong khuôn
khổ luận văn thạc sĩ, chúng tôi đi sâu tìm hiểu vấn đề hành vi cầu khiến
đƣợc trình bày trong nội dung các bài học nhằm mục đích mô tả, giải thích
và phân tích nội dung hành vi cầu khiến trong sách dạy Tiếng Việt cho
ngƣời nƣớc ngoài, đồng thời đƣa ra một số nhận xét và kiến nghị trong việc
giảng dạy vấn đề hành vi cầu khiến cho ngƣời nƣớc ngoài.
2. Đối tƣợng nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu các dạng thức biểu
hiện hành vi cầu khiến đƣợc đƣa vào các bài học dùng để giảng dạy tiếng
Việt cho ngƣời nƣớc ngoài.
- Tƣ liệu nghiên cứu của luận văn là những hành vi cầu khiến xuất
hiện trong nội dung các bài dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài. Nguồn tƣ
liệu đƣợc thu thập từ 20 quyển giáo trình, trong đó có 529 hành vi cầu
khiến đƣợc thực hiện với những mục đích và hoàn cảnh khác nhau.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nguồn tƣ liệu tập trung khảo sát dựa trên những đoạn hội thoại trong
đó sử dụng những phát ngôn có nội dung và hình thức biểu hiện hành vi
cầu khiến.
7
Trên cơ sở những tƣ liệu thu thập đƣợc, chúng tôi tiến hành mô tả,
phân tích và đƣa ra một số nhận xét ban đầu về nội dung của các hành vi
cầu khiến đƣợc sử dụng để truyền đạt cho ngƣời nƣớc ngoài. Bởi vì, hành
vi cầu khiến là một hành vi mang tính phức tạp cao, khó biểu hiện và rất dễ
nhầm lẫn khi biểu đạt các mức độ cầu khiến. Vì vậy tiến hành tìm hiểu,
phân loại và nhận xét các hành vi cầu khiến là việc làm rất cần thiết.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để mục đích nghiên cứu đạt kết quả cao, chúng tôi áp dụng một số
phƣơng pháp sau:
- Thủ pháp thống kê : Thống kê những hành vi cầu khiến trong các
sách dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài ở những trình độ từ A, B, C đến
nâng cao. để tính toán các số liệu cần thiết làm cơ sở xác thực cho những
kết luận trong quá trình nghiên cứu. Trong ngôn ngữ học thủ pháp thống kê
đƣợc sử dụng rất rộng rãi, bởi vì những hiện tƣợng ngôn ngữ ngoài những
đặc trƣng về chất còn những đặc trƣng về lƣợng và trong không ít các
trƣờng hợp của ngôn ngữ, sự khác biệt về chất chỉ có thể giải thích nhờ
khác biệt về lƣợng.
Chúng tôi vận dụng các thủ pháp thống kê ngôn ngữ học để thực
hiện các thống kê cần thiết về các hành vi cầu khiến, từ đó xác định tỉ lệ
giữa các hành vi cầu khiến, hành vi nào xuất hiện ít, hành động nào xuất
hiện nhiều ...
- Phương pháp phân tích ngữ dụng học: Phân tích những bối cảnh
ngoài ngôn ngữ của một phát ngôn hay những thông tin ngoài ngôn ngữ
góp phần tạo nên nghĩa của một phát ngôn đó là: đối ngôn và hiện thực
ngoài diễn ngôn [3;97-106].
Đó là việc dựa vào các quan hệ tƣơng tác hay quan hệ liên cá nhân
của đối ngôn và các yếu tố: chính trị, văn hóa, lịch sử, không gian, thời
8
gian vv ... để phân tích sự xuất hiện của các hành vi cầu khiến trong những
ngữ cảnh cụ thể của nó.
- Phương pháp miêu tả: Vận dụng các thủ pháp trong ngôn ngữ học
để tìm hiểu các chi tiết về ngữ liệu và cách biểu hiện nội dung của các hành
vi cầu khiến nhằm đem lại những kết quả sát thực cho quá trình nghiên cứu.
- Theo suốt các phƣơng pháp nêu trên là hai phƣơng pháp luận cơ
bản trong nghiên cứu khoa học: diễn dịch và quy nạp. Trong quá trình
nghiên cứu, có những kết luận chúng tôi rút ra đƣợc từ những quy luật
chung, chẳng hạn, từ thực tế thống kê các hành vi cầu khiến để khái quát về
tình hình chung trong việc sử dụng hành vi cầu khiến của ngƣời nƣớc ngoài.
Ngƣợc lại từ những biểu hiện về ý nghĩa của các hành vi chúng ta xác định
đƣợc phạm vi nghĩa của các hành vi cầu khiến trong việc truyền đạt cho
ngƣời nƣớc ngoài.
5. Ý nghĩa của luận văn
- Bƣớc đầu khảo sát hành vi cầu khiến trong các sách dạy tiềng Việt
cho ngƣời nƣớc ngoài cho thấy tình hình sử dụng cũng nhƣ việc truyền đạt
cách sử dụng hành vi cầu khiến trong tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài.
- Phân loại các hành vi cầu khiến theo từng cấp độ từ dễ đến khó
trong việc giảng dạy mảng kiến thức này. Nhằm đóng góp cho việc giảng
dạy hành vi cầu khiến nói riêng và giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc
ngoài nói chung tuân theo một trình độ nhất định có trình tự từ thấp đến cao.
- Làm sáng rõ những tiêu chí trong quá trình thực hiện các hành vi
cầu khiến. Điều này quyết định cho việc nên sử dụng động từ ngữ vi, chỉ
dẫn hiệu lực tại lời ... vào các hành vi cầu khiến cụ thể khi tiến hành các
hoạt động giao tiếp.
- Qua việc phân tích những tƣ liệu thống kê đƣợc, luận văn góp phần
vào việc hoàn chỉnh kiến thức về hành vi cầu khiến và cung cấp những
9
kiến thức hành vi cầu khiến trong tiếng Việt nói chung và hành vi cầu
khiến cho ngƣời nƣớc ngoài nói riêng một cách toàn diện hơn.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, tƣ liệu nghiên
cứu, luận văn gồm có 3 chƣơng đƣợc sắp xếp nhƣ sau:
PHẦN MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận: Hành vi ngôn ngữ và hành vi cầu khiến
CHƢƠNG 2: Hành vi cầu khiến trong các sách dạy tiếng Việt cho
ngƣời nƣớc ngoài
CHƢƠNG 3: Ứng dụng vào giảng dạy hành vi cầu khiến cho ngƣời
nƣớc ngoài
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TƢ LIỆU NGHIÊN CỨU
10
CHƢƠNG 1:
HÀNH VI NGÔN NGỮ VÀ HÀNH VI CẦU KHIẾN
1.1. Hành vi ngôn ngữ
Hành vi ngôn ngữ (hay còn gọi là hành động ngôn từ) đã đƣợc các
nhà nghiên cứu nhắc đến từ đầu những năm 60 của thế kỉ XX. Ngƣời đặt
nền móng cho lí thuyết hành vi ngôn ngữ là nhà triết học ngƣời Anh
J.Austin, Ông đã nhận thấy đƣợc bản chất hành động của ngôn ngữ là một
loại hành động nhƣ mọi hành động khác của sự sống con ngƣời. Khắc phục
những điểm yếu của ngành ngôn ngữ học tiền dụng học, lí thuyết hành vi
ngôn ngữ (actes de langage) ra đời, những quan điểm của lí thuyết này
đƣợc trình bày trong cuốn sách “nói là làm” (1962). Sau Austin, còn có
những nhà nghiên cứu về vấn đề này nhằm khắc phục cũng nhƣ phát triển
thêm về lí thuyết hành vi ngôn ngữ, có các nhà nghiên cứu nhƣ: J.Searle,
D.Wunderlich, F.Recanati, K.Bach và R.M.Harnish.
Nhận ra bản chất hành động của ngôn ngữ, các nhà nghiên cứu cho
rằng ngôn ngữ không chỉ đƣợc dùng để thông báo hoặc miêu tả cái gì đó
mà là để thực hiện các hành động, một loại hành động đặc biệt, hành động
đƣợc thực hiện bằng các phƣơng tiện là ngôn ngữ. “ Khi nói năng chúng ta
thực hiện những hành động nhƣ chúng ta thực hiện những hành động vật lí
khác. Hỏi, sai khiến, cầu xin, hứa hẹn, cám ơn, xin lỗi v.v...” Austin cho
rằng có 3 loại hành động ngôn ngữ lớn: hành vi tạo lời, hành vi mƣợn lời
và hành vi ở lời. [2;13] Hành vi tạo lời là hành vi sử dụng các yếu tố của
ngôn ngữ nhƣ ngữ âm, từ, các kiểu kết hợp từ thành câu ... để tạo ra một
phát ngôn về hình thức và nội dung. Hành vi mượn lời là những hành vi
“mƣợn” phƣơng tiện ngôn ngữ, nói đúng hơn là mƣợn các phát ngôn để
gây ra một hiệu quả ngoài ngôn ngữ nào đó ở ngƣời nghe, ngƣời nhận hoặc
ở chính ngƣời nói. Ví dụ, nghe phát ngôn sai khiến: Đóng cửa lại! SP2 có
thể đứng dậy, đi ra cửa và đẩy cánh cửa cho kín lại, anh ta cũng có thể bực
11
tức, càu nhàu, tỏ vẻ khó chịu. Hành động vật lí đóng cửa, sự bực tức đều
thuộc hành vi mƣợn lời. Chức năng hành động của giao tiếp đƣợc thực hiện
nhờ các hiệu quả mƣợn lời của phát ngôn. Có những hiệu quả mƣợn lời là
đích của một hành vi ở lời (nhƣ đóng cửa là hiệu quả mƣợn lời của hành vi
ở lời điều khiển), nhƣng cũng có những hiệu quả không thuộc đích của
hành vi ở lời (nhƣ vùng vằng, gắt gỏng, khó chịu khi nghe lệnh). Những
hiệu quả mƣợn lời rất phân tán, không tính toán đƣợc. Chúng không có tính
quy ƣớc (trừ hành vi mƣợn lời đích của hành vi ở lời). Hành vi ở lời là
những hành vi ngƣời nói thực hiện ngay khi nói năng. Hiệu quả của chúng
là những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, có nghĩa là chúng gây ra một phản ứng
ngôn ngữ tƣơng ứng với chúng ở ngƣời nhận. Ví dụ về hành vi ở lời: hỏi,
yêu cầu, ra lệnh, hứa hẹn, khuyên bảo v.v... khi chúng ta hỏi ai về một cái
gì đó thì ngƣời đƣợc hỏi có nhiệm vụ phải trả lời chúng ta, cho dù trả lời
không biết. Không trả lời, không đáp lại câu hỏi, ngƣời nghe bị xem là
không lịch sự. Khác với hành vi mƣợn lời, hành vi ở lời có ý định (hay có
đích), có quy ƣớc và có thể chế. Dù rằng quy ƣớc và thể chế của chúng
không hiển ngôn mà quy tắc vận hành chúng đƣợc mọi ngƣời trong một
cộng đồng ngôn ngữ tuân theo một cách không tự giác. Có thể nói, nắm
đƣợc ngôn ngữ không chỉ nắm đƣợc ngữ âm, từ ngữ, câu v.v... của ngôn
ngữ đó mà còn nắm đƣợc những quy tắc điểu khiển các hành vi ở lời trong
ngôn ngữ đó, có nghĩa là biết các quy tắc để “hỏi”, “hứa hẹn”, “yêu cẩu”,
“mời”... sao cho đúng lúc đúng chỗ, cho thích hợp với ngữ cảnh, với ngƣời
đƣợc hỏi v.v... Thí dụ ở xã hội Việt Nam và Á Đông nói chung, hỏi SP2 về
tuổi tác, về tình trạng hôn nhân ... là đƣợc phép, là tỏ sự quan tâm của
ngƣời hỏi với ngƣời đƣợc hỏi. Trái lại, hỏi về vấn đề đó trong xã hội
phƣơng Tây lại bị xem là không lịch sự.
Trên bình diện rộng, hành vi ngôn ngữ đƣợc xét trên cả ba loại hành
động chính là: hành vi tạo lời, hành vi mƣợn lời và hành vi ở lời. Tuy nhiên,
12
trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, chúng tôi xem xét các hành động ngôn
ngữ này trên bình diện hẹp: đó là những hành động đƣợc thực hiện ở đích
của hành vi ở lời. Để tìm hiểu các hành vi ngôn ngữ đó, chúng tôi tìm hiểu
một số khái niệm có liên quan nhƣ: phát ngôn ngữ vi, biểu thức ngữ vi,
động từ chỉ hành vi ngôn ngữ (gọi tắt là động từ nói năng), động từ ngữ vi,
biểu thức ngữ vi nguyên cấp, biểu thức ngữ vi tƣờng minh, hành vi ở lời
gián tiếp.
1.1.1. Phát ngôn ngữ vi và biểu thức ngữ vi
Phát ngôn ngữ vi là phát ngôn – sản phẩm của một hành vi ở lời nào
đó khi hành vi này đƣợc thực hiện một cách trực tiếp, chân thực. Phát ngôn
ngữ vi có một kết cấu lõi đặc trƣng cho hành vi ở lời tạo ra nó. Kết cấu lõi
đó gọi là biểu thức ngữ vi. [2; 91]
Các phát ngôn ngữ vi là sản phẩm, cũng là phƣơng tiện của các hành
vi ở lời. Phát ngôn ngữ vi tối thiểu là phát ngôn chỉ có biểu thức ngữ vi.
Thông thƣờng, phát ngôn ngữ vi thƣờng mở rộng, có biểu thức ngữ vi và
các thành phần mở rộng.
Ví dụ: Xin bà con yên tâm, tôi sẽ không bao che khuyết điểm cho ai!
Thành phần mở rộng
Biểu thức ngữ vi
Phát ngôn ngữ vi
Biểu thức ngữ vi phân ra nhiều loại khác nhau, trừ trƣờng hợp sử
dụng gián tiếp thì các biểu thức ngữ vi đƣợc nhận diện nhờ các tiêu chí là
những phƣơng tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời. Nhƣ vậy có nghĩa là có bao nhiêu
hành vi ở lời thì có bấy nhiêu biểu thức ngữ vi. Biểu thức ngữ vi là dấu
hiệu ngữ pháp ngữ nghĩa của các hành vi ở lời. Có các phƣơng tiện chỉ dẫn
hiệu lực ở lời nhƣ:
(1) Các kiểu kết cấu: là kiểu câu hiểu theo ngữ pháp truyền thống và
cũng bao gồm những kết cấu (mở rộng) cụ thể ứng với từng hành vi ở lời.
ví dụ: trong kết cầu khiến không chỉ có các kiểu quen thuộc: (Hãy) đọc đi!
Đừng (chớ) làm ồn nữa!... mà còn có các kết cấu nhƣ: Làm ơn đưa hộ cái
13
bình nước! Đưa cái bình nước hộ cho một tí! Cảm phiền đứng dậy một chút!
Xin đề nghị quý ông xem xét ra quyết định! Lên đường nào! Học thôi! ...
(2) Những từ ngữ chuyên dùng trong các biểu thức ngữ vi: những từ
ngữ này dùng để tổ chức các kết cấu và là dấu hiệu mà nhờ chúng, chúng ta
biết đƣợc hành vi nào đang đƣợc thực hiện. Đó là những từ ngữ chuyên
dùng trong các biểu thức ngữ vi hỏi nhƣ: có (đã) ... không (chưa)? có
phải ... hay không? ... Đó là những từ ngữ chuyên dùng trong kết cấu cầu
khiến nhƣ: hãy, đi, đừng, chớ, hãy ... đi, đừng ... nữa, xin, làm ơn, hộ, cảm
phiền, nào, thôi (đi nào, đi thôi ...) ...
(3) Ngữ điệu: cùng một tổ chức từ vựng, ngữ pháp cụ thể nếu đƣợc
phát âm với những ngữ điệu khác nhau sẽ cho các biểu thức ngữ vi khác
nhau ứng với những hành vi ở lời khác nhau.
(4) Quan hệ giữa các thành tố trong cấu trúc vị từ - tham thể tạo nên
nội dung mệnh đề nêu trong biểu thức ngữ vi với các nhân tố của ngữ cảnh:
các đặc tính ngữ nghĩa nhƣ: tự nguyện hay cƣỡng bức, tích cực hay tiêu
cực, có lợi hay có hại ... của hành động đối với ngƣời tạo ra hành vi và với
ngƣời nhận hành vi.
(5) Động từ ngữ vi: là động từ có thể thực hiện trong chức năng ngữ
vi, tức thực hiện chức năng ở lời. Khi phát âm chúng ra cùng với biểu thức
ngữ vi là ngƣời nói thực hiện luôn cái hành vi ở lời do chúng biểu thị, ví dụ
nhƣ: hứa, yêu cầu, hỏi, phê bình, tuyên bố ... [2;92-93]
1.1.2. Động từ chỉ hành vi ngôn ngữ và động từ ngữ vi
Động từ chỉ hành vi ngôn ngữ nói chung và động từ ngữ vi (hay còn
gọi là động từ ngôn hành) nói riêng là những yếu tố đặc biệt quan trọng
tham gia vào các biểu thức ngữ vi và là những động từ biểu thị, gọi tên các
hành vi ngôn ngữ.
Trong tiếng Việt, GS.Đỗ Hữu Châu chia ra 3 loại động từ nói năng:
(1) động từ chỉ cách thức nói năng: làu bàu, thì thầm, ngắc ngứ, rủ rỉ ... (2)
14
động từ vừa chỉ cách thức, vừa chỉ hiệu quả mƣợn lời, vừa chỉ hiệu quả ở
lời: hỏi vặn, vặn ... (3) động từ nói năng thuần khiết (duy nhất chỉ có hiệu
lực ở lời): hỏi, xin ... [2;95]
Động từ ngữ vi (động từ ngôn hành) là một loại đặc biệt của động từ
nói năng. Nhờ những động từ này các hành động ngôn ngữ đƣợc thực hiện.
Những động từ hứa, xin lỗi, tuyên bố, đánh cuộc ... là những động từ ngữ vi,
khi thực hiện những động từ này tức là chúng ta đã thực hiện một hành
động, hành động đƣợc thực hiện bằng ngôn ngữ. Có nghĩa là chúng ta chỉ
có thể thực hiện những hành động bằng cách phát âm những động từ đó
chứ không thể bằng con đƣờng nào khác. Austin cho rằng động từ ngữ vi
chỉ đƣợc dùng trong chức năng ngữ vi (có hiệu lực ngữ vi) khi trong phát
ngôn nó đƣợc dùng ở ngôi thứ nhất (ngƣời nói SP1) thời hiện tại, thể chủ
động và thức thực thi.
Xét theo khả năng có thể hay không có thể đƣợc dùng với chức năng
ngữ vi trong các biểu thức ngữ vi, các động từ nói năng tiếng Việt có thể
chia thành 3 loại: (1) loại vừa có thể dùng ở chức năng ngữ vi, vừa có thể
dùng với chức năng miêu tả (hỏi, hứa, mời, tuyên bố, tuyên án, phê bình,
cảnh cáo ...) (2) những động từ nói năng chỉ đƣợc dùng trong hiệu lực ngữ
vi, không thể dùng trong các chức năng miêu tả (đó là một số ít các động từ:
cảm tạ, đội ơn, đa tạ...) (3) những động từ chỉ có thể dùng trong các chức
năng miêu tả lại hành vi ở lời, không thể dùng trong chức năng ngữ vi (đó
là những động từ: hỏi han, bảo ban, sai khiến, chửi mắng, khoe, dọa,
giễu ...) [2;98]
1.1.3. Biểu thức ngữ vi nguyên cấp (hàm ẩn) và biểu thức ngữ vi tường
minh (Phát ngôn ngôn hành hàm ẩn và phát ngôn ngôn hành tƣờng minh)
Các hành động đƣợc thực hiện bằng ngôn ngữ đƣợc gọi chung là các
hành vi ngôn ngữ (hay hành động ngôn từ). Để phân loại hành vi các nhà
nghiên cứu đã đƣa ra hai khái niệm biểu thức ngữ vi nguyên cấp và biểu
15
thức ngữ vi tƣờng minh. Những dấu hiệu để nhận biết đƣợc dựa trên cơ sở
các động từ ngữ vi và một số dấu hiệu khác đƣợc gọi là phƣơng tiện chỉ
dẫn hiệu lực tại lời.
Nhƣ vậy, các hành vi ngôn ngữ không chỉ đƣợc thực hiện bằng các
động từ ngữ vi mà còn đƣợc thực hiện ở những phát ngôn có chứa các
phƣơng tiện chỉ dẫn hiệu lực tại lời. Những phát ngôn đƣợc thực hiện bằng
các động từ ngữ vi đƣợc gọi là phát ngôn tƣờng minh (hay còn gọi là biểu
thức ngữ vi tƣờng minh), những phát ngôn không chứa các động từ ngữ vi
mà sử dụng các phƣơng tiện chỉ dẫn hiệu lực tại lời đƣợc gọi là các phát
ngôn hàm ẩn (hay còn gọi là biểu thức ngữ vi hàm ẩn).
1.1.4. Hành vi ở lời gián tiếp
Nhƣ đã đƣợc trình bày ở phần trên, hành vi ngôn ngữ (hành động
ngôn từ) là một trong vô số các hoạt động trong đời sống của con ngƣời.
Cơ chế hoạt động của nó cũng không nằm ngoài cơ chế hoạt động của các
hành động khác. Đƣợc thực hiện trực tiếp hay gián tiếp là những cách biểu
hiện đặc trƣng của các hành động. Thực tế, các nhà nghiên cứu đã chứng
minh đƣợc rằng, biểu hiện hành động trực tiếp hay gián tiếp mang lại
những hiệu quả nhất định. Biểu hiện các hành động ngôn từ trực tiếp bao
giờ cũng đơn giản hơn và dễ hiểu hơn. Tuy nhiên, những hành động gián
tiếp có tính chất phức tạp hơn vẫn đƣợc dùng, thậm chí là phổ biến hơn so
với các hành động ngôn từ trực tiếp. Lí giải cho điều này, các nhà nghiên
cứu đã chỉ ra rằng, trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể các hành vi ở lời
gián tiếp mang lại hiệu quả cao hơn so với các hành vi ở lời trực tiếp. Bởi
vì, khi thực hiện các hành vi gián tiếp, cả ngƣời nói và ngƣời nghe đều có
những lợi ích nhất định, chẳng hạn nhƣ có thể tránh đối đầu, tránh xung đột
và mang tính lịch sự hơn. Hành vi ở lời gián tiếp đƣợc Austin nhắc qua và
đƣợc Searle nghiên cứu kĩ. Thuật ngữ hành vi ngôn ngữ gián tiếp là do
Searle đặt ra. Với các hành vi ngôn ngữ gián tiếp, chúng ta đi vào thế giới
16
“ nếu không phải là của những phù phép thì cũng là đầy cạm bẫy: dƣới đám
cỏ trƣờn những con rắn của những châm biếm, bóng gió, ngụ ý, của biểu
tƣợng hai mặt. Phép lịch sự tuyệt hảo với sự giễu cợt bắt tay nhau”.
G.S Đỗ Hữu Châu cho rằng một hành vi đƣợc sử dụng gián tiếp là
một hành vi trong đó ngƣời nói thực hiện một hành vi ở lời này nhƣng lại
nhằm làm cho ngƣời nghe dựa vào những hiểu biết ngôn ngữ và ngoài ngôn
ngữ chung cho cả hai ngƣời, suy ra hiệu lực ở lời của một hành vi khác.
[2;146]
Trƣớc khi đến với nghĩa gián tiếp của hành động, ngƣời nói và ngƣời
nghe đều phải nhận biết đƣợc ý nghĩa trực tiếp của hành động. Đồng thời,
những hiểu biết chung của nhân vật giao tiếp về văn hóa, ngôn ngữ sẽ giúp
cho ngƣời giao tiếp nhận biết đƣợc ý nghĩa gián tiếp của hành động. Vì vậy,
để hành vi ngôn ngữ gián tiếp đƣợc thực hiện một cách có hiệu quả, chúng
ta cần phải có những hiểu biết nhất định về các yếu tố: ngữ cảnh, quan hệ
ngữ nghĩa giữa các thành phần của nội dung mệnh đề trong biểu thức ngữ
vi trực tiếp với ngữ cảnh, phép lịch sự, quy tắc hội thoại, logic ...
1.2. Cầu khiến và hành vi cầu khiến
Cầu khiến là việc yêu cầu làm hay không làm một việc gì, cầu khiến
đƣợc biểu hiện chủ yếu dƣới dạng ngôn ngữ là những câu mang ý nghĩa
cầu khiến. Trong ngôn ngữ học, cầu khiến là vấn đề đã đƣợc nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm. Từ ngôn ngữ học truyền thống đến ngôn ngữ học
hiện đại, vấn đề cầu khiến đã đƣợc đề cập trên nhiều khía cạnh khác nhau.
Ngôn ngữ học truyền thống đồng nhất cầu khiến với câu cầu khiến,
câu cầu khiến là một loại câu trong hệ thống câu đƣợc phân loại theo mục
đích nói. Cách phân loại này sử dụng hai tiêu chí: mục đích nói và dấu hiệu
hình thức.
17
- Về mặt nội dung: câu cầu khiến nhằm mục đích nói lên ý chí của ngƣời
nói và đòi hỏi, mong muốn đối phƣơng thực hiện những điều nêu ra trong
câu nói.
- Về nội hàm khái niệm cầu khiến, các nhà ngôn ngữ học vẫn chƣa có quan
điểm thống nhất nhƣng nhìn chung khi nói về nội dung cầu khiến, các nhà
ngữ pháp đã đề cập đến các loại: ra lệnh, yêu cầu, sai bảo, đề nghị, cấm
đoán, khuyên răn, dặn dò, chúc tụng, cầu mong, mời mọc, kêu gọi, thách
thức, cổ vũ ...
- Về mặt hình thức: câu cầu khiến gắn với động từ ở thức mệnh lệnh và
đƣợc đánh dấu bằng các phƣơng tiện hình thức khác nhau: khi nói dùng
ngữ điệu nhấn mạnh với điểm nhấn giọng ở cuối câu, hay khi viết đƣợc thể
hiện bằng dấu chấm than (!) đặt ở cuối câu. Ngoài ra, còn có một số
phƣơng tiện biểu hiện ý nghĩa cầu khiến đi kèm: phụ từ hãy, đừng, chớ ...;
các từ tình thái đi, lên, thôi, nào, đã, nhé ...; các động từ tình thái nên, cần,
phải ...; các động từ ngôn hành mang ý nghĩa cầu khiến cấm, mời, xin, yêu
cầu v.v...
Ngôn ngữ học hiện đại tiếp tục những thành tựu của ngôn ngữ học
truyền thống. Tuy nhiên, không dừng lại ở việc nghiên cứu ngôn ngữ dƣới
dạng cấu trúc, ngôn ngữ học hiện đại lấy chức năng ngôn ngữ là đối tƣợng
nghiên cứu chính, đó là sự ra đời của ngành ngữ dụng học – nghiên cứu
cách sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, tức là cách sử dụng ngôn ngữ trong
ngữ cảnh cụ thể, để đạt đƣợc những mục tiêu cụ thể. [6;7]. Theo lí thuyết
hành vi ngôn ngữ, cầu khiến là một hành vi trong số những hành vi của con
ngƣời. Đặt nền tảng cho lí thuyết hành vi ngôn ngữ là nhà nghiên cứu J.
Austin, và lý thuyết đó đƣợc J.Searl phát triển. Theo lí thuyết hành vi ngôn
ngữ, Searle cho rằng cầu khiến (điều khiển) là một trong năm phạm trù cơ
bản của hành động ngoài lời. Đích ở lời là đặt ngƣời nghe vào trách nhiệm
thực hiện một hành động tƣơng lai; hƣớng khớp ghép hiện thực – lời; trạng
18
thái tâm lí là sự mong muốn của SP1 và nội dung mệnh đề là hành động
tƣơng lai của Sp2. [2;126] Hành vi này thể hiện ở những câu mà nhờ chúng
ngƣời nói cầu / khiến ngƣời nghe thực hiện một hành động. Có nghĩa là,
hành vi cầu khiến không chỉ đƣợc thể hiện ở câu cầu khiến mà còn đƣợc
biểu hiện dƣới nhiều hình thức câu khác nhau. Hành vi cầu khiến đƣợc biểu
hiện ở những câu cầu khiến đƣợc gọi là hành vi cầu khiến trực tiếp, hành vi
cầu khiến biểu hiện ở những hình thức câu khác (câu hỏi, câu cảm thán, câu
trần thuật) đƣợc gọi là hành vi cầu khiến gián tiếp.
1.3. Phân loại hành vi cầu khiến
Theo lí thuyết hành vi ngôn ngữ, cầu khiến cũng đƣợc xem là một
hành động của con ngƣời đƣợc thực hiện bằng ngôn ngữ. Nhiều nhà nghiên
cứu đã cho rằng đây là một loại hành vi tiêu biểu trong những hành vi bằng
ngôn ngữ của con ngƣời. Bởi vì, hành vi cầu khiến là hành vi có những
điều kiện thực hiện và những biểu hiện rõ nhất, đặc trƣng cho các hành vi
ngôn ngữ, có đầy đủ đặc điểm của ba loại hành động ngôn ngữ và có những
đặc điểm sau:
- Đích ở lời: Tức mục đích của hành vi là đặt ngƣời nghe vào trách
nhiệm thực hiện một hành động thực hiện trong tƣơng lai.
- Hƣớng khớp ghép: Hiện thực - Lời.
- Trạng thái tâm lí là sự mong muốn của ngƣời nói.
- Nội dung mệnh lệnh là hoạt động tƣơng lai của ngƣời nghe.
Khi sử dụng, có thể thực hiện một trong số những hành động nhƣ: đề
nghị, yêu cầu, cho phép, ra lệnh, mời mọc, rủ rê, thỉnh cầu, khuyên, cấm
đoán, hỏi, chỉ thị ... những hành động này đƣợc tạo nên từ các vỏ ngữ âm,
từ ngữ, các kết hợp từ khác nhau. Đặc biệt, những yếu tố ngoài ngôn ngữ
nhƣ: ngữ cảnh, mục đích, hiệu quả sử dụng .... là những yếu tố quan trọng,
mang tính nguyên tắc riêng của mỗi cộng đồng ngôn ngữ có thể quyết định
việc sử dụng các hành vi cầu khiến đó.
19
Việc phân loại hành vi cầu khiến đƣợc dựa trên hai căn cứ: Thứ nhất
là dựa vào thành phần cấu tạo nên phát ngôn. Thứ hai là dựa vào hoàn cảnh,
mục đích, hiệu quả sử dụng ... của hành vi cầu khiến. Việc phân loại hành
vi cầu khiến dựa trên hai tiêu chí này không phải là hai cách phân chia khác
nhau mà là cách phân chia dựa trên hai góc độ khác nhau để chúng ta có
thể hiểu rõ hơn về hành vi cầu khiến.
Xét về thành phần cấu tạo, có thể chia hành vi cầu khiến thành hai
loại: hành vi cầu khiến tƣờng minh và hành vi cầu khiến nguyên cấp. Sự
phân chia này dựa trên cơ sở của các quan niệm về biểu thức ngữ vi nguyên
cấp và biểu thức ngữ vi tƣờng minh của lí thuyết hành vi ngôn ngữ. Theo
đó, hành vi cầu khiến tƣờng minh là những hành vi mà trong cấu trúc của
nó có chứa các động từ ngữ vi. Hành vi cầu khiến nguyên cấp là hành vi
không chứa các động từ ngữ vi mà sử dụng các phƣơng tiện chỉ dẫn hiệu
lực tại lời.
Dƣới góc độ của lí thuyết hành vi ngôn ngữ, có thể hiểu câu cầu
khiến là câu mà sau khi nói câu đó, ngƣời ta thực hiện hành vi cầu khiến.
Song cầu khiến là thuật ngữ sử dụng để chỉ chung tất cả các hành vi có
chung mục đích, SP1 (người nói), muốn SP2 (người nghe) thực hiện /
không thực hiện x trong tương lai. Theo kết quả nghiên cứu của TS.Nguyễn
thị Lƣơng, tiếng Việt có 32 động từ có chung mục đích trên nên chúng đều
đƣợc dùng để biểu thị hành vi cầu khiến. Đó là các động từ: yêu cầu, ra
lệnh, hạ lệnh, lệnh, chỉ thị, đề nghị, kiến nghị, chỉ định, phân công, phái,
cấm, nghiêm cấm, buộc, bắt, cấm chỉ, xin phép, can, bảo, cử, khuyên, mời,
xin, cầu, cầu xin, cầu mong, năn nỉ, nài nỉ, nài xin, van, van nài, van xin,
nhờ. Nhƣ vậy, hành vi cầu khiến là cách gọi chung, có tính khái quát, còn
từng hành vi nhƣ: cấm, ra lệnh, yêu cầu ... là các hành vi cầu khiến cụ thể.
Nói một cách khái quát, hành vi cầu khiến tƣờng minh và hành vi
cầu khiến nguyên cấp đều dùng để biểu thị hành vi cầu khiến, nhƣng thành
20
- Xem thêm -