VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THANH LOAN
HÀNH HƢƠNG PHẬT GIÁO
CHÙA HƢƠNG HIỆN NAY
Ngành: Văn hoá học
Mã số: 9.22.90.40
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Hà Nội – 2019
Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Phƣơng Châm
Phản biện 1: GS.TS. Bùi Quang Thanh
Phản biện 2: PGS.TS. Lê Quý Đức
Phản biện 3: PGS.TS. Đặng Hoài Thu
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện tại
Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam,
477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.
Vào hồi giờ phút, ngày tháng năm 2019
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cách đây 5 năm, Hường1 một người bạn thân của tôi rủ tôi hành
hương về Yên Tử và chùa Hương cùng một đoàn hành hành hương Phật
giáo ở Hà Nội (HN) có tên gọi An Lạc. Tôi đã đồng ý đi cùng và đã quan
sát được đoàn hành hương này. Hiện nay, đoàn hành hương An Lạc có 10
tổ và số người hành hương lên đến gần 3000 người với nhiều nghề nghiệp
khác nhau như: có tổ gồm các công chức, viên chức, có tổ gồm những
doanh nhân, có tổ gồm những người về hưu, có tổ là những Phật tử trong
pháp hội của chùa Hải Tân… Mỗi năm, người hành hương trong đoàn này
cùng nhau hành hương tới một số ngôi chùa như Yên Tử, chùa Dâu… trong
đó đều đặn nhất năm nào cũng đi hai lần là chùa Hương. Qua 5 năm là
thành viên của đoàn hành hương Phật giáo An Lạc, vượt qua những sự khác
biệt về tuổi, giới tính, nghề nghiệp, địa vị xã hội tôi có thêm nhiều mối quan
hệ với những người hành hương. Tôi đã theo chân các Phật tử và những
người cảm mến đạo Phật đi hành hương ở nhiều điểm khác nhau như Yên
Tử, Tây Thiên… tôi đã dừng tại chùa Hương và chọn nơi này là địa bàn
nghiên cứu cho luận án của mình. Trong quá trình hành hương, ngoài tư
cách là một thành viên của đoàn hành hương Phật giáo An Lạc, tôi còn
tham gia thêm nhiều đoàn hành hương khác nữa như hành hương đất Phật,
Hoa Từ Bi, Hạnh Phúc… đến chùa Hương chiêm bái, thực hành nghi lễ và
nghiên cứu về thực hành văn hóa này. Hiện nay, qua những lần hành hương
về chùa Hương tôi nhận thấy nơi đây đón nhiều người hành hương từ khắp
nơi, nhưng đa phần họ đi theo các nhóm/đoàn. Họ đến lễ và kết hợp du lịch
văn hóa do công ty du lịch tổ chức, hay do Sư Tăng Ni một ngôi chùa nào
đó hoặc do ông bà đồng tổ chức chuyến hành hương. Những đoàn hành
1
Từ đây trở đi, tên thật của các nhận vật tôi phỏng vấn được đổi theo nguyên tắc ẩn
danh.
1
hương Phật giáo thường đi với số lượng từ 5, 10, 500 đến hàng nghìn người
đi, họ đi theo tần suất là 2,3 năm liên tục, có khi 10 - 20 năm liền năm nào
cũng đi, vừa đi lễ Phật, tự học triết lý Phật giáo. Mỗi năm, nhiều người
hành hương lại rủ thêm nhiều bạn bè, người thân của mình cùng tham gia
hành hương với nhau trong thời gian từ 1 đến 3 ngày. Hành hương đến chùa
Hương hiện nay, so với trước đây diễn ra nhiều hơn, qui mô lớn hơn và điều
này gợi lên nhiều vấn đề nghiên cứu như sự kết nối, duy trì mạng lưới xã
hội, kết nối việc làm ăn kinh tế và những mối quan hệ khác cần quan tâm
nghiên cứu. Hành hương Phật giáo trong xã hội đương đại là một hiện
tượng văn hóa thú vị hàm chứa nhiều thông điệp xã hội.
Nếu như, trong quá khứ hành hương đến một không gian thiêng chỉ
đơn giản là hoạt động đi lễ chùa, thực hành nghi lễ, đi chơi thì trong bối
cảnh chuyển đổi hiện nay, hành hương phật giáo đang đặt ra vấn đề về khoa
học và thực tiễn khi nó không chỉ thỏa mãn nhu cầu niềm tin tôn giáo mà
còn có thể tìm kiếm những phương thức mưu sinh, tạo nên sự cộng cảm để
tạo lập và duy trì MLXH. Chính vì những lý do khoa học và thực tiễn như
vậy, chúng tôi thực hiện luận án Hành hương Phật giáo chùa Hương hiện
nay để tìm hiểu xem các đoàn hành hương Phật giáo chùa Hương được
hình thành và kết nối như thế nào? Hành hương Phật giáo chùa Hương
giúp người hành hương kết nối mạng xã hội ra sao, họ vận dụng mạng lưới
ấy vào làm ăn kinh tế thế nào? Qua hành hương Phật giáo chúng ta hiểu gì
về đời sống văn hóa, xã hội đương đại?
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu trường hợp đoàn hành hương Phật giáo An
Lạc, luận án muốn tìm hiểu về sự thay đổi thực hành tôn giáo. Trên cơ sở
đó luận án đóng góp vào cuộc thảo luận về hành hương tôn giáo với những
cách thức kết nối, tạo dựng, duy trì và sử dụng việc mạng xã hội trong làm
ăn kinh tế của các nhóm/đoàn hành hương hiện nay.
2
2.2. Câu hỏi nghiên cứu
Luận án đặt ra ba câu hỏi nghiên cứu chính:
Thứ nhất: Đoàn hành hương Phật giáo chùa Hương được hình thành và kết
nối như thế nào?
Thứ hai: Hành hương Phật giáo chùa Hương giúp người hành hương kết
nối mạng xã hội và họ vận dụng vào làm ăn kinh tế thế nào?
Thứ ba: Qua hành hương Phật giáo chùa Hương, chúng ta hiểu gì về đời
sống văn hóa, xã hội đương đại?
2.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích nghiên cứu, luận án đặt ra các nhiệm vụ như sau:
- Tổng quan tình hình các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về
hành hương Phật giáo và xác định vấn đề nghiên cứu của luận án.
- Làm rõ cơ sở lý luận của hành hương Phật giáo, minh định khái niệm
hành hương, hành hương Phật giáo, niềm tin tâm linh, không gian
thiêng, vốn xã hội, cộng cảm, mạng lưới xã hội…
- Nhận diện hành hương Phật giáo chùa Hương hiện nay ở cả chiều cạnh
người hành hương và địa bàn hành hương.
- Tìm hiểu hành hương Phật giáo chùa Hương ở khía cạnh kết nối, duy
trì mạng lưới xã hội và cách thức người hành hương sử dụng mạng lưới
xã hội.
- Bàn luận một số vấn đề đặt ra xung quanh việc hành hương Phật giáo
hiện nay – một thực hành văn hóa gắn với các động thái kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội trong đời sống của con người đương đại.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hiện tượng hành hương Phật
giáo chùa Hương (Mỹ Đức, HN) qua đoàn hành hương Phật giáo An Lạc ở
Hà Nội.
3
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Luận án tập trung nhận diện sự hình thành, cơ cấu
tổ chức, hoạt động của đoàn hành hương Phật giáo đến chùa Hương qua
đoàn hành hương Phật giáo An Lạc ở HN. Qua đó nhìn nhận cách thức tạo
lập, duy trì MLXH và việc vận dụng MLXH vào cuộc sống.
+ Về không gian: Luận án nghiên cứu hành hương Phật giáo chùa
Hương qua đoàn hành hương Phật giáo An Lạc ở HN hành hương đến chùa
Hương.
+Về thời gian: Luận án sẽ tập trung phân tích thực hành hành
hương tại chùa Hương trong 5 năm trở lại đây vì sự hình thành và phát triển
nhanh chóng của các đoàn hành hương Phật giáo chùa Hương.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Về phương pháp cụ thể, tôi đã sử dụng ba phương pháp chính:
- Phương pháp thu thập, phân tích tư liệu thứ cấp: gồm tài liệu, các công
trình nghiên cứu được in ấn, xuất bản và đang được lưu trữ tại các thư viện.
Những tài liệu này giúp chúng tôi có cái nhìn khái quát, hệ thống hơn về vấn đề
tôn giáo, thực hành nghi lễ, về hành hương Phật giáo hiện nay.
- Khảo sát thực địa với quan sát tham dự và phỏng vấn sâu: NCS đã thực
hiện nhiều đợt khảo sát thực tế, cùng đồng hành với đoàn hành hương An Lạc
cũng như một số đoàn hành hương khác.
+ Quan sát tham dự: NCS đã tham dự, quan sát, trải nghiệm hành
trình hành hương của đoàn hành hương Phật giáo An Lạc như cùng ăn
uống, chia sẻ buồn vui và thực hành nghi lễ chứng kiến nhiều mối quan hệ
được kết nối từ sự trao đổi mua bán, tìm kiếm cũng như giới thiệu công việc
của những người tham gia hành hương.
+ Phỏng vấn sâu: Trong quá trình tham gia và trải nghiệm cùng đoàn
hành hương Phật giáo An Lạc NCS đã phỏng vấn các đối tượng sau:
* Đại Đức Thích Minh Hà: Thầy là người tạo lập, duy trì và tổ chức
các hoạt động hành hương của đoàn hành hương An Lạc.
4
* Người tham gia hành hương: Chúng tôi đã phỏng vấn 100 người
hành hương (những thành viên đại diện của 5 tổ trong đoàn) với các độ tuổi,
nghề nghiệp khác nhau của đoàn hành hương Phật giáo An Lạc.
* Nhóm đệ tử: Nhóm đệ tử này, chúng tôi phỏng vấn 5 người thường
là các bạn trẻ đi theo giúp đỡ, hỗ trợ cho mỗi chuyến hành hương.
* Nhóm Sư Tăng Ni: Nhóm này chúng tôi phỏng vấn 5 người bao
trong đó cụ thể người được phỏng vấn nhiều nhất là Thầy Thích Minh Hiền trụ
trì chùa Hương và một số Sư Tăng của những nơi tổ chức hành hương.
* Nhóm cán bộ, người dân địa phương làm dịch vụ tại chùa Hương:
Nhóm này chúng tôi phỏng vấn 10 người đến từ nhiều thành phần, từ cán bộ
quản lý di tích chùa Hương đến người làm, dịch vụ ăn uống, dịch vụ…
- Phương pháp thống kê
Trên cơ sở những số liệu đã có, tôi thống kê lại số liệu về thành phần, độ
tuổi, hình thức đi theo cá nhân, nhóm, đoàn, những người hành hương.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án góp phần nghiên cứu hành hương Phật giáo như một thực
hành tôn giáo nổi lên trong bối cảnh xã hội Việt Nam đương đại.
- Luận án bổ sung thêm một hướng tiếp cận về hành hương Phật
giáo với chức năng kết nối mạng lưới xã hội và quá trình vận hành trong
làm ăn kinh tế của những người tổ chức và người hành hương.
- Kết quả của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho nhà
nghiên cứu về tín ngưỡng tôn giáo, kinh tế du lịch, những nhà quản lý tôn
giáo tín ngưỡng, quản lý văn hóa… trong việc hoạch định chính sách và
hoạt động về tín ngưỡng, tâm linh nói chung.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án
- Từ cách tiếp cận Nhân học văn hóa, luận án góp phần nhận diện
về hiện tượng hành hương Phật giáo chùa Hương trong bối cảnh xã hội
5
đương đại; Phân tích các khía cạnh kết nối mạng lưới xã hội và khía cạnh
trao đổi kinh tế trong đoàn hành hương.
- Luận án góp thêm luận cứ về vai trò của thực hành Phật giáo với
chức năng kết nối xã hội và kinh tế trong xã hội hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Kết quả của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên
cứu và giảng dạy về văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo và công tác xã hội.
- Kết quả của luận án là tài liệu tham khảo tốt cho công tác hoạch định
chính sách và quản lý văn hóa. Luận án có thể gợi mở cho các nhà quản lý tôn
giáo, Sư Tăng Ni trụ trì trong hoạt động thực hành tôn giáo của các nhà chùa,
giáo Hội Phật giáo, hoạt động tôn giáo trong xã hội hiện nay.
7. Bố cục luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án
được kết cấu thành 5 chương sau đây:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và địa bàn
nghiên cứu
Chương 2: Nhận diện hành hương Phật giáo chùa Hương hiện nay
Chương 3: Hành hương Phật giáo chùa Hương: Khía cạnh kết nối mạng
lưới xã hội
Chương 4: Hành Hương Phật giáo chùa Hương: Khía cạnh kinh tế
Chương 5: Hành hương Phật giáo trong đời sống xã hội đương đại và
những vấn đề đặt ra
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Những nghiên cứu về hành hương và hành hương tôn giáo
Nhiều nhà nhân học nước ngoài đã nghiên cứu về các trung tâm
hành hương - điểm đến của các đoàn hành hương, thái độ của người dân,
giới tính người hành hương, bối cảnh chính trị, sự kết nối giữa du lịch với
hành hương… như sau: Jill Dubisch, Pilgrimage, gender, and politics at
a greek island shrine [hành hương, giới tính, và chính trị tại một ngôi
đền hòn đảo Hy Lạp] (1995) [117], Nigel D. Morpeth, Religious
Tourism and pilgrimage festivals management An International
Perspective [Du lịch tôn giáo và quản lý lễ hội hành hương – Một viễn
cảnh quốc tế] (2008) [118]; Badone, Ellen and Sharon R. Roseman,
“Approaches to the Anthropology of Pilgrimage and Tourism” in:
Intersecting Journeys: The Anthropology of Pilgrimage and Tourism
[Tiếp cận nhân học về hành hương và du lịch, trong Hành trình kết nối:
Hành hương và du lịch] (2004) [112], Trong đó, tác giả Philip Taylor
(2004) trong công trình Goddess on the rise-Pilgrimage and popular
religion in Việt Nam [Sự phát triển tục thờ nữ thần và hành hương tôn giáo
phổ biến ở Việt Nam] (2004) [122] đã đề cập đến các mối quan hệ giữa tôn
giáo/thực hành tôn giáo và điều kiện kinh tế qua việc hành hương về miếu
Bà Chúa Xứ.
Trong nghiên cứu của Victor và Edith Turner (1978), Image and
Pilgrimage in Christian Culture: Anthropological Perspective [Hình ảnh
và hành hương trong văn hóa Kitô giáo: Quan điểm nhân học];Nghiên cứu
của Reader, Ian. 1993. “Introduction” in: Pilgrimage in Popular Culture
[“Giới thiệu” trong: Hành hương trong văn hóa đại chúng] mang tính phản
cấu trúc, coi việc hành hương là tạo một trật tự xã hội, liên kết cấu trúc xã
hội tạm thời.
7
1.1.2. Những nghiên cứu về hành hương Phật giáo
Những nghiên cứu về niềm tin Phật giáo
Đã có nhiều nghiên cứu trong nước về chủ đề Phật giáo, triết lý
đạo Phật, niềm tin của con người gắn với đạo Phật, hành hương Phật giáo
như: Thích Thanh Từ, Hoa vô ưu (2006) [78], Đại Sư Tinh Vân, Phật giáo
và xã hội (2014) [97], Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa, Giác ngộ mỗi
ngày (2016) [101], Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận (Vietnamese
Buddhist history) (1994) [50].
Bên cạnh đó, nghiên cứu về hành hương Phật giáo còn có
Buddhism Pilgrimage [Hành hương Phật giáo] của tác giả Chan Khoan San
(2011) [11], Hành hương xứ Phật tác giả Phạm Kim Khánh (1997) [48] đã
ghi lại cuộc hành trình của các nhóm hành hương Phật giáo đến Ấn Độ. Sự
sôi nổi của các tín đồ đạo Phật hành hương đến những không gian thiêng
mang sắc màu Phật giáo sau thời kỳ Đổi mới tại Việt Nam được đề cập đến
trong nghiên cứu Buddhist Pilgrimage and Religious Resurgence in
Contemporary Viet Nam [Hành hương Phật giáo và sự hồi sinh tôn giáo
trong xã hội Việt Nam đương đại] của nhà nghiên cứu Đào Thế Đức (2008)
[22] đã nói đến sự hồi sinh và sự trở lại của các tín đồ hành hương Phật giáo
ở miền bắc Việt Nam qua nghiên cứu tại Yên Tử.
Nghiên cứu về tính thiêng và ý nghĩa của chùa Hương trong hành hương
Nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về chùa Hương đã mô tả vẻ
đẹp phong cảnh và tính thiêng Phật Giáo nơi đây song các nghiên cứu này
chủ yếu giới thiệu về lịch sử khu di tích Hương Sơn tiêu biểu là các công
trình Văn hóa tâm linh của Nguyễn Đắc Duy (chủ biên) (2008) [20]; Chùa
Hương Tích, Cảnh quan và Tín ngưỡng của Phạm Đức Hiếu (2013) [41];
Hương Sơn Quán Âm xưng tán tác giả Sơn Nam (2012) [54]; Chùa
Hương ngày nay của Thích Viên Thành (1996) [71]; Thích Thanh Hiền,
Truyện Đức Chúa Ba (Phật Bà Quán Thế Âm) (2013) [38]; Sơn Nam,
Hương Sơn Quán Âm xưng tán (2012) [54]…
8
1.1.3. Đánh giá về các nghiên cứu đã công bố
Các công trình nghiên cứu trên chưa tập trung nghiên cứu rõ mục
đích hành hương, của người hành hương và vai trò của hành hương với đời
sống xã hội hiện tại. Luận án muốn chỉ ra những chiều cạnh kết nối trong
hoạt động của một đoàn hành hương Phật giáo đến chùa Hương để tìm hiểu
về cách thức tạo dựng và duy trì MLXH hiện nay.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Khái niệm
+ Niềm tin tâm linh, không gian thiêng
Trong luận án này, tác giả quan niệm không gian thiêng là nơi diễn
ra những hoạt động tâm linh, là nơi diễn ra thực hành nghi lễ tạo nên sự
đồng cảm giữa con người cùng có niềm tin tôn giáo.
Phạm Quỳnh Phương trong một bài viết khác Những nghiên cứu
không gian thiêng (Một nghiên cứu thực địa về các di tích thờ Trần Hưng
Đạo ở Việt Nam). Trong bài viết, tác giả cũng cho rằng một không gian
thiêng không thể trở thành một nơi chốn cụ thể nếu nó không được gắn với
ý nghĩa mà con người gán cho nó [60]. Trong luận án này, tác giả quan
niệm không gian “thiêng” là nơi con người hành hương đến vì niềm tin tâm
linh, nơi diễn ra thực hành nghi lễ liên quan đến Phật giáo mà con người
được trải nghiệm và thực hành.
+ Hành hương và hành hương Phật giáo
Từ điển Oxford Reference English Dictionary (1996) cho rằng
“pilgrim” là một người du hành tới một vùng đất thiêng thể hiện lòng mộ đạo,
còn “Pilgrimage” là một cuộc hành hương.
Victor Turner có quan điểm khác về hành hương, ông nhấn mạnh các
Nghi thức chuyển tiếp (rite de passage) trong quá trình hành hương và coi hành
hương là một dạng thể chế hóa hoặc “biểu tượng”, “phản cấu trúc”. Do vậy mà
quan điểm của Turner về cộng cảm trong hành hương là yếu tố đưa con
người ra khỏi cấu trúc xã hội thông thường, không phụ thuộc vào sự ràng
buộc của cấu trúc, mọi thứ đều hoàn toàn tự nguyện. Ngưỡng kích thích dưới
9
của nó kéo dài hơn ngưỡng kích thích dưới của lễ thụ pháp và tạo ra những cửa
ngõ thế tục và cộng cảm mới. (1973) [126; tr.204].
Theo Thích Đức Trường trong bài viết Hành hương tâm linh con
đường Hoằng Pháp thì Hành hương Phật giáo là nghi thức thắp hương đi
diễu quanh tháp đường và điện Phật và cũng như lễ bái trước tượng Phật,
Bồ tát... Đây là ý nghĩa nguyên thủy của từ “hành hương”, còn về sau này,
nội hàm của “hành hương” mở rộng hơn nhiều, thậm chí đến nay hành
hương đôi khi được đánh đồng với du lịch văn hóa, nhất là các tuyến du lịch
tham quan các di tích lịch sử tôn giáo - tín ngưỡng (2017) [81]. Trong
khuôn khổ của luận án này, chúng tôi hiểu về Hành hương Phật giáo như
sau: Hành hương Phật giáo là hành trình đến những vùng đất thiêng của
Phật giáo để chiêm bái, tự học triết lý đạo Phật và thực hành nghi lễ. Hành
hương Phật giáo là sự kết nối những con người có chung niềm tin với Đức
Phật và sự mong muốn thực hành niềm tin đó. Từ đây, mạng lưới xã hội,
các mối quan hệ xã hội, nhiều thực hành trao đổi kinh tế và tôn giáo được
hình thành và duy trì.
+ Cộng cảm
Theo Victor Turner thì cộng cảm (Communitas) là một đặc tính của
sự tương tác, thậm chí là sự chia sẻ trực tiếp giữa những cá tính cụ thể và rõ
ràng, được phát sinh trong mọi nhóm đối tượng, hoàn cảnh và tình huống
(V.Turner 1978) [124; tr.250].
+ Mạng lưới xã hội
Theo tác giả Nguyễn Thị Phương Châm thì “Mạng lưới xã hội là
một cấu trúc xã hội hình thành bởi những cá nhân (hay những tổ chức) được
gắn kết bởi sự phụ thuộc lẫn nhau thông qua mối quan hệ như quan hệ bạn
bè, quan hệ họ hàng, quan hệ niềm tin, quan hệ về kiến thức,… và những
chia sẻ về sở thích, về tài chính, về các vấn đề xã hội,…” [12; tr.6]. Tác giả
Nguyễn Giáo lại cho rằng “Mạng lưới xã hội là mô hình liên kết các quan
hệ xã hội của cá nhân, nhóm và tập thể” [28; tr.33].
+ Vốn xã hội
10
Từ góc độ chính trị, Fukuyama Francis đã nghiên cứu về quan hệ
xã hội thông qua vốn xã hội ở khía cạnh kinh tế qua những bài viết: “Social
capital and civil society” [Vốn xã hội và xã hội dân sự ] (1999) [115] cho
rằng vốn xã hội chính là được sản sinh ra từ những thành tố văn hóa của xã
hội hiện đại và nó được đặt trên nền tảng của sự tin cậy trong xã hội (social
trust) qua quá trình liên kết những thành viên cùng chung tham gia vào một
tổ chức nhóm hay cộng đồng.
1.2.2. Hướng tiếp cận cơ sở lý thuyết của luận án
Trong nghiên cứu của mình tôi lại quan tâm đến quan điểm cộng
cảm trong hành hương của Victor Turner vì quan điểm này ảnh hưởng
đến các nghiên cứu hành hương. Bên cạnh đó, với hướng tiếp cận lý
thuyết là mạng lưới xã hội tôi cũng quan tâm đến vấn đề cộng cảm trong
công trình Image and Pilgrimage in Christian Culture: Anthropological
Perspective [Hình ảnh và hành hương trong văn hóa Công giáo: Quan
điểm nhân học] (1978) [124]. Tôi đồng quan điểm với Victor Turner, khi
ông dựa trên nền tảng lý thuyết về mâu thuẫn và ổn định xã hội của
Mars và chức năng luận của Durkhiem và cho rằng hành hương có chức
năng kết nối các mối quan hệ xã hội và nó có thể tạo ra những mối quan
hệ mới. Victor Turner nhấn mạnh những trải nghiệm và thực hành nghi
lễ của hành hương Kitô giáo đóng vai trò trong việc giải quyết những
mâu thuẫn, sự đối kháng để duy trì sự ổn định xã hội. Hành hương Phật
giáo chùa Hương cũng chia sẻ khía cạnh này và quan điểm của Victor
Turner sẽ được NCS sử dụng trong luận án khi nghiên cứu về kết nối
MLXH trong hành hương Phật giáo chùa Hương… Cùng là lý thuyết
chức năng (functionism) song Emile Durkheim cũng cho rằng tôn giáo
và những thực hành nghi lễ có chức năng duy trì và ổn định xã hội.
Emile Durkheim so sánh khả năng tích hợp văn hóa – xã hội của tôn
giáo với chất keo gắn kết con người qua những sinh hoạt nghi lễ tôn
giáo, củng cố sự đoàn kết. Quan điểm này cũng được NCS vận dụng
11
xem xét mở rộng các quan hệ xã hội trong hành hương Phật giáo chùa
Hương.
Những quan điểm trên là tiền đề, là cơ sở, nền tảng cho NCS áp
dụng trong nghiên cứu về hành hương Phật giáo chùa Hương. Luận án sẽ
nhận diện hiện tượng hành hương Phật giáo chùa Hương như một hiện
tượng văn hóa nổi lên trong xã hội đương đại với những động thái chính trị,
kinh tế, xã hội – tâm linh.
1.3. Chùa Hương – không gian thiêng trong hành hương Phật giáo hiện nay
1.3.1. Vị trí địa lý và lịch sử hình thành
1.3.1.1. Vị trí địa lý
Chùa Hương cách Hà Nội khoảng 70 km về phía Tây Nam với
tổng diện tích tự nhiên là 8.328ha. Chùa Hương được Bộ Văn hoá, Thể thao
và Du lịch (BVHTT&DL) xếp hạng di tích Quốc gia ngày 8 tháng 4 năm
1962, một trong 14 Di tích Quốc gia đặc biệt đã được Thủ tướng Chính phủ
ra Quyết định công nhận. Quần thể di tích chùa Hương Tích gồm đền, chùa,
động-chùa rải rác trên địa bàn các thôn: Yến Vĩ, Đục Khê, Hội Xá, Tiên
Mai và Phú Yên thuộc huyện Mỹ Đức.
1.3.1.2. Lịch sử hình thành
Theo Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Hương Sơn thì xã Hương Sơn
là một trong 22 xã, thị trấn của huyện Mỹ Đức ở vùng thủy phía cực Nam,
nơi giáp ranh 4 huyện (thuộc 3 tỉnh): Mỹ Đức, Ứng Hoà (Hà Nội); Kim
Bảng (Hà Nam) và Lạc Thuỷ (Hoà Bình).
1.3.2. Chùa Hương, không gian thiêng cho người hành hương
1.3.2.1. Tính thiêng chùa Hương qua cảnh quan và truyền thuyết
Quần thể di tích Chùa Hương bao gồm 20 chùa – Đền và hang động
có vẻ đẹp kỳ diệu tạo sự khác biệt và mang đậm chất văn hóa Phật, nơi
“Bầu trời cảnh bụt” được lưu truyền khắp nơi với danh hiệu: “Nam thiên đệ
nhất động” [55; tr.5] hấp dẫn nhiều đoàn hành hương tới đây.
1.3.2.2. Tính thiêng chùa Hương qua các dấu tích Phật giáo
12
Chùa Hương, được biết đến rộng rãi với danh hiệu là Đạo tràng của
Bồ Tát Quán Thế Âm Truyện Phật bà Chùa Hương là một truyện Nôm kể
về sự tích bà Chúa Ba, nơi đây hàng năm đón hàng nghìn lượt khách hành
hương, tham quan và trẩy hội.
1.3.2.3. Dấu ấn của các Chư Tổ trụ trì
Hiện nay, hàng năm chùa Hương đón rất nhiều đoàn hành hương đến
chiêm bái và lễ Phật vì một trong những yếu tố đặc biệt, tạo dấu ấn lan tỏa
niềm tin với du khách hành hương đến chùa Hương là pháp danh các đời Sư
Tăng Ni trụ trì nơi đây và hiện nay là Thượng Tọa Thích Minh Hiền. Chính
danh tiếng, sự nổi tiếng về học thuật và những thực hành nghi lễ của các vị
Cao Tăng trụ trì của chùa Hương cũng tạo sức lan tỏa tâm linh trong dân
gian, người dân nô nức hành hương và trảy hội chùa Hương với các thời
điểm trong năm nhưng đông nhất là mùa xuân.
Tiểu kết chƣơng 1
Qua tổng quan các nghiên cứu về hành hương, hành hương Phật
giáo, về chùa Hương của nhiều học giả trong và ngoài nước có thể thấy nội
dung này đã được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau. Từ việc làm rõ hệ
thống khái niệm có tính chất thao tác trong luận án như không gian thiêng,
hành hương, cộng cảm, vốn xã hội, MLXH và nền tảng lý thuyết liên quan,
luận án đã sử dụng quan điểm của Victor Turner và Emile Durkheim để làm
nổi rõ những yếu tố, chiều cạnh kết nối MLXH.
Chƣơng 2
NHẬN DIỆN HÀNH HƢƠNG PHẬT GIÁO CHÙA HƢƠNG
HIỆN NAY
2.1. Khái quát các đoàn hành hƣơng Phật giáo về chùa Hƣơng hiện
nay
Hiện nay, nhiều ngôi chùa, nhiều tổ chức, cá nhân đã kết nối lại với
nhau theo nhóm, hội, đoàn có quy mô lớn và có tổ chức quy củ thường do
những Sư Tăng Ni là trụ trì tại một số ngôi chùa tự nguyện đứng ra tổ chức
13
để đi lễ xa hay còn gọi là hành hương đến những không gian thiêng. Những
địa điểm đón nhiều đoàn hành hương đến chiêm bái và thực hành nghi lễ
nhất là Yên Tử, chùa Dâu và đặc biệt là chùa Hương… Chùa Hương là một
trong những ngôi chùa đón rất nhiều nhóm, đoàn, cá nhân hành hương đến
thực hành nghi lễ, chiêm bái cảnh quan và tự học Phật pháp mỗi năm. Phần
lớn các đoàn hành hương có số lượng người tham gia lớn đều có trưởng
đoàn là những Sư Tăng Ni. Người trưởng đoàn này có vai trò rất lớn trong
suốt hành trình hành hương, họ luôn giảng dạy Phật giáo, hoằng dương Phật
pháp, tổ chức giáo dục theo triết lý nhà Phật và thực hành nghi lễ. Tại chùa
Hương, các đoàn hành hương được hình thành với số lượng người hành
hương ít nhất khoảng 20 thành viên và nhiều nhất đến hơn 3 nghìn thành
viên. Việc xuất hiện nhiều đoàn hành hương, nhiều người tham gia hành
hương là do họ kết nối với nhau bằng nhiều phương tiện như mạng zalo,
facebook, qua lời giới thiệu của bạn bè, lời giới thiệu của các Phật tử...
Hành hương Phật giáo được tạo dựng và được kết nối từ nhu cầu văn hóa
tâm linh, thực hành nghi lễ, tham gia lễ hội, hoạt động thiện nguyện, trao
đổi kinh tế … đây là những yếu tố tạo nên sự gắn kết giữa những người tổ
chức và người đi hành hương.
2.2. Đoàn hành hƣơng Phật giáo An Lạc, Hà Nội
2.2.1. Sự hình thành
Một trong những đoàn năm nào cũng hành hương về chùa Hương hai
lần trong một năm và là đoàn mà tôi tham gia trực tiếp nhiều nhất là đoàn
hành hương Phật giáo An Lạc. Đoàn An Lạc của chùa Hải Tân do Đại Đức
Thích Minh Hà trụ trì chùa Hải Tân làm trưởng đoàn được duy trì, tạo lập
từ năm 2012 cho đến nay. Với gần 10 năm kể từ khi đoàn An Lạc được
thành lập lúc đầu số lượng thành viên khoảng 200 thành viên nhưng đến
hiện nay số lượng thành viên gần 3000 người được chia thành 10 tổ, mỗi tổ
có một tổ trưởng. Hiện nay, cơ cấu tổ chức đoàn hành hương Phật giáo An
Lạc là Đại Đức Thích Minh Hà trưởng đoàn và cũng là người có vai trò lớn
nhất trong đoàn. Đoàn được chia thành nhiều tổ như tổ 1, 4 đa phần là những
14
người làm kinh doanh, tổ 2, 3 chủ yếu là công chức, viên chức, tổ 5, 6 đa phần
là các bạn trẻ như học sinh phổ thông, sinh viên mới ra trường, sinh viên tình
nguyện ở các trường đại học, tổ 7 đa phần là những người nhiều tuổi, chủ yếu
là những cán bộ về hưu, tổ 8, 9, 10 chủ yếu là các Phật tử trong đạo tràng chùa
Hải Tân.
2.2.2. Thành phần, năng lực người hành hương trong đoàn An Lạc hiện
nay
Đoàn hành hương Phật giáo An Lạc đã thu hút số lượng người tham
gia từ một nhóm vài chục Phật tử hay đi lễ theo Thầy Thích Minh Hà lên
đến hơn 3 nghìn thành viên. Khi tham gia khảo sát đoàn Hành hương Phật
giáo An Lạc, NCS đã được quen biết thêm nhiều thành viên, nhiều người
trong họ có năng lực đặc biệt riêng như khả năng tụng kinh nhà Phật, thực
hành nghi lễ, xem đất cát, ngày tốt, ngày xấu…
2.3. Mục đích ngƣời hành hƣơng đến chùa Hƣơng hiện nay
2.3.1. Niềm tin tâm linh
Chùa Hương là cách gọi trong dân gian, hay Hương Sơn là cả một
quần thể văn hóa tôn giáo Việt Nam gồm nhiều ngôi chùa thờ Phật, đền thờ
thần, đền thờ các vị thần nông nghiệp, đồi, hang, động, rừng, suối, chùa
tháp… Những câu chuyện được con người truyền miệng về sự linh thiêng
qua những công trình điêu khắc thiên nhiên như câu chuyện về biểu tượng
Đụn Gạo, Nong Tằm, Né Kén, Chuồng Lợn, Ao Bèo, Cây Vàng, Cây Bạc,
Đầu Cô, Đầu Cậu, Cửu Long Tranh Châu để thỏa sự ước mong của con
người. Người hành hương đến đây đều cầu mong mọi sự may mắn, cầu tự,
cầu sức khỏe cho mình và gia đình.
2.3.2. Chiêm bái cảnh quan và học triết lý đạo Phật
Một trong những lý do nhiều người hành hương đến chùa Hương đó
là trọng uy tín, giỏi về các thực hành nghi lễ, có kiến thức dạy về triết lý
đạo Phật của những vị Cao Tăng trụ trì nơi đây. Những vị Cao Tăng, Sư
Tăng Ni trụ trì nơi đây đã tạo được niềm tin cho con người hướng về hành
hương nơi đây. Tại chùa Hương, với những kiến thức về Phật pháp, các
15
Thầy chia sẻ với Phật tử và trong nhiều trường hợp họ giải quyết những vấn
nạn của con người, sức khỏe tâm linh, sức khỏe tinh thần.
Tiểu kết chƣơng 2
Toàn bộ hoạt động, tham gia trực tiếp hành hương là luận chứng
giúp luận án đủ căn cứ thực tế nhận diện hành hương Phật giáo chùa Hương
với diễn biến sống động hiện nay. Chương viết này đã nhận diện về sự hình
thành, kết nối và mục đích hành hương Phật giáo qua trường hợp cụ thể
đoàn hành hương Phật giáo An Lạc. Ngoài sự mô tả sự hình thành các nhóm
hành hương Phật giáo nội dung của chương 2 còn đề cập đến vấn đề lịch sử,
quan điểm, sự hấp dẫn của không gian thiêng chùa Hương tạo cho chùa
Hương một không gian văn hóa đặc trưng với sự phối sinh giữa Phật giáo
với tín ngưỡng bản địa và trở thành một trung tâm hành hương hiện nay.
Chƣơng 3
HÀNH HƢƠNG PHẬT GIÁO CHÙA HƢƠNG: KHÍA CẠNH
KẾT NỐI MẠNG LƢỚI XÃ HỘI
3.1. Duy trì và kết nối quan hệ xã hội
3.1.1. Duy trì, gắn kết mối quan hệ gia đình
Khi tham gia thực tế đi hành hương cùng đoàn An Lạc, NCS cũng
chứng kiến nhiều người hành hương tham gia cùng người thân trong gia
đình vì họ muốn đồng hành cùng vợ/ chồng/ con/ anh/chị/em đến nơi có sự
hấp dẫn về đời sống tâm linh như chùa Hương. Qua hành hương mối quan
hệ xã hội cũ được củng cố, mối quan hệ mới được thiết lập và nó có tác
dụng làm giảm các mâu thuẫn trong các mối quan hệ kết cấu của gia đình
gia đình.
3.1.2. Mở rộng quan hệ xã hội – tìm kiếm bạn bè, đối tác làm ăn
Từ việc hình thành đoàn hành hương lúc đầu chỉ có khoảng vài
người nhờ các mối quan hệ kiểu “bắc cầu” qua sự uy tín, bình đẳng, thỏa
mãn đời sống tâm linh, đáp ứng được nhu cầu của nhiều người do vậy
ngày càng nhiều người tham gia nâng số người tham gia đoàn hành hương
16
Phật giáo An Lạc lên gần 3000 người hiện nay. Việc mở rộng quan hệ xã
hội – tìm kiếm đối tác làm ăn cũng được thể hiện rõ khi những người hành
hương từ chỗ kết bạn tiến tới việc hợp tác làm ăn.
3.2. Hành hƣơng Phật giáo chùa Hƣơng: Sự cộng cảm duy trì mạng
lƣới ngƣời hành hƣơng
3.2.1. Tính cộng cảm qua quá trình trải nghiệm hành hương
Dù mỗi người một hoàn cảnh sống khác nhau, công việc khác
nhau, nghề nghiệp, địa vị xã hội khác nhau nhưng khi tham gia hành
hương, thiện nguyện theo lịch biểu, đến đúng giờ, cùng tự nguyện đóng
góp, chia sẻ kinh tế, thực hành nghi lễ và trải nghiệm du lịch tâm linh.
Hình ảnh, người hành hương vừa đi vừa “Nam Mô A Di Đà Phật” hòa đồng
ca quyện với hương trầm, tiếng chuông chùa chúng tôi và người hành
hương tự nhiên cảm thấy một niềm hân hoan và phấn khởi.
3.2.2.1. Thực hành nghi lễ cầu an đầu năm
Những người đi hành hương về những không gian thiêng Phật giáo
thực hành nghi lễ cầu nguyện với những mục đích khác nhau. Với người
nông dân họ (mong mưa thuận, gió hòa), người kinh doanh (cầu cho mua
may bán đắt, ký nhiều hợp đồng mới), sinh viên (mong việc học hành hanh
thông, ra trường tìm kiếm được việc làm), cán bộ viên chức (cầu mong
công việc thuận lợi, thăng quan tiến chức) nhưng chủ yếu là cầu bình an và
sức khỏe.
Lễ phóng sinh trên suối Yến
Người hành hương cùng nhau thực hành nghi lễ với niềm tin cầu
mong những sự an lành, may mắn đến cho bản thân, gia đinh.
Cúng dường chư Phật tại chùa Thiên Trù
Thực hành buổi lễ, sư Thầy mặc áo tu hành rồi tiến tới dâng hương,
gồm hương hoa, đèn, nến hoa quả, sau khi dâng lễ Thầy hướng dẫn các Phật
tử mở kinh cùng nhau tụng. Hàng nghìn người hành hương, không phân
biệt chức vụ, địa vị xã hội cùng nhau ngồi tụng kinh theo Thầy cùng gõ mõ
17
tạo nên sự hòa quyện về sự đồng đạo trong không gian chùa Thiên Trù
(chùa Ngoài) ở chùa Hương.
Tiểu kết chƣơng 3
Những hoạt động của quá trình hành hương được gắn kết không chỉ
bởi niềm tin tôn giáo mà những người hành hương có sự cộng cảm tạo nên
sự đồng điệu về tình cảm. Nhìn từ khía cạnh MLXH, đoàn hành hương Phât
giáo là một cộng đồng tiêu biểu mang tính liên kết chặt chẽ qua 3 mối quan
hệ điển hình cộng mệnh, cộng cảm, cộng sinh. Toàn bộ chương 3 nêu rõ
tính chất, đặc điểm của 3 hình thái liên kết này tạo chỗ dựa vững chắc cho
mỗi người tham gia với tư cách là thành viên.
Chƣơng 4
HÀNH HƢƠNG PHẬT GIÁO CHÙA HƢƠNG:
KHÍA CẠNH KINH TẾ
4.1. Hành hƣơng Phật giáo chùa Hƣơng và chức năng kinh tế
Một trong những lý do để duy trì MLXH của những người hành hương
đó là hành hương Phật giáo có chức năng kinh tế qua việc phát triển các
dịch vụ tôn giáo, tăng thu nhập, tiết kiệm làm công đức.
4.1.1. Hành hương Phật giáo: Môi trường phát triển các dịch vụ tâm linh
Hành hương thu hút nhiều tầng lớp dân cư kết nối với nhau không
những chỉ đến để tham gia các khóa tu tập mà còn tham quan, chiêm bái,
tĩnh dưỡng tâm, thực hành nghi lễ và giải quyết nhu cầu tâm linh cá nhân.
Hoạt động trao đổi kinh tế của những người hành hương trong đoàn diễn
ra cũng giống như là hình thức “chợ” mua – bán nhưng mua – bán trong
hình thức “chợ” mang tính tâm linh. Người hành hương ngoài mục đích đi
lễ, thực hành tín ngưỡng, kết bạn, trao đổi buôn bán… họ còn giải quyết
những nhu cầu tâm linh cá nhân như xem đất, xem ngày làm nhà… và đây
là cơ hội việc làm kiếm tiền cho những người thực hành nghề làm dịch vụ
tâm linh.
18
- Xem thêm -