Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hành động xin lỗi một phân tích dụng học - văn hoá trong tiếng việt...

Tài liệu Hành động xin lỗi một phân tích dụng học - văn hoá trong tiếng việt

.PDF
133
1934
151

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------- KHOA NGÔN NGỮ HỌC------- LUẬN VĂN THẠC SỸ HÀNH ĐỘNG XIN LỖI: MỘT PHÂN TÍCH DỤNG HỌC-VĂN HÓA TRONG TIẾNG VIỆT CHUYÊN NGÀNH : NGÔN NGỮ HỌC MÃ SỐ : 60 21 01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC NGƯỜI THỰC HIỆN : TS. VŨ THỊ THANH HƯƠNG : NGUYỄN THẾ DƯƠNG HÀ NỘI, 2006 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................................... 3 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 4 3. Mục đích và nội dung của luận văn ............................................................................ 4 4. Tư liệu và phương pháp phân tích............................................................................... 5 5. Đóng góp của luận văn ................................................................................................ 6 6. Bố cục của luận văn .................................................................................................... 7 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT .................................................................................. 8 1.1. Xin lỗi với tư cách là một hành động ngôn từ.......................................................... 8 1.1.1. Lí thuyết hành động ngôn từ ............................................................................. 8 1.1.2. Hành động ngôn từ xin lỗi .............................................................................. 18 1.2. Hành động xin lỗi trong cấu trúc đoạn thoại .......................................................... 34 1.2.1. Cấu trúc hội thoại ........................................................................................... 34 1.2.2. Hành động xin lỗi đặt trong cấu trúc đoạn thoại ........................................... 38 1.3. Hành động xin lỗi và thể diện ................................................................................ 43 1.3.1. Thể diện và hành động đe doạ thể diện .......................................................... 43 1.3.2. Hành động xin lỗi và thể diện......................................................................... 46 1.4. Tiểu kết................................................................................................................... 50 CHƢƠNG 2: CÁC CÁCH THỨC THỰC HIỆN HÀNH ĐỘNG XIN LỖI TRONG TIẾNG VIỆT .................................................................................................................... 52 2.1. Tình hình nghiên cứu các cách thức thực hiện hành động xin lỗi.......................... 52 2.1.1. Ở nước ngoài .................................................................................................. 52 2.1.2. Ở Việt Nam ..................................................................................................... 55 2.2. Các cách thức thực hiện hành động xin lỗi trong tiếng Việt .................................. 58 2.2.1. Xin lỗi trực tiếp ............................................................................................... 58 2.2.2. Xin lỗi gián tiếp .............................................................................................. 70 2.3. Tiểu kết................................................................................................................... 96 CHƢƠNG 3: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN VIỆC HIỆN THỰC HOÁ HÀNH ĐỘNG XIN LỖI ............................................................................................................... 98 3.1. Các nghiên cứu đi trước ......................................................................................... 98 3.2. Giới tính và hành động xin lỗi ............................................................................... 99 1 3.2.1. Sự phân bố giới tính của người xin lỗi và người nhận ................................... 99 3.2.2. Giới tính người xin lỗi và việc hiện thực hoá hành động xin lỗi .................. 101 3.3. Mức độ tương thân và hành động xin lỗi ............................................................. 104 3.3.1. Sự phân bố hành động xin lỗi trong các quan hệ tương thân ...................... 104 3.3.2. Mức độ tương thân và việc hiện thực hoá hành động xin lỗi ....................... 107 3.4. Quyền lực và hành động xin lỗi ........................................................................... 109 3.4.1. Sự phân bố hành động xin lỗi trong các quan hệ tương thân ...................... 110 3.4.2. Quyền lực và việc hiện thực hoá hành động xin lỗi ..................................... 112 3.5. Mức độ lỗi lầm và hành động xin lỗi ................................................................... 114 3.6. Tiểu kết................................................................................................................. 118 KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 121 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 123 PHỤ LỤC........................................................................................................................ 128 2 MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Kể từ khi ra đời, lí thuyết hành động ngôn từ đã có một ảnh hưởng sâu rộng và trở thành một lí thuyết xương sống cho chuyên ngành ngữ dụng học. Nó đã được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng như là một phương tiện hữu hiệu cho việc phân tích diễn ngôn. Lí thuyết này bác bỏ nhận định rằng mục đích của ngôn ngữ chỉ là miêu tả một sự tình, và cho rằng khi chúng ta nói ra chính là chúng ta đang thực hiện một hành động, chẳng hạn như: thông báo, chào, cảm ơn, xin lỗi, đề nghị... Từ đó, một hướng nghiên cứu mới được mở ra, tập trung vào việc phân tích những loại hành động ngôn từ cụ thể. Nằm trong số đó, hành động xin lỗi cũng nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Sở dĩ có điều này là vì trong thực tế dụng ngôn, xin lỗi là một hành động ngôn từ khá thông dụng và quan trọng. Nó thông dụng vì nó tiềm tàng khả năng xuất hiện trong nhiều tình huống giao tiếp. Dường như trong bất cứ một nền văn hoá nào thì xin lỗi cũng được xem như là những phát ngôn cửa miệng, mang tính chất nghi thức cao. Nó quan trọng ở chính chức năng sửa chữa của nó. Xã hội luôn hướng đến một thế cục tích cực và hợp tác mà lời xin lỗi là một trong những phương tiện hữu hiệu để biểu thị mong muốn khôi phục sự hài hoà trong xã hội. Về phương diện lí thuyết, xin lỗi, ngay từ thời kì ngữ dụng học sơ khai, đã được xem là một trong những ví dụ kinh điển của hành động ngôn từ. Sở dĩ có điều này là bởi lẽ lời xin lỗi có những đặc tính tự quy chiếu (self-referential) tức là động từ trong câu quy chiếu đến điều mà người nói đang thực hiện, tự xác nhận (self-verifying) tức là chúng chứa đựng những điều kiện chân thực của riêng mình và bất khả nguỵ (non-falsifiable) tức là chúng không bao giờ nhận giá trị sai theo các điều kiện mệnh đề logic. 3 Ở Việt Nam, đã có một số tác giả tìm hiểu về hành động xin lỗi (Phạm Thị Thành 1996, Nguyễn Văn Lập 2005). Tuy nhiên, những nghiên cứu này chỉ hạn định trong khuôn khổ của nghi thức lời nói và còn tương đối sơ lược. Do vậy, những nghiên cứu sâu hơn là điều cần thiết nhằm tìm hiểu những đặc điểm mang tính chất phổ quát đồng thời cũng thấy rõ những nét đặc trưng riêng của hành động xin lỗi trong một ngôn ngữ cụ thể. Vì những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài "Hành động xin lỗi: một nghiên cứu về dụng học văn hoá" cho luận văn này. 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các phát ngôn có chứa hành động ngôn từ xin lỗi trong tiếng Việt. Để nhận diện và phân tích các phát ngôn này một cách hiệu quả nhất, chúng tôi không xem xét lời xin lỗi như là một phát ngôn riêng lẻ mà đặt nó trong một khuôn khổ lớn hơn, đó là đoạn thoại. Từ đoạn thoại chứa những yếu tố cần viện đến lời xin lỗi, ta sẽ thấy rõ hơn tình huống và những vận động hội thoại để đi đến hành động xin lỗi đồng thời cũng thấy rõ phản ứng của người bị phạm lỗi thông qua lời hồi đáp. Hành động xin lỗi nghiên cứu ở đây thuộc cả hai dạng thức là trực tiếp và gián tiếp. 3. MỤC ĐÍCH VÀ NỘI DUNG CỦA LUẬN VĂN Mục đích của luận văn là phân tích các đặc điểm của hành động ngôn từ xin lỗi trong tiếng Việt dưới góc độ dụng học- văn hoá. Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung vào giải quyết ba nội dung cơ bản như sau: a. Tìm hiểu bản chất của hành động xin lỗi trên cơ sở các lí thuyết hành động ngôn từ, lịch sự và hội thoại. b. Tìm hiểu các cách thức thực hiện hành động ngôn từ xin lỗi trong tiếng Việt. c. Tìm hiểu tác động của các nhân tố giới tính, quyền lực, mức tương thân và mức độ lỗi lầm ảnh hưởng đến việc hiện thực hoá hành động xin lỗi như thế nào. 4 4. TƢ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP PHÂN TÍCH 4.1. Tƣ liệu Việc thu thập tư liệu trong nghiên cứu hành động ngôn từ nói chung và hành động xin lỗi nói riêng cần thiết phải đạt đến cái đích là thể hiện được những hiện dạng có thể có của hành động. Do vậy, vấn đề đặt ra ở đây là phải thu thập được nhiều tình huống phong phú nhằm thấy hết được tính đa diện của hành động này. Với tinh thần như vậy, tư liệu của luận văn được thu thập từ ba nguồn sau: - Nguồn thứ nhất là tư liệu giao tiếp thực tế được thu thập trong khuôn khổ của công trình Ngôn ngữ giao tiếp giữa người lớn – trẻ em ở Hoài Thị (Đề tài của Viện Ngôn ngữ học hợp tác với Đại học Toronto, Canada 2000 – 2002). - Nguồn thứ hai là những đoạn thoại xin lỗi trong một số bộ phim của Việt Nam được phát sóng trên Truyền hình Việt Nam VTV từ tháng 4/2005 đến tháng 5/2006. - Nguồn thứ ba là một số tác phẩm văn học của Việt Nam trong thế kỉ XX. (Danh sách phim truyện và tác phẩm văn học được dùng làm tư liệu trong luận văn được thống kê trong phần Phụ lục 1). 4.2. Phƣơng pháp phân tích Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng hai phương pháp phân tích sau: 1. Phương pháp phân tích định tính: được sử dụng để phân loại và mô tả tư liệu đã thu thập được. Cụ thể, chúng tôi thực hiện thao tác so sánh các ngữ cảnh thu thập được, từ đó tách chúng thành hai siêu chiến lược xin lỗi trực tiếp và xin lỗi gián tiếp. Trong hai siêu chiến 5 lược này, chúng tôi phân chia nhỏ chúng thành các chiến lược xin lỗi cụ thể. 2. Phương pháp phân tích định lượng: được sử dụng để phân tích thống kê tư liệu thu thập được sau khi đã được mã hoá nhờ sự hỗ trợ của phần mềm SPSS (Về bảng mã, xin xem phần Phụ lục 2). 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN 5.1. Về mặt lí luận Kết quả của luận văn góp phần soi sáng những đặc trưng của hành động ngôn từ xin lỗi trong tiếng Việt thông qua các dạng thức xin lỗi và các nhân tố có thể tác động đến việc hiện thực hoá lời xin lỗi. Từ đó, nó góp phần vào việc kiểm nghiệm lí thuyết hành động ngôn từ trong một hành động cụ thể và một ngôn ngữ cụ thể. Đặc biệt, chúng tôi quan tâm đến việc kết hợp của các biểu thức xin lỗi trong một lời xin lỗi hoàn chỉnh. Nó giúp ích nhiều cho việc có được một góc nhìn toàn diện về hành động ngôn từ này. Đây là điều mà hầu hết các nghiên cứu về hành động xin lỗi chưa chú ý tới. 5.2. Về mặt thực tiễn Xin lỗi, cùng với những hành động như chào, cảm ơn… là những chiếc chìa khoá đầu tiên để người học thâm nhập vào một ngoại ngữ mới. Bất kì một người học ngoại ngữ nào cũng cần thiết phải quan tâm ngay đến nó. Cho nên, hầu như các giáo trình dạy tiếng đều đặt hành động xin lỗi ngay trong những bài học đầu tiên. Song, cái hành động ngôn từ tưởng chừng đơn giản này lại có muôn hình vạn trạng các cách hiện thực hoá, hàm chứa trong đó rất nhiều những nhân tố dụng học và văn hoá, đòi hỏi cả người dạy và người học phải lưu tâm nếu không muốn vấp phải những cú sốc văn hoá. Do vậy, việc hiểu rõ bản chất, chức năng, các cách thức thực hiện cũng như các nhân tố xã hội ảnh hưởng đến hành động này là một điều cần thiết vì nó sẽ hỗ trợ hiệu quả và thiết thực cho việc dạy và học tiếng Việt như một ngoại ngữ. 6 6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có ba chương như sau: Chƣơng 1: Cơ sở lí thuyết. Chương này có nội dung tìm hiểu bản chất của hành động ngôn từ xin lỗi thông qua các lí thuyết: Lí thuyết hành động ngôn từ, lí thuyết lịch sự và lí thuyết hội thoại. Chƣơng 2: Các cách thức thực hiện hành động xin lỗi trong tiếng Việt. Chương này có nội dung là phân loại và mô tả các cách thức thực hiện của hành động xin lỗi trong tiếng Việt trên cơ sở tư liệu thu thập được. Chƣơng 3: Các nhân tố ảnh hƣởng đến việc hiện thực hoá hành động xin lỗi. Chương này có nội dung là phân tích sự tác động của bốn nhân tố giới tính, quyền lực, mức tương thân và mức độ lỗi lầm đến việc hiện thực hoá hành động xin lỗi. 7 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÍ THUYẾT Trong chương 1, chúng tôi sẽ điểm luận các lí thuyết có liên quan đến luận văn. Đó là các lí thuyết hành động ngôn từ, lí thuyết lịch sự và lí thuyết hội thoại. Trên cơ sở của các lí thuyết này, chúng tôi sẽ tiến hành tìm hiểu bản chất và chức năng của hành động ngôn từ xin lỗi. 1.1. XIN LỖI VỚI TƢ CÁCH LÀ MỘT HÀNH ĐỘNG NGÔN TỪ 1.1.1. Lí thuyết hành động ngôn từ Lí thuyết hành động ngôn từ được khởi nguồn từ nhà triết học và ngôn ngữ học người Mĩ Austin. Sau đó, nó được tiếp thu và phát triển ở rất nhiều các nhà nghiên cứu sau này và trở thành một trong những lí thuyết cơ bản nhất của chuyên ngành ngữ dụng học. 1.1.1.1. Bản chất của hành động ngôn từ Trong tác phẩm How to do things with words (1965), Austin đã tiến hành việc nhìn nhận lại điều mà ông gọi là ảo tưởng miêu tả (descriptive fallacy). Theo Austin, lâu nay, người ta dường như đã quá quen với một giả định triết học rằng nhiệm vụ của một câu chỉ gói gọn trong việc “miêu tả” một số sự tình hoặc “thông báo một số sự thật”, và câu đó phải nhận một trong hai giá trị chân hoặc nguỵ. Tuy nhiên, giả định này sẽ phải đối mặt với những thách thức thực sự từ những phát ngôn kiểu: Hoa hậu Việt Nam đẹp nhất thế giới. hoặc: Monet là hoạ sĩ tài năng hơn Manet. (ví dụ của Lyons) Có thể thấy ngay là không thể áp dụng những tiêu chuẩn chân nguỵ của logic cho những phát ngôn kiểu này. Chúng là những phát ngôn giả phán đoán, tức là phản ánh những cảm nhận, quan điểm của người nói về hiện thực 8 khách quan chứ không phải để miêu tả hiện thực ấy. Thêm vào đó, chúng ta lại có những phát ngôn kiểu: Tôi xin lỗi chị. hoặc: Tôi hứa sẽ thi đấu trung thực. thì rõ ràng, ta không phải đang nói một điều gì đó có thể đúng sai so với hiện thực mà chính là ta đang thực hiện một hành động nhất định, ở đây là hành động xin lỗi hoặc hành động hứa. Từ những xuất phát điểm trên, Austin đã đưa ra một sự phân biệt giữa phát ngôn tường thuật (constative) và phát ngôn ngôn hành (performative), theo đó, phát ngôn tường thuật là phát ngôn nêu nhận định, còn phát ngôn ngôn hành là phát ngôn mà khi nói ra chúng cũng chính là ta đang thực hiện một hành động nhất định. Những chuyên đề sau này, Austin lại tiến hành phân biệt giữa phát ngôn ngôn hành tường minh và phát ngôn ngôn hành nguyên cấp. Từ đây, sự phân biệt giữa phát ngôn tường thuật và phát ngôn ngôn hành không còn nữa. Theo Austin, tất cả các phát ngôn mà người ta nói ra đều là ngôn hành. Có điều, chúng hàm ẩn hay được tường minh hoá ra mà thôi. Austin xác định ba cấp độ hành động nằm trong bản thân hành động phát ngôn. Nói khác đi, đằng sau một lời nói cụ thể là ba hành động nằm trong một hành động. Ba hành động đó lần lượt là: Hành động tạo ngôn, hành động ngôn trung và hành động xuyên ngôn. Hành động tạo ngôn là hành động sử dụng các yếu tố ngôn ngữ như ngữ âm, từ, các kiểu kết cấu để tạo nên một phát ngôn hoàn chỉnh. Hành động ngôn trung là những hành động mà người nói thực hiện ngay khi nói năng. Hành động xuyên ngôn là hành động gây nên những hiệu quả tâm lí nào đó đối với người nghe. Ngôn ngữ học, nhất là ngữ dụng học rất quan tâm đến hành động ngôn trung. Hành động ngôn trung là cái lõi của hành động ngôn từ. Do vậy, ngày 9 nay, theo Thomas (1995:51), thuật ngữ hành động ngôn trung cũng được dùng để chỉ hành động ngôn từ. Lí thuyết về hành động ngôn từ được xem là một đóng góp quan trọng cho việc nghiên cứu ngôn ngữ theo hướng giao tiếp. Phát triển quan điểm của Austin, Searle (1969) cho rằng khi chúng ta nói, chúng ta đang thể hiện những hành động ngôn từ như: nhận định, ra lệnh, hỏi, hứa hẹn... Tác giả cũng cho rằng những hành động ngôn từ này được biểu hiện là do sự tương hợp với những quy tắc nhất định cho việc sử dụng các thành tố ngôn ngữ (1969:16). Theo tác giả, mục đích của cuộc giao tiếp là để truyền tin đến người nghe bằng cách làm cho người nghe nhận thấy được ý định của người nói. Người nói sau đó phải đạt tới được những hiệu quả có chủ ý đến người nghe bằng cách cho phép người nghe nhận ra ý định là muốn đạt đến cái hiệu quả ấy. Khi mà người nghe nhận ra được ý định của người nói muốn đạt tới một hiệu quả nào đó thì tức là giao tiếp diễn ra thông suốt. Những nghiên cứu có tính chất khai sáng của Austin và Searle về lí thuyết hành động ngôn từ thực sự là những bước tiến quan trọng trong nghiên cứu ngôn ngữ học. Nó giúp ta hiểu được bản chất hành động của ngôn ngữ. Nói cách khác, với lí thuyết này, nói cũng được xem là một hành động với phương tiện để thực hiện là ngôn ngữ. Lí thuyết này đã được rất nhiều nhà nghiên cứu tiếp thu và phát triển (Ducrot 1972; Bach và Harnish 1979; Brown và Levinson 1987; Wierzbicka 1987; Thomas 1995; Yule 1996…). Song hành với quá trình nghiên cứu về bản chất của hành động ngôn từ, nhiều nhà ngôn ngữ cũng triển khai việc nghiên cứu những hành động ngôn từ cụ thể, trong đó có hành động xin lỗi. Ở Việt Nam, lí thuyết hành động ngôn từ bắt đầu được giới thiệu từ cuối những năm 1980 và nhanh chóng được phổ biến rộng rãi với một số tác phẩm của Đỗ Hữu Châu (1995, 2002); Nguyễn Đức Dân (1998); Nguyễn Thiện Giáp (2000), Đỗ Thị Kim Liên (2005)… Dưới ánh sáng của lí thuyết này, một số các hành động ngôn từ cụ thể trong tiếng Việt cũng đã được 10 nghiên cứu như: lời khen và tiếp nhận lời khen (Nguyễn Quang 1998); thỉnh cầu (Nguyễn Văn Độ 1999), cầu khiến (Vũ Thị Thanh Hương 2000; Chu Thị Thuỷ An 2002); từ chối (Nguyễn Phương Chi 2004; Trần Chi Mai 2005)… đã góp phần áp dụng lí thuyết này trong bối cảnh một ngôn ngữ cụ thể là tiếng Việt. 1.1.1.2. Điều kiện sử dụng của các hành động ngôn từ Các hành động ngôn từ không thể được thực hiện một cách tuỳ tiện mà phải hội tụ đủ một tập hợp những điều kiện sử dụng làm cơ sở cho việc hiện thực hoá chúng. Việc tìm hiểu điều kiện sử dụng của hành động ngôn từ là một công việc rất quan trọng vì nó giúp ích cho việc khám phá bản chất cũng như cơ chế vận hành chúng. Song bên cạnh đó, công việc này cũng không hề đơn giản vì sự đa dạng của thực tế dụng ngôn. Nhận thức được điều này, ngay từ thời kì đầu, các nhà ngữ dụng học đã xem việc tìm hiểu điều kiện sử dụng là một trong những nội dung quan trọng của việc nghiên cứu về hành động ngôn từ. Theo Đỗ Hữu Châu (2002:111), đây là “những điều kiện mà một hành động ngôn từ phải đáp ứng để nó có thể diễn ra thích hợp với ngữ cảnh của sự phát ngôn ra nó”. Thực chất của việc nghiên cứu điều kiện sử dụng là tìm hiểu cơ chế vận hành của một hành động ngôn từ. Theo Austin (1965:14-5), một hành động ngôn từ muốn thành công thì phải thoả mãn điều kiện may mắn. Những điều kiện may mắn đó được xác định như sau: (A.1) Phải có thủ tục quy ước và thủ tục này phải có một hiệu quả quy ước, tức là bao gồm việc phát ra một số từ nào đó, bởi một số người nào đó trong những cảnh huống nào đó, và hơn nữa, (A.2) Hoàn cảnh và con người cụ thể trong trường hợp đã cho phải phù hợp với những thủ tục cụ thể được đưa ra. (B.1) Thủ tục này phải được tất cả những người tham gia thực thi chuẩn xác và 11 (B.2) đầy đủ. (C.1) Thông thường thì những người này phải có những ý nghĩ, tình cảm và ý định đúng như đã được đề ra trong thủ tục và (C2) Khi hành động thì ý nghĩ, tình cảm và ý định đúng như nó có. Kế sau Austin, Searle (1969) đã chỉnh sửa và bổ sung nhằm hệ thống hoá và dạng thức hoá các điều kiện may mắn này và gọi chúng là điều kiện sử dụng. Trước tiên, Searle phân biệt hai loại quy tắc (rule). Một loại là các quy tắc cấu thành (constitutive rules) “nhằm thiết lập hay xác định các dạng thức hành vi mới”, chẳng hạn như quy tắc của môn bóng đá. Một loại là quy tắc điều chỉnh (regulative rules) “nhằm điều khiển các dạng thức của hành vi đã có trước”, chẳng hạn các quy tắc về tính lễ độ điều chỉnh các quan hệ liên nhân dù rằng những quan hệ liên nhân này tồn tại từ khi chưa có các quy tắc lễ độ. Từ sự phân biệt này, tác giả cho rằng để có thể thành công được, các hành động ngôn từ cũng phải tuân thủ một bộ các quy tắc cấu thành. Ý định của Searle là muốn phân tích nhằm tiến tới việc xác lập một cơ chế vận hành có tính ổn định cho các hành động ngôn từ này thông qua những quy tắc cấu thành nhất định. Những quy tắc cấu thành này “tạo ra (và cũng có tác dụng điều chỉnh) một hoạt động mà sự tồn tại của nó phụ thuộc một cách logic vào các quy tắc đó” (1969:617). Bằng cách phân tích hành động hứa hẹn (promising), Searle đã đề xuất bốn điều kiện sử dụng cho một hành động ngôn từ bao gồm: điều kiện nội dung mệnh đề, điều kiện chuẩn bị, điều kiện chân thành và điều kiện căn bản. Về nguyên tắc, đây là những điều kiện cần và đủ để có thể áp dụng cho bất kì một hành động ngôn từ nào. Nội dung cụ thể của bốn điều kiện sử dụng đó như sau: a. Điều kiện nội dung mệnh đề: chỉ ra bản chất nội dung của hành động. Đó có thể là một mệnh đề đơn giản (trong các hành động khảo nghiệm, miêu tả), một hàm mệnh đề (như các câu hỏi có/không?). Nội dung mệnh đề có thể là một hành động của 12 người nói (như hứa hẹn), có thể là một hành động của người nghe (như ra lệnh). b. Điều kiện chuẩn bị: bao gồm những hiểu biết của người nói về năng lực lợi ích, ý định của người nghe và về các quan hệ giữa người nói và người nghe. Chẳng hạn khi ra lệnh, người nói phải tin rằng người nghe có khả năng thực hiện lệnh đó, đồng thời cũng phải nắm bắt rõ tương quan vị thế xã hội giữa hai người. c. Điều kiện chân thành: chỉ ra các trạng thái tâm lí tương ứng của người nói. Chẳng hạn, ra lệnh đòi hỏi lòng mong muốn của chủ thể. d. Điều kiện căn bản: là điều kiện đưa ra kiểu trách nhiệm mà người nói hoặc người nghe bị ràng buộc vào khi hành động được phát ra. Hệ điều kiện sử dụng hành động ngôn trung của Searle có giá trị cao vì nó đã khái quát hoá những điều kiện thiết yếu để một hành động ngôn từ có thể diễn ra. Đề xuất các quy tắc này là hữu ích cho việc định hướng tương tác, là cơ sở cho việc thực thi các nguyên tắc hội thoại nhằm dẫn tới những kết cục thành công trong các giao tiếp thực tế. Tuy vậy, thực tế tương tác lại rất đa dạng và phức tạp, cho nên, theo Thomas (1995), việc áp dụng chúng đối với những hành động ngôn từ cụ thể đã gặp phải những lỗ hổng (gap). Những quy tắc này dường như là tĩnh so với cái thực tế sống động của diễn ngôn. Đương nhiên, mọi quy tắc dường như là không thể bao quát được tất cả các trường hợp như chính Searle cũng từng thừa nhận khi tiến hành phân tích hành động hứa hẹn (promising): “khái niệm hứa hẹn, cũng giống như hầu hết các khái niệm trong ngôn ngữ thông thường, đều không có những quy tắc tuyệt đối nghiêm ngặt” (1969:623). 1.1.1.3. Phân loại các hành động ngôn từ 13 Các hành động ngôn từ không phải tách rời nhau mà giữa chúng có những mối dây liên hệ nhất định. Việc tìm hiểu sự ràng buộc lẫn nhau giữa các hành động này được các nhà nghiên cứu rất quan tâm. Austin (1965), Vendler (1972), Searle (1975), Bach và Harnish (1979), Allan (1986)... đã quy chúng vào những phạm trù nhất định. a. Hướng phân loại của Austin Trên cơ sở các động từ ngôn hành trong tiếng Anh, Austin đã tiến hành phân loại các hành động ngôn từ thành năm phạm trù như sau: - Phán xử (verditives) gồm có xử trắng án, tính toán, miêu tả, phân tích, trù định... Đây là những hành động đưa ra những lời phán xét về một sự kiện hoặc một giá trị dựa trên những chứng cớ hiển nhiên hoặc dựa vào những lí lẽ vững chắc. - Hành xử (exercitives) gồm có ra lệnh, chỉ huy, biện hộ cho, khẩn cầu, đặt hàng, giới thiệu, van xin, khuyến cáo, bổ nhiệm, đặt tên, tuyên bố khai mạc, bế mạc, cảnh cáo, tuyên ngôn… Đây là những hành động đưa ra những quyết định thuận lợi hay chống lại một chuỗi hành động nào đó. - Cam kết (commissives) gồm có hứa hẹn, bày tỏ mong muốn, giao ước, bảo đảm, thề nguyền... Đây là những hành động ràng buộc người nói vào chuỗi những hành động nhất định. - Trình bày (expositives) gồm có khẳng định, phủ định, chối, trả lời, phản bác, nhượng bộ... Đây là những hành động được dùng để trình bày các quan niệm, dẫn dắt lập luận, giải thích cách dùng các từ... - Ứng xử (behabitives) gồm có xin lỗi, cảm ơn, khen ngợi, chào mừng, phê phán, chia buồn, ban phước, nguyền rủa... Đây là những hành động phản ứng với cách xử sự của người khác, đối với các sự kiện có liên quan, chúng cũng là cách biểu hiện thái độ đối với hành vi hay số phận của người khác. 14 Thực chất, Austin đã phân loại theo hướng từ vựng, tức là phân loại các động từ ngôn trung. Cùng theo hướng phân loại này, Vendler (1972) đã tách 5 phạm trù của Austin thành 7 phạm trù. Cụ thể phạm trù hành xử được chia nhỏ thành phát vấn (interrogatives) và hành xử; còn phán xử được chia thành phán xử và thi hành (operatives). Còn Wierzbicka (1987), sau khi tiến hành phân tích nghĩa tường minh của 270 động từ nói năng (speech act verb), đã nhóm chúng lại thành 37 loại. b. Hướng phân loại của Searle Không đồng tình với hướng phân loại mà Austin đề xướng, Searle cho rằng trước hết phải phân loại các hành động ngôn trung chứ không phải phân loại các động từ gọi tên chúng. Việc phân loại này muốn thành công được thì trước hết phải định ra được bộ tiêu chí. Searle đã đề xuất 12 điểm khác biệt giữa các hành động ngôn từ và sử dụng 4 điểm như là các tiêu chí để phân loại. Đó là: 1. Đích ngôn trung (illocutionary point) 2. Hướng khớp ghép lời với hiện thực mà lời đề cập đến (direction of fit) 3. Trạng thái tâm lí được thể hiện (expressed psychological state) 4. Nội dung mệnh đề (propositional content). Từ 4 tiêu chí này, tác giả phân loại thành 5 phạm trù như sau: - Tái hiện (representatives): đích ngôn trung là việc miêu tả một sự tình đang được nói đến. Hướng khớp ghép là lời – hiện thực, trạng thái tâm lí là niềm tin vào điều nói ra, nội dung mệnh đề là một mệnh đề p. Ví dụ: miêu tả, khẳng định, tường thuật, kết luận, suy diễn... - Điều khiển (directives): đích ngôn trung đặt người nghe vào trách nhiệm phải thực hiện một hành động trong tương lai; hướng khớp ghép là hiện thực – lời, trạng thái tâm lí là sự mong muốn của người nói rằng 15 người nghe thực hiện hành động A, nội dung mệnh đề là hành động của người nghe trong tương lai. Ví dụ: ra lệnh, yêu cầu, hỏi, xin phép... - Cam kết (commissives): đích ngôn trung là trách nhiệm phải thực hiện hành động tương lai mà người nói bị ràng buộc, hướng khớp ghép là hiện thực – lời, trạng thái tâm lí là ý định của người nói về việc thực hiện hành động A; nội dung mệnh đề là hành động tương lai của người nói. Ví dụ: hứa hẹn, tặng, biếu... - Biểu cảm (expressives): đích ngôn trung là bày tỏ thái độ của người nói trước một sự tình cụ thể nào đó. Trạng thái tâm lí thay đổi tuỳ theo hành động, nội dung mệnh đề là một hành động hay một tính chất nào đó của người nói hay người nghe, không có hướng khớp ghép. Ví dụ: chào, cám ơn, xin lỗi, chia buồn, chúc mừng... - Tuyên bố (declarations): đích ngôn trung là nhằm thực thi nội dung của hành động, hướng khớp ghép là cả là lời – hiện thực lẫn hiện thực – lời, nội dung mệnh đề là một mệnh đề, không có trạng thái tâm lí. Ví dụ: tuyên bố, buộc tội... 1.1.1.4. Hành động ngôn từ gián tiếp Không phải một phát ngôn chỉ có duy nhất một lực ngôn trung. Các tương tác thực tế luôn rất phức tạp. Người ta có thể nói một đằng song nghĩ một nẻo, hoặc giả người ta có thể thuyết giải không chuẩn xác ý định của người nói dẫn đến những hiểu lầm. Cho nên, trong thực tế giao tiếp, đại bộ phận các phát ngôn được xem như là đồng thời có thể tiềm tàng thực hiện một số hành động. Hành động ngôn từ gián tiếp là hành động có hình thức là một hành động ngôn từ loại này nhưng lại có đích ngôn trung của một hành động khác. Nói khác đi, đó là vấn đề của điều nói ra (what is said) và điều hàm nghĩa (what is meant). Hành động ngôn từ gián tiếp đã được Austin nói đến và được Searle nghiên cứu kĩ. Đó là một trong những phương thức tạo ra tính mơ hồ về nghĩa trong lời nói. 16 Việc sử dụng và nhận diện hành động ngôn từ gián tiếp là kết quả của một quá trình hai chiều: tạo lập và tiếp nhận. Tạo lập là quá trình thuộc về người nói, là mong muốn, mục đích thực sự của họ khi thực hiện một hành động ngôn từ. Tiếp nhận là quá trình thuộc về người nghe, là khả năng có thể thuyết giải được điều mình nghe được ở mức độ như thế nào. Trong những nghiên cứu có tính chất khai sáng của mình, Austin và Searle dường như đã quá chú tâm đến ý định của người nói mà quên mất đi vai trò của người nghe. Vì giao tiếp là một quá trình hai chiều, trong đó mức độ tương tác giữa người nói và người nghe giữ một vai trò rất lớn trong cả quá trình này nên nếu chỉ quan tâm đến một chiều của người nói thì không thể tránh khỏi những cách nhìn phiến diện. Hành động ngôn từ gián tiếp phụ thuộc rất mạnh vào ngữ cảnh. Chẳng hạn, một cậu học sinh nói với thầy giáo: Em hứa với thầy từ lần sau em không đi học muộn nữa là một lời hứa tường minh xong cũng được xem là một lời xin lỗi gián tiếp trong ngữ cảnh người nói đã vi phạm một lỗi lầm về mặt thời gian và cậu ta đã nhận thức đồng thời mong muốn được khắc phục lỗi lầm đó của mình. Chính do sự phức tạp trong việc thuyết giải lực ngôn trung của phát ngôn nên muốn nhận biết được chính xác hành động ngôn từ gián tiếp thì phải nhận biết và hiểu đích ngôn trung của hành động trực tiếp. Mặt khác, cần phải xét đến cơ chế vận hành của hành động gián tiếp, cụ thể là những điều kiện cần và đủ (các quy tắc). Nếu một phát ngôn thoả mãn đầy đủ tất cả các điều kiện đặt ra cho một hành động ngôn từ thì phải xem nó là sự thể hiện của hành động đó, dù rằng về hình thức bề mặt, nó thuộc về một kiểu hành động ngôn từ khác. Tính phức tạp và mơ hồ của hành động ngôn từ gián tiếp vừa là một gợi mở nhưng đồng thời cũng là một thách thức không nhỏ đối với những người nghiên cứu về hành động ngôn từ. 17 1.1.2. Hành động ngôn từ xin lỗi 1.1.2.1. Các nghiên cứu đi trước về hành động ngôn từ xin lỗi Các nhà ngữ dụng học thời kì đầu như Austin hay Searle, dù không tập trung phân tích lời xin lỗi, nhưng đã cố gắng sắp đặt hành động này vào những phạm trù nhất định trong bảng phân loại các hành động ngôn từ của mình. Xin lỗi được Austin (1962) xếp vào nhóm hành động ứng xử (behabitives) cùng với các hành động khác như chúc mừng, cảm ơn, chia buồn... Đó được xem là các hành vi mang tính xã hội, biểu thị những phản ứng của chủ ngôn với các hành động và vận mệnh của người khác. Còn Searle (1975) lại xếp xin lỗi vào nhóm hành động mà tác giả gọi là bày tỏ (expressives). Đây là hành động biểu thị thái độ tới người nghe trước một sự kiện mà người nói thừa nhận có phần liên quan, và chúng thường là nhằm để thoả mãn những chờ đợi mang tính xã hội nào đó. Các nghiên cứu chuyên sâu về hành động xin lỗi của các nhà ngôn ngữ sau đó đã tập trung chú ý nhiều hơn đến chức năng của hành động này. Xin lỗi được Goffman (1971) xem như là một kiểu hoạt động sửa chữa, một thành tố trong một cặp thoại sửa chữa (remedy exchange). Nó liên quan đến việc phân chia bản thân người nói thành hai phần, đầu tiên là nhận thức rõ về việc xúc phạm người nhận; kế đó, người xin lỗi sẽ hướng mình đến người nhận và đến chuẩn mực bị vi phạm. Tiếp thu tinh thần này, Holmes (1995:155) cho rằng: “xin lỗi là một hành động ngôn từ hướng tới những nhu cầu thể diện của B và nhằm cứu vãn một lỗi lầm mà A có trách nhiệm trong đó, và do đó để khôi phục sự cân bằng giữa A và B”. Fraser (1981) cho rằng một lời xin lỗi phải thể hiện được hai mục đích. Thứ nhất, nó truyền đạt sự thừa nhận những trách nhiệm của người xin lỗi về sự việc xúc phạm, đồng thời, nó phải thể hiện sự hối tiếc của người xin lỗi về sự việc đó. Hai mục đích này phải song hành với nhau, thiếu đi một mục đích, đó sẽ không phải là lời xin lỗi nữa. 18 Theo Edmondson và House (1981)1, hành động xin lỗi có mục tiêu chính là “đặt mọi thứ đúng chỗ”. Người xin lỗi phải làm cho người mà mình đã xúc phạm hiểu rằng họ thực sự cảm thấy lấy làm tiếc về những gì đã thực hiện. Việc nói ra lời xin lỗi có tính chất nâng đỡ người nhận rất lớn và thường đi kèm với điều đó là sự tự hạ thấp mình. Olshtain và Cohen (1983) nhận định rằng xin lỗi là một hành động ngôn từ được đưa ra khi các chuẩn mực xã hội đã bị vi phạm. Sự vi phạm chuẩn mực đó có thể là hiện thực hay tiềm tàng. Blum-Kulka và Olshtain (1984) nhấn mạnh rằng xin lỗi là một hành động hậu sự kiện (post-event theo thuật ngữ của Leech) nghĩa là nó biểu hiện rằng một kiểu sự kiện nào đó đã diễn ra hoặc đã nằm trong dự liệu của người nói. Mặt khác, người nói nhận ra rằng đã có một sự xâm phạm vào chuẩn mực xã hội và người nói ít nhiều liên đới đến nguyên nhân của nó. Trosborg (1987) đặt hành động xin lỗi trong một cặp thoại gọi là than phiền – xin lỗi. Trong cặp thoại này, có ba vai liên quan là người than phiền (Complainer), người bị than phiền (Complainee) hoặc người xin lỗi (Apologiser) và sự kiện than phiền (Complainable - tức là lỗi lầm được nói đến). Trosborg phân biệt rõ ràng việc giữa người bị than phiền và người xin lỗi. Nếu trong tình huống than phiền – xin lỗi, chủ thể không nhận thức được trách nhiệm và không cất lời xin lỗi, họ được xem là người bị than phiền. Ngược lại, nếu chủ thể nhận thức được trách nhiệm và cất lời xin lỗi, họ sẽ là người xin lỗi. Theo Trosborg, khi nhận một lời than phiền, chủ thể cảm thấy rằng năng lực xã hội của mình bị thách thức. Do vậy, lời hồi đáp của họ nhắm đến hai mục đích: phải làm dịu người than phiền nhằm khôi phục sự hài hoà xã hội và phải khôi phục địa vị xã hội của chính mình. Tác giả chỉ ra rằng hai mục đích này mâu thuẫn nhau. Hệ quả là, một lời than phiền không phải lúc nào cũng theo sau bởi một lời xin lỗi. Đến lượt nó, người tiếp nhận một lời 1 Dẫn theo Trosborg (1987) 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan