Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại n...

Tài liệu Hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng ngoại thương hải phòng

.DOC
99
124
143

Mô tả:

LỜI NÓI ĐẦU Sau hơn mười năm đổi mới nền kinh tế nước ta đang khởi sắc và thu được những thành tựu đáng kể. Từ nền kinh tế khép kín chuyển sang nền kinh tế mở với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế Việt Nam đã và đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Với chính sách đối ngoại mềm dẻo đã thu hút được lượng vốn đầu tư lớn từ nước ngoài tận dụng thế mạnh trong nước.Thực tế đã chứng minh không một quốc gia nào phát triển trong sự tách biệt với thế giới bên ngoài. Sự giao lưu buôn bán giữa các nước là một xu hướng tất yếu quốc tế hoá nền kinh tế. Sự phát triển của thương mại quốc tế như là chất keo dính gắn kết các quốc gia lại với nhau trong sự phát triển thống nhất cuả nó. Thương mại quốc tế ngày nay đã vượt qua không gian thời gian tạo những luồng dịch chuyển hàng hoá, tiền tệ để cân bằng cung cầu. Thanh toán quốc tế là khâu cuối cùng quan trọng nhất quyết định hiệu quả của quá trình trao đổi. Nó là mắt xích không thể thiếu trong cỗ máy thương mại quốc tế. Với nhiều hình thức thanh toán đa dạng phù hợp với từng giai đoạn phát triển và tình hình cụ thể. Ngày nay phương thức thanh toán thư tín dụng đang được sử dụng phổ biến. Trong chu trình thanh toán ấy ngân hàng thương mại đóng vai trò là trung gian thanh toán hộ. Ngân hàng thương mại là chất xúc tác giúp quá trình thanh toán diễn ra nhanh chóng, hiệu quả. Nó là chất dầu bôi trơn cỗ máy thanh toán quốc tế hoạt động nhịp nhàng và không mệt mỏi. Là một ngân hàng thương mại quốc doanh phục vụ đối ngoại có uy tín nhất trên điạ bàn thành phố Hải Phòng, chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hải Phòng luôn được biết đến trong lĩnh vực tài trợ ngoại thương, thanh toán xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại hối, bảo lãnh ngân hàng.... Hội nhập vào nền kinh tế thế giới, các mối giao lưu thương mại ngày càng mở rộng đòi hỏi các ngân hàng thương mại Việt Nam phải phát triển các dịch vụ của mình đặc biệt là thanh toán xuất nhập khẩu. Từ thực trạng không ít rủi ro đã xảy ra gây thiệt hại cả về tài chính và uy tín của ngân hàng trong thanh toán quốc tế đặc 1 biệt là thanh toán thư tín dụng. Vì thế nghiên cứu phòng tránh rủi ro để nâng cao hiệu quả trong thanh toán thư tín dụng đã trở thành mối quan tâm xuyên suốt quá trình hoàn thiện và phát triển của mỗi ngân hàng vì mục tiêu an toàn và lợi nhuận. Qua thời gian thực tập ở ngân hàng Ngoại thương Hải Phòng em đã nghiên cứu và mong muốn góp phần nhỏ bé của mình nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán L/C nói riêng nên em chọn đề tài: “Giải pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng Ngoại thương Hải Phòng” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Chương II:Cơ sở lý luận về rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Thực trạng rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng Ngoại thương Hải Phòng. Chương III: Giải pháp hạn rủi ro trong thanh toán thư tín dụng tại ngân hàng Ngoại thương Hải Phòng. Do những hạn chế về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, thời gian thực tập không nhiều nên chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý của thầy cô cũng như các bạn quan tâm đến vấn đề này. Để hoàn thiện chuyên đề em xin chân thành cảm ơn thầy giáo: thạc sỹ Trần Đăng Khâm, các thầy cô trong khoa và các cán bộ của ngân hàng Ngoại thương Hải Phòng đã giúp em hoàn thành chuyên đề này. 2 CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ 1.1.BẢN CHẤT CỦA THANH TOÁN QUỐC TẾ Cùng với xu hướng toàn cầu hoá, thương mại quốc tế ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Mỗi quốc gia đều có đặc điểm riêng về tự nhiên, kinh tế, xã hội tạo nên lợi thế tương đối của quốc gia đó trong việc xuất khẩu hàng hoá.Do đó phân công lao động quốc tế ra đời một cách khách quan và ngày càng sâu sắc. Điều đó đòi hỏi các nước phải tham gia vào quá trình hợp tác và trao đổi quốc tế. Thanh toán quốc tế là khâu không thể thiếu được trong thương mại quốc tế. Thanh toán quốc tế quốc tế thực hiện tốt là cơ sở thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển. Thanh toán trong nội bộ quốc gia đã phức tạp, thanh toán quốc tế còn khó khăn hơn rất nhiều do ảnh hưởng của các yếu tố tiền tệ, tín dụng, sự khác biệt về ngôn ngữ, tập quán... Chính vì vậy, khi nền kinh tế thị trường phát triển thì thanh toán quốc tế sẽ ngày càng phức tạp, điều đó đòi hỏi các ngân hàng thương mại cũng như các bên tham gia phải hiểu rõ bản chất của thanh toán quốc tế, đồng thời tuân thủ một cách nghiêm túc trên nguyên tắc “bình đẳng - cùng có lợi”. Như vậy, thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả về tiền tệ phát sinh từ quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức kinh tế quốc tế, giữa các hãng, các cá nhân của các nước khác nhau để thúc đẩy một chu trình hoạt động trong 3 lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại ngân hàng.... 1.2.VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ Thương mại quốc tế đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử phát triển kinh tế của loài người. Từ thế kỷ thứ V, ở Châu Âu đã hình thành những đội buôn bán lớn vận chuyển hàng hoá giữa các lục địa. Ở Châu Á, “con đường tơ lụa” nổi tiếng đã góp phần không nhỏ vào sự giao lưu kinh tế, văn hoá giữa phương Đông và phương Tây. Tuy nhiên, với điều kiện bấy giờ việc trao đổi mua bán trên phạm vi quốc tế một mặt có thể đem lại khoản lợi nhuận lớn, mặt khác có thể gây ra những tổn thất đáng kể do cướp bóc. Một trong những điều phiền toái nhất đối với các thương nhân là việc thanh toán. Chính tại thời điểm này nghiệp vụ thanh toán hộ của ngân hàng ra đời. Những ngân hàng có quan hệ chặt chẽ với nhau sẽ đứng ra thanh toán cho khách hàng của mình dựa trên các chứng từ do thương nhân xuất trình. Ngày nay, các ngân hàng không chỉ làm nhiệm vụ thanh toán hộ cho khách hàng của mình mà còn đóng vai trò là nhà tư vấn, giám sát, bảo vệ. Hoạt động ngoại thương cần đến sự can thiệp trợ giúp về kỹ thuật và tài chính của ngân hàng. Trong nền kinh tế, ngân hàng thương mại đóng vai trò là trung gian tài chính. Nó cung cấp các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế, đứng ra làm trung gian thanh toán giữa các doanh nghiệp. Thông qua đó, ngân hàng có thể giám sát được các hoạt động thu chi của doanh nghiệp, kiểm soát được các giao dịch, thanh toán của các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất, kiểm soát được các chiến dịch rửa tiền... nhằm ngăn chặn các hoạt động phi pháp trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ. 4 Trong thanh toán quốc tế, ngân hàng thương mại có vai trò hết sức quan trọng, là người bạn đáng tin cậy của các nhà xuất nhập khẩu. Nó đem lại sự trợ giúp đa dạng cho khách hàng, giúp họ đảm bảo lợi nhuận đồng thời hạn chế rủi ro. Vai trò của ngân hàng thương mại trong thanh toán quốc tế là điều kiện đảm bảo an toàn cho các bên tham gia hoạt động xuất nhập khẩu, là chất xúc tác cho thương mại quốc tế phát triển. 1.3 CÁC PHƯƠNG THỨC CHỦ YẾU TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ Phương thức thanh toán quốc tế là toàn bộ quá trình, cách thức nhận trả tiền trong giao dịch, mua bán ngoại thương giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu. Mỗi phương thức thanh toán đều có ưu điểm và nhược điểm khác nhau. Vì vậy việc lựa chọn phương thức thanh toán thích hợp phải được hai bên thoả thuận bàn bạc và ghi vào hợp đồng mua bán ngoại thương. Việc lựa chọn phương thức thanh toán nào cũng phải xuất phát từ người mua là nhập hàng đúng số lượng, chất lượng và đúng thời hạn, từ yêu cầu của người bán là thu hồi tiền nhanh và đầy đủ. Tại ngân hàng thương mại các phương thức thanh toán được sử dụng chủ yếu gồm. 1.3.1. PHƯƠNG THỨC GHI SỔ (OPEN ACCOUNT) Đây là phương thức thanh toán mà qua đó đơn vị xuất khẩu khi cung ứng hàng hoá dịch vụ thì ghi nợ cho bên nhập khẩu vào một cuốn sổ riêng của mình và việc thanh toán các khoản nợ này được thực hiện trong từng thời kỳ nhất định. Phương thức này ngân hàng không tham gia là người mở tài khoản và thực thi thanh toán. 5 - Ưu điểm: Phương thức này có lợi cho người mua bởi người mua có thể mua chịu hàng và chỉ thanh toán thường xuyên trong một thời kỳ nhất địng (6 tháng, 1 năm). - Nhược điểm: Phương thức này chỉ áp dụng trong không gian hẹp là thanh toán nội địa và người mua, người bán thực sự tin cậy nhau. 1.3.2. PHƯƠNG THỨC CHUYỂN TIỀN (REMITTANCE) Đây là phương thức thanh toán mà trong đó khách hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho người khác (người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền mà khách hàng yêu cầu. Các phương tiện này là Séc, Điện vàThư. - Ưu điểm: Là phương tiện thanh toán đơn giản, thuận tiện, thanh toán trực tiếp giữa bên mua và bên bán, ngân hàng chỉ giữ vai trò trung gian. - Nhược điểm: Việc thanh toán dựa vào thiện chí của người mua, do đó bên bán dễ bị bên mua chiếm dụng vốn trong thanh toán. Phương thức chuyển tiền thường được sử dụng trong việc thu phí mậu dịch, các chi phí liên quan đến xuất nhập khẩu như phí vận chuyển, bảo hiểm... 1.3.3 PHƯƠNG THỨC NHỜ THU (COLLECTION OF PAYMENT) Đây là phương thức thanh toán trong đó người bán sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, hoặc cung ứng dịch vụ cho khách hàng thì tiến hành uỷ thác cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền ở người mua trên cơ sở hối phiếu mà người bán lập ra. Phương thức nhờ thu bao gồm: 6 - Nhờ thu phiếu trơn (clean collection): là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, còn chứng từ gửi hàng thì gửi thẳng cho khách hàng không qua ngân hàng. Phương thức này chỉ áp dụng khi người bán và người mua phải tin cậy lẫn nhau hoặc có quan hệ công ty mẹ - công ty con hoặc là chi nhánh của nhau, việc thanh toán chi phí có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá. Nhược điểm của phương thức này là không đảm bảo quyền lợi cho người bán vì việc thanh toán tách rời khỏi việc nhận hàng vì vậy người mua có thể nhận hàng mà không chịu thanh toán hoặc thanh toán chậm trễ. Trường hợp hối phiếu đến sớm hơn chứng từ người bán phải trả tiền ngay trong khi không biết việc giao hàng có đúng hợp đồng không. - Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary collection) : là phương thức thanh toán trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu và bộ chứng từ gửi hàng. Ngân hàng chỉ giao bộ chứng từ cho người mua với điều kiện người mua trả tiền hối phiếu hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu. Tuỳ theo điều kiện trả tiền mà phương thức này chia làm hai loại: + Nhờ thu trả tiền đổi chứng từ (Documentary against payment-D/P) phương thức này chỉ sử dụng khi người bán trả tiền ngay. + Nhờ thu chấp nhận đổi chứng từ (Documentary against acceptance- D/A) phương thức này chỉ áp dụng trong trường hợp mua chịu. So với trường hợp nhờ thu phiếu trơn phương thưc này đảm bảo hơn vì ngân hàng thay mặt cho người bán khống chế bộ chứng 7 từ. Tuy nhiên ngân hàng chỉ có trách nhiệm là trung gian thu hộ tiền mà không có trách nhiệm gì về việc trả tiền của người mua cũng như kiểm tra bộ chứng từ. Phương thức này chỉ áp dụng trong trường hợp hàng bán lần đầu, hàng ứ đọng, khó tiêu thụ, thu cước phí vận tải... 1.3.4.PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ (LETTER CREDIT) Đây là phương thức thanh toán quốc tế được sử dụng phổ biến nhất hiện nay. Với những đặc điểm của phương thức thanh toán này nó bảo vệ được quyền lợi của cả người mua lẫn người bán. Nội dung của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ được thực hiện theo “quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ - UCP do phòng thương mại quốc tế ban hành -ICC”. Trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ ngân hàng không những là trung gian thu hộ và chi hộ mà còn là người đại diện cho nhà nhập khẩu thanh toán cho bên xuất khẩu. Việc đảm bảo quyền lợi cho cả nhà nhập khẩu lẫn xuất khẩu trong quan hệ thương mại đòi hỏi phải nắm vững các nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ. 2.PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ 2.1.KHÁI NIỆM CỦA TÍN DỤNG CHỨNG TỪ Tuỳ theo thói quen và thông lệ của từng nước mà tín dụng chứng từ được gọi với nhiều tên khác nhau như: L/C, tín dụng chứng từ,thư tín dụng tín dụng thư, tín dụng thương mại, thư tín dụng thương mại... Đến nay từ thông dụng nhất là “tín dụng chứng từ” (Documentary credit) vì nó thể hiện đúng nhất ý nghĩa tín dụng kèm chứng từ. 8 Trong phạm vi của bản điều lệ UCP 500 thuật ngữ “tín dụng chứng từ ”, “thư tín dụng dự phòng”, có nghĩa là bất cứ một sự thoả thuận nào, dù cho có được, hoặc mô tả như thế nào mà theo đó một ngân hàng (ngân hàng phát hành) hoạt động theo yêu cầu và theo chỉ thị của một khách hành (người yêu cầu phát hành thư tín dụng) hoặc nhân danh chính mình: - Thanh toán tiền theo lệnh của một người thứ ba (người hưởng lợi) hoặc phải chấp nhận và trả tiền cho các hối phiếu do người hưởng lợi ký phát. - Uỷ quyền cho một ngân hàng khác tiến hành thanh toán hoặc chấp nhận trả tiền các hối phiếu đó. - Uỷ quyền cho một ngân hàng khác đến chiết khấu khi các chứng từ quy định được xuất trình phù hợp với các điều khoản, điều lệ của thư tín dụng. Như vậy phương thức tín dụng chứng từ là một cam kết thanh toán có điều luật của ngân hàng (ngân hàng mở L/C - issuing bank) cho người bán hàng (người hưởng lợi - beneficiary) Theo yêu cầu của người mua (applicant) để trả ngay hoặc đợi tới mội thời điểm xác định trong phạm vi thời hạn đã xác định và căn cứ vào các chứng từ đã quy định phù hợp với các điều luật của L/C. 2.2.CÁC BÊN THAM GIA THANH TOÁN - Người xin mở thư tín dụng (the applicant for the credit): là người mua,người nhập khẩu hàng hoá, người mở thư tín dụng. - Ngân hàng mở thư tín dụng (issuing bank) là ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu còn gọi là ngân hàng phát hành. 9 - Người hưởng lợi (beneficiary) là người bán, người xuất khẩu hay bất cứ người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định. - Ngân hàng thông báo (advising bank) là ngân hàng được ngân hàng phát hành yêu cầu thông báo cho nhà xuất khẩu về việc mở thư tín dụng. Ngoài ra còn có thể cho một số ngân hàng khác tham gia vào phương thức thanh toán này như: - Ngân hàng xác nhận (confirming bank) là ngân hàng nhận trách nhiệm thanh toán cuối cùng nếu ngân hàng phát hành không thể thanh toán chứng từ phù hợp với điều khoản của L/C. Ngân hàng xác nhận có thể vừa là ngân hàng thông báo L/C hay là một ngân hàng khác do bên xuất khẩu yêu cầu. - Ngân hàng được chỉ định (nominated bank) là ngân hàng được ngân hàng phát hành chỉ định để thực hiện việc thương lượng, chiết khấu hay thanh toán L/C. Lúc đó ngân hàng đóng vai trò là ngân hàng chiết khấu (negotiating bank) hoặc ngân hàng thanh toán (paying bank). - Ngân hàng hoàn trả (reimbursing bank) là một ngân hàng được ngân hàng mở L/C hoặc ngân hàng xác nhận chỉ định thay mình trả tiền. - Ngân hàng chiết khấu (negotiating bank) là ngân hàng được ngân hàng được ngân hàng mở L/C cho phép đứng ra mua hối phiếu hay thương lượng chứng từ do người bán ký phát cho ngân hàng.Tuỳ theo quy định của L/C mà ngân hàng chiết khấu thường là ngân hàng thông báo hoặc là ngân hàng thứ ba nào đó do ngân hàng mở L/C quy định. 10 - Người được chuyển nhượng là người nhận các quyền và nghĩa vụ do người hưởng lợi chuyển. Trong thực tế nghiệp vụ tín dụng chứng từ không nhất thiết phải có các bên như đã nêu ở trên. 11 2.3.QUY TRÌNH NGHIỆP VỤ THANH TOÁN THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ. (2) Ngân hàng mở thư tín dụng (6) Ngân hàng thông báo thư (2) tín dụng (7) (1) (9) (10) (8) (3) (5) Người xuất khẩu (người hưởng lợi) Người nhập khẩu (người mở L/C) (4) Trình tự tiến hành (1) Người nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng phục vụ mình yêu cầu mở thư tín dụng cho nhà xuất khẩu hưởng. - Hai bên mua bán có sự thống thất về các điều khoản của thư tín dụng, bao gồm thanh toán phí ngân hàng và phương thức gửi thư tín dụng cho người hưởng. - Hai bên thống nhất về các yêu cầu của người hưởng về ngân hàng mở thư tín dụng, ngân hàng thông báo, ngân hàng xác nhận, ngân hàng thương lượng, ngân hàng thanh toán (nếu có). 12 (2) Ngân hàng sẽ lập một thư tín dụng và thông qua ngân hàng của mình ở nước người nhập khẩu thông báo về việc mở thư tín dụng và thư tín dụng đến người xuất khẩu. (3) Khi nhận được thông báo này, ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung thông báo về việc mở thư tín dụng và khi nhận được bản gốc thư tín dụng thì chuyển ngay cho người xuất khẩu sau khi đã kiểm tra tính chân thực của thư tín dụng. (4) Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụngthì tiến hành giao hàng, nếu có điều khoản nào đó trong thư tín dụng chưa thoả mãn thì tiến hành đề nghị ngân hàng mở thư tín dụng và nhà nhập khẩu sửa đổi, bổ xung thư tín dụng cho phù hợp hợp đồng. (5) Sau khi giao hàng người xuất khẩu tiến hành lập bộ chứng từ thanh toán theo yêu cầu của thư tín dụng, xuất trình thông qua ngân hàng thông báo hoặc một ngân hàng nào đó được chỉ định trong thư tín dụngđể yêu cầu thương luợng, chiết khấu hay gửi chứng từ cho ngân hàng mở thư tín dụng. (6) Ngân hàng này sẽ kiểm tra chứng từ, làm thủ tục đòi tiền theo chỉ thị của thư tín dụng và gửi chứng từ cho ngân hàng mở thư tín dụng. (7) Ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra bộ chứng từ và trong vòng 7 ngày kể từ ngày nhận chứng từ phải thông báo cho ngân hàng thông báo (hoặc ngân hàng được chỉ định) về việc chấp nhận thanh toán hay không. Nếu chứng từ phù hợp với thư tín dụng thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu. Nếu chứng từ không phù hợp ngân hàng từ chối thanh toán và trả toàn bộ chứng từ cho người nhập khẩu. 13 (8) Ngân hàng thông báo (hoặc ngân hàng được chỉ định) tiến hành thanh toán cho người xuất khẩu hoặc trả lại bộ chứng từ cho người xuất khẩu. (9) Ngân hàng mở thư tín dụng đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ hàng hoá cho người nhập khẩu chỉ sau khi người nhập khẩu thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. (10) Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền cho ngân hàng mở thư tín dụng theo thoả thuận hoàn trả đã kí, nếu không phù hợp có quyền từ chối trả tiền. 2.4.CÁC LOẠI THƯ TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI 2.4.1. Thư tín dụng không thể huỷ bỏ (irrevocable letter of credit) - Là loại thư tín dụng sau khi được mở thì ngân hàng mở L/C không được sửa đổi, bổ sung, hoặc huỷ bỏ trong thời gian hiệu lực của nó, trừ khi có sự thoả thuận của tất cả các bên tham gia giao dịch. - Một L/C không ghi IRREVOCABLE thì vẫn được coi là không huỷ bỏ được. Thư tín dụng không thể huỷ bỏ được áp dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế. 2.4.2.Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận (Confirmed irrevocable letter of credit) - Là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ, được một ngân hàng khác đảm bảo trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở L/C. - Nếu người hưởng lợi không tin tưởng vào khả năng tài chính của ngân hàng mở L/C thì có quyền yêu cầu ngân hàng khác đứng ra xác nhận, đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng mở L/C. 14 2.4.3. Thư tín dụng không thể huỷ ngang miễn truy đòi (irrevocable without recource letter of credit) - Là loại thư tín dụng mà sau khi nhà xuất khẩu đã được trả tiền thì ngân hàng mở L/C không có quyền đòi lại trong bất cứ trường hợp nào. - Khi dùng loại L/C này người xuất khẩu phải ghi lên hối phiếu miễn truy đồi người ký phát và trong L/C cũng phải ghi như vậy. L/C miễn truy đòi được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế. 2.4.4. Thư tín dụng giáp lưng (Back to Back lettet of credit) Loại L/C thường được nhà xuất khẩu áp dụng để thanh toán tiền hàng cho nhà cung cấp hàng cho mình để xuất khẩu. Trong trường hợp này, người xuất khẩu dùng L/C do nhà nhập khẩu mở để thế chấp mở một L/C cho người hưởng lợi khác với nội dung gần giống nội dung như L/C ban đầu, L/C mở lần sau gọi là L/C giáp lưng. Về cơ bản L/C gốc và L/C giáp lưng giống nhau nhưng có một số điểm khác nhau. Người thụ hưởng (người xuất khẩu) L/C gốc lại là người xin mở L/C giáp lưng. Số chứng từ của L/C giáp lưng phải nhiều hơn L/C gốc. Kim ngạch L/C giáp lưng phải nhỏ hơn L/C gốc, khoản chênh lệch này do người trung gian hưởng dùng để trả tiền chi phí mở L/C giáp lưng và phần hoa hồng của họ. 2.4.5. Thư tín dụng ứng trước điều khoản đỏ (Advanced letter of credit, Red clause letter of credit) 15 Loại thư tín dụng này gọi là điều khoản đỏ, vì điều khoản ban đầu được viết bằng mực đỏ để lưu ý tính chất riêng biệt của loại thư tín dụng này. Theo nguyên tắc của thư tín dụng ứng trước và theo yêu cầu của người mở L/C, ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận phải ứng trước tiền cho người thụ hưởng trước khi họ xuất trình các chứng từ hợp lệ trong thời hạn ấn định. Thông thường ngân hàng phục vụ người thụ hưởng đứng ra bồi hoàn khoản tiền ứng trước này. 2.4.6. Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving letter of credit) Thư tín dụng tuần hoàn là loại L/C không thể huỷ bỏ, sau khi sử dụng xong đã hết hiệu lực thì nó lại tự động có giá trị như cũ cứ như thế nó tuần hoàn cho đến khi nào tổng giá trị hợp đồng được thực hiện. Thư tín dụng tuần hoàn cần ghi ngày hết hạn hiệu lực cuối cùng, số lần tuần hoàn và giá trị tối thiểu của mỗi lần đó. 2.4.7. Thư tín dụng dự phòng (Stand by letter of credit) Là loại L/C quy định việc hoàn lại số tiền của thư tín dụng trong trường hợp nhà xuất khẩu không thực hiện đúng các quy định như trong thư tín dụng đó. Người mở L/C dự phòng là nhà xuất khẩu, ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu là ngân hàng phát hành L/C dự phòng. L/C dự phòng được sử dụng như một phương thức bảo đảm hợp đồng. 2.4.8. Thư tín dụng chuyển nhượng (Transferable letter of credit) Là loại L/C không được huỷ bỏ và quy định quyền được chuyển nhượng toàn bộ hay một phần số tiền của L/C cho một hay nhiều người theo lệnh của người hưởng lợi đầu tiên. 16 Thư tín dụng chuyển nhượng phải ghi chú “chuyển nhượng” và chỉ được phép chuyển nhượng một lần. Người được chuyển nhượng có thể ở trong nước hay nước ngoài. Chi phí chuyển nhượng do người ra lệnh chuyển nhượng chịu. Việc chuyển nhưọng L/C không có nghĩa là hợp đồng mua bán cũng được chuyển nhượng. 2.4.9. Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal letter of credit) Trong phương thức mua bán hàng đổi hàng, hai bên phải ký với nhau một hợp đồng mua bán có tổng giá trị hàng hoá trao đổi với nhau bằng nhau. Mục đích của trao đổi hàng đổi hàng là giá trị sử dụng của hàng chứ không phải là tiền tệ mặc dù phần chênh lệch có thể được thanh toán bằng tiền. Do không thể loại trừ khả năng rủi ro khi một trong hai bên không thực hiện hợp đồng. Vì vậy hai bên thống nhất sử dụng thư tín dụng đối ứng cho nhau hưởng. L/C đối ứng là loại L/C chỉ có hiệu lực khi L/C đối ứng với nó được mở. 2.5 ƯU NHƯỢC ĐIỂM CỦA THANH TOÁN THƯ TÍN DỤNG Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán quốc tế được sử dụng ngày càng nhiều do những thuận lợi mà nó mang lại cho cả người mua và người bán. Tuy nhiên không có phương thức thanh toán nào là hoàn hảo cả, thanh toán thư tín dụng vẫn còn tồn tại một số nhược điểm. Sau đây là các ưu nhược điểm của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ: 2.5.1. Đối với người bán Đảm bảo việc thanh toán vì có ngân hàng mở đứng ra cam kết, việc thanh toán không còn phụ thuộc vào thiện chí của người mua. 17 Được ngân hàng khống chế bộ chứng từ không sợ mất quyền sở hữu về hàng hoá hay tốn chi phí vận chuyển hàng nếu làm đúng yêu cầu của thư tín dụng. Tuy nhiên nhà xuất khẩu phải lựa chọn loại thư tín dụng nào đảm bảo quyền lợi của mình nhiều nhất, đồng thời phải kiểm tra kỹ các điều khoản trong L/C có phù hợp với hợp đồng đã thoả thoả thuận hay khôngvà khả năng của mình có đáp ứng được các yêu cầu thoả thuận hay không, để đảm bảo lập bộ chứng từ phù hợp với L/C. Nhà xuất khẩu có thể nhận được tài trợ xuất khẩu của ngân hàng. 2.5.2. Đối với người mua Có thể tận dụng đựoc tín dụng của ngân hàng, đó là điều thiết yếu trong kinh doanh quốc tế vì với khoảng cách vận chuyển xa thì sẽ bị đọng vốn nếu phải ký quỹ toàn bộ giá trị của L/C. Được ngân hàng kiểm tra giúp bộ chứng từ. Đảm bảo được hàng hoá mà mình ký hợp đồng đúng số lượng và chất lượng, thời hạn giao hàng v.v... Tuy nhiên người mua phải thận trọng khi làm đơn xin mở L/C, phải đưa ra những điều kiện vừa để cho người bán có thể thực hiện được vừa phải đảm bảo được quyền lợi của mình. Ngoài ra không tránh được trường hợp người mua bị người bán gian lận lập bộ chứng từ khống để thanh toán. 2.5.3. Đối với ngân hàng Mở rộng nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng tăng thu nhập, nâng cao trình độ nghiệp vụ của các bộ ngân hàng. 18 Thông qua nghiệp vụ của ngân hàng sẽ góp phần giúp đỡ các khách hành xuất nhập khẩu của mình đồng thời thúc đẩy quá trình thanh toán quốc tế được phát triển. Tuy nhiên trong phương thức thanh toán L/C, ngân hàng chỉ có thể khống chế về mặt hình thức chứng từ, mà không thể kiểm soát được tính chất pháp lý hay tính chân thực của các loại chứng từ đó. Hơn nữa việc thanh toán diễn ra tương đối phức tạp bởi sự tham gia của nhiều bên, quá trình thanh toán tỷ mỉ và máy móc. Tóm lại phương thức thanh toán tín dụng chứng từ đảm bảo được quyền lợi của người bán, mua trong quá trình hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và nâng cao vai trò của ngân hàng trong hoạt động thanh toán quốc tế. 3. RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ 3.1 KHÁI NIỆM VỀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Có rất nhiều quan niệm về rủi ro như: “rủi ro là những bất trắc gây ra mất mát, thiệt hại”, “rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện một biến cố không mong đợi...”. Nhưng nói chung mọi quan điểm đều thống nhất “rủi ro là những biến cố xảy ra ngoài ý muốn, sự hiểu biết, dự tính của chủ thể và đem lại những hậu quả xấu” rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong mọi lĩnh vực của đời sống nhất là trong lĩnh vực ngân hàng. Lý luận và thực tiễn đã minh chứng rằng rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng là nhiều nhất, nó xảy ra theo nhiều hình thức, cường độ khác nhau do các nguyên nhân sau: 19 + Thứ nhất: tiền là nguyên liệu chính tạo ra sản phẩm của ngân hàng, một thứ nguyên liệu độc tôn không thể thay thế. Nguyên liệu này chịu tác động của nhiều nhân tố như kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, chiến tranh, thiên tai...Khi một trong các yếu tố này thay đổi thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng thay đổi theo. + Thứ hai: ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính có chức năng chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn, thoả mãn nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. Chính vì vậy ngân hàng phải đảm bảo trả đủ lãi và gốc cho người gửi tiền khi đến hạn. Nếu ngân hàng không ước tính trước được nhu cầu rút tiền của người gửi tiền, thì một trong các biện pháp để hoàn trả gốc và lãi cho người gửi là thu hồi các món đã cho vay trước hạn và điều này khiến cho các khoản cho vay gặp phải rủi ro, nhiều khách hàng không trả được nợ cho ngân hàng. + Thứ ba: ngân hàng là tổ chức kinh tế chịu sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo hành lang hẹp. Nhà nước can thiệp vĩ mô trong nền kinh tế thị trường. Trong ngành ngân hàng chịu sự quản lý hẹp hơn của Chính phủ thông qua các công cụ, chính sách của Nhà nước, những quy định, nghị định, pháp lệnh của Ngân hàng Nhà nước. Do vậy mỗi khi có sự điều chỉnh của Chính phủ hoặc Ngân hàng Nhà nước thì ngân hàng gặp không ít khó khăn thậm chí còn gánh chịu cả tổn thất trong hoạt động kinh doanh của mình. + Thứ tư: ngân hàng là tổ chức tài chính có quan hệ mật thiết với mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Bất kỳ một sự thay đổi nào của các thành phần kinh tế cũng tác động phản ứng dây truyền tới ngân hàng. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan