Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hạch toán tiền lương và trích các khoản theo tiền lương tại khách sạn dân chủ...

Tài liệu Hạch toán tiền lương và trích các khoản theo tiền lương tại khách sạn dân chủ

.PDF
89
348
126

Mô tả:

Hạch toán tiền lương và trích các khoản theo tiền lương tại khách sạn Dân chủ
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP BÙI THỊ KIM HOAN LỜI MỞ ĐẦU Trong môi trường cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao là một vấn đề phức tạp đòi hỏi các doanh nghiệp phải có các biện pháp quản lý phù hợp với sự biến đổi của thị trường cũng như tình hình thực tế của doanh nghiệp. Việc đưa ra một chế độ quản lý tiền lương phù hợp với điều kiện sản xuất của doanh nghiệp có một vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Bởi vì nếu doanh nghiệp làm tốt công tác này, Một mặt, doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí tiền lương và do đó hạ giá thành cho các dịch vụ của mình. Mặt khác, khi doanh nghiệp thực hiện tốt công tác tiền lương, đưa ra hình thức tiền lương hợp lý nhất và sát với tình hình thực tế của khách sạn, đúng với sự cống hiến của người lao động, công bằng và hợp lý giữa những người lao động trong doanh nghiệp, đảm bảo lợi ích của người lao động,… sẽ tạo ra động lực khuyến khích người lao động đem hết khả năng của mình, nỗ lực phấn đấu sáng tạo, quan tâm đến kết quả lao động của cá nhân, quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy nâng cao năng suất và chất lượng phục vụ chung của khách sạn. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác hạch toán tiền lương của khách sạn, Trong thời gian thực tập tại Khách sạn Dân chủ, em đã chọn đề tài “Hạch toán tiền lương và trích các khoản theo tiền lương tại khách sạn Dân chủ” làm đề tài cho chuyên đề thực tập của mình. Chuyên đề này được chia ra làm 03 phần như sau: Phần I: Lý luận chung về hạch toán tiền lương và trích các khoản theo tiền lương trong Doanh nghiệp Phần II: Thực trạng hạch toán tiền lương và trích các khoản theo tiền lương tại khách sạn Dân chủ Phần III: Phương hướng hoàn thiện hạch toán tiền lương và trích các khoản theo lương tại Khách sạn Dân chủ Trong quá trình làm chuyên đề, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình Thầy giáo Đặng Thế Hưng, cũng như đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của Ban Giám đốc và Phòng Kế toán khách sạn Dân chủ. Vì vậy, em xin được trân trọng cảm CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP BÙI THỊ KIM HOAN ơn Thầy giáo cùng Ban lãnh đạo và toàn thể CBCNV của Khách sạn Dân chủ đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP BÙI THỊ KIM HOAN PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ TRÍCH CÁC KHOẢN THEO TIỀN LƯƠNG TRONG DOANH NGHIỆP I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TIỀN LƯƠNG 1. Nguồn gốc, bản chất của tiền lương Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp đồng thời cũng là quá trình tiêu hao các yếu tố cơ bản (lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động). Trong đó, lao động với tư cách là hoạt động chân tay và trí óc của con người sử dụng các tư liệu lao động nhằm tác động, biến đổi các đối tượng lao động thành các vật phẩm có ích phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của mình. Để bảo đảm tiến hành liên tục quá trình tái sản xuất, trước hết cần phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động, nghĩa là sức lao động mà con người bỏ ra phải được bồi hoàn dưới dạng thù lao lao động mà ta vẫn gọi là tiền lương. Đối với chủ nghĩa tư bản, tiền lương là số tiền mà người công nhân nhận được sau một thời gian làm việc và hoàn thành một khối lượng sản phẩm nào đó. đây là hiện tượng bên ngoài, họ tưởng rằng tiền lương là giá cả của lao động. Song sự thật thì tiền lương không phải là giá trị hay giá cả của lao động. Vì lao động không phải là hàng hoá và không phải là đối tượng mua bán vì : -Thứ nhất: Nếu lao động là hàng hoá thì nó phải có trước, phải được vật hoá trong một hình thức cụ thể nào đó. Tiền đề để cho lao động “vật hoá” được là phải có tư liệu sản xuất. Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất thì họ sẽ bán hàng hoá do mình sản xuất chứ không bán “lao động”. -Thứ hai: việc thừa nhận lao động là hàng hoá dẫn tới một trong hai mâu thuẫn về lý luận sau đây: nếu lao động là hàng hoá được trao đổi ngang giá thì nhà tư bản không thu được lợi nhuận (giá trị thặng dư) điều này phủ nhận quy luật giá trị thặng dư. Còn nếu hàng hoá trao đổi không ngang giá để có giá trị thặng dư cho nhà tư bản, thì sẽ phủ nhận quy luật giá trị. -Thứ ba : Nếu lao động là hàng hoá thì hàng hoá đó cũng phải có giá trị. Nhưng thước đo nội tại của giá trị là lao động . Như vậy giá trị của lao động lại CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP BÙI THỊ KIM HOAN được đo bằng lao động. Đó là một điều luẩn quẩn vô lý. Do vậy lao động không phải là hàng hoá, cái mà người công nhân bán cho nhà tư bản chính là sức lao động. Do đó, tiền lương mà nhà tư bản trả cho công nhân là giá cả của sức lao động. Vậy, bản chất của tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản là giá cả của sức lao động, biểu hiện ra bên ngoài như giá cả của lao động. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung xã hội chủ nghĩa đã tồn tại khá lâu quan điểm cho rằng “Tiền lương là một phần thu nhập quốc dân, biểu hiện dưới hình thức tiền tệ, được nhà nước phân phối có kế hoạch cho công nhân viên chức phù hợp với số lượng và chất lượng lao động của mỗi người đã cống hiến. Tiền lương phản ánh việc trả công cho công nhân viên chức dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động nhằm tái sản xuất sức lao động”. Quan niệm trên về tiền lương hoàn toàn thống nhất với quan hệ sản xuất và cơ chế phân phối của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung xã hội chủ nghĩa. Song nó đã bộc lộ một số hạn chế sau : -Thứ nhất: Tiền lương không trả đúng giá trị sức lao động, không phù hợp với quan hệ cung cầu trên thị trường theo số lượng và chất lượng lao động của công nhân viên chức theo lượng hao phí được nhà nước quy định theo kế hoạch định trước chỉ là phương pháp phân phối bình quân “cào bằng” chứ không công bằng. -Thứ hai: Tiền lương là một bộ phận của thu nhập quốc dân. Do đó cơ chế phân phối tiền lương bị phụ thuộc vào cơ chế phân phối thu nhập quốc dân. Nếu thu nhập quốc dân cao thì sẽ phân phối tiền lương nhiều và ngược lại. -Thứ ba: Do sự phân phối bình quân nên tiền lương không còn là mối quan tâm của công nhân viên chức, nên không phát huy được tính chất đòn bẩy của tiền lương, tiền công làm ảnh hưởng tiêu cực trở lại nền kinh tế quốc dân. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, do có sự thay đổi lớn trong nhận thức nên quan niệm về tiền lương cũng được đổi mới về cơ bản và tiền lương có những ưu điểm rõ rệt sau: CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP BÙI THỊ KIM HOAN Thứ nhất : Sức lao động nay đã trở thành hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, nó đã được tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng sức lao động. Thứ hai: Tiền lương là bộ phận cơ bản và chủ yếu trong thu nhập của người lao động, là một yếu tố đầu vào của sản xuất. Do đó nó có tác dụng kích thích làm tăng động lực làm việc của người lao động với năng suất cao đồng thời tiết kiệm chi phí. Quan niệm về tiền lương nêu trên đã khắc phục được quan niệm cho rằng: Tiền lương là giá cả của lao động và tiền lương là một phần thu nhập quốc dân, được nhà nước phân phối một cách có kế hoạch cho người lao động. Đồng thời, quan niệm mới về tiền lương đã nghiên cứu về việc thừa nhận sức lao động là hàng hoá đặc biệt và đòi hỏi phải trả lương cho người lao động theo sự đóng góp và hiệu quả cụ thể của họ. Cũng như những quan điểm trên đây ta thấy rằng : Tiền lương trước hết là số tiền mà người sử dụng lao động (người mua sức lao động) trả cho người lao động (người bán sức lao động). Đó là mối quan hệ kinh tế của tiền lương. Mặt khác, tiền lương không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là một vấn đề xã hội quan trọng, liên quan tới đời sống và trật tự xã hội. Đó là quan hệ xã hội của tiền lương. Theo quan điểm cải tiến tiền lương tại nghị định 25, 26/CP 1993: Tiền lương được xem là giá cả sức lao động và được hình thành qua thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, khi định nghĩa về tiền lương còn phân biệt các khái nệm : Tiền lương danh nghĩa : Khái niệm chỉ số lượng tiền tệ mà người sử dụng sức lao động trả cho người cung ứng sức lao động căn cứ vào hợp đồng thoả thuận đã được ký kết. Thực tế, mọi mức lương trả cho người lao động đều là mức lương danh nghĩa. Song bản thân tiền lương danh nghĩa chưa thể cho ta nhận thức đầy đủ về mức lương trả công thực tế cho người lao động. Lợi ích mà người lao CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP BÙI THỊ KIM HOAN động cung ứng sức lao động nhận được ngoài việc phụ thuộc vào mức lương danh nghĩa còn phụ thuộc vào giá cả hàng hoá, dịch vụ và số lượng thuế mà người lao động sử dụng tiền lương đó để mua sắm hoặc đóng thuế. Tiền lương thực tế: Số lượng hàng hoá, dịch vụ mà người lao động mua được từ lương của họ, sau khi đã đóng các khoản thuế theo quy định của chính phủ. Chỉ số tiền lương thực tế tỷ lệ nghịch với chỉ số giá cả và tỷ lệ thuận với chỉ số tiền lương danh nghĩa tại thời điểm xác định. Công thức : Itt = Idn Ig Trong đó : Itt : chỉ số tiền lương thực tế Idn: chỉ số tiền lương danh nghĩa Ig: chỉ số giá cả Đối với người lao động lợi ích là mục tiêu cuối cùng của việc cung ứng sức lao động là tiền lương thực tế chứ không phải là tiền lương danh nghĩa. Vì tiền lương thực tế quyết định khả năng tái sản xuất sức lao động, quyết định các lợi ích trực tiếp của họ. Song trong thực tế xảy ra những sự thiếu ăn khớp hoặc thậm chí sự ngăn cách khá lớn giữa tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế theo chiều hướng không có lợi cho người cung ứng sức lao động. Sự giảm sút của tiền lương thực tế, khi nền kinh tế thị trường đang có lạm phát cao, giá cả hàng hoá tăng, đồng thời mất giá, trong khi những thoả thuận về mức lương danh nghĩa lại trì trệ không điều chỉnh kịp (mà sự trì trệ này của tiền lương là phổ biến của mọi nền kinh tế), đó là một điển hình về sự thiếu ăn khớp giữa tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa. Tiền lương tối thiểu (Mức lương tối thiểu): Tiền lương tối thiểu được xem là “cái ngưỡng” cuối cùng để từ đó xây dựng các mức lương khác, tạo thành hệ thống lương của một ngành nào đó hoặc hệ thống chung thống nhất của một nước, là căn cứ để định hướng chính sách tiền lương, nó liên hệ chặt chẽ với các yếu tố sau: CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP BÙI THỊ KIM HOAN - Mức sống trung bình của dân cư một nước. - Chỉ số giá cả sinh hoạt - Loại lao động và điều kiện lao động Mức lương tối thiểu được ấn định theo giá cả sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động làm công việc đơn giản nhất trong điều kiện lao động bình thường, bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích luỹ tái sản xuất sức lao động. Để đạt được chỉ tiêu bình ổn đời sống cho người lao động trong từng thời kỳ, chính phủ đã điều chỉnh mức lương tối thiểu trong nền kinh tế đảm bảo phù hợp với mức định giá chung của nền kinh tế, phù hợp với sự phát triển của kinh tế xã hội, thống nhất với bộ luật lao động của nước CHXHCN Việt Nam: “Khi chỉ số giá cả sinh hoạt tăng lên làm cho tiền lương thực tế của người lao động bị giảm sút thì Chính phủ điều chỉnh mức lương tối thiểu bảo đảm tiền lương thực tế”. Theo nghị định điều chỉnh lương gần đây nhất, mức lương tối thiểu được áp dụng là 350.000 đ. Như vậy, Chính phủ đóng một vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh mức lương tối thiểu của nền kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của mỗi thời kỳ . Về cơ bản đã tăng được tiền lương thực tế của người lao động, góp phần làm ổn định đời sống cho người lao động. Ngoài việc quy định mức lương tối thiểu, Nhà nước còn quy định các thang bảng lương với các bậc lương và hệ số lương. Vậy bản chất của tiền lương chính là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động. Mặt khác, tiền lương còn là đòn bảy kinh tế để khuyến khích tinh thần hăng hái lao động, kích thích và tạo mối quan tâm của người lao đọng đến kết quả công việc của họ. Nói cách khác, tiền lương chính là một nhân tố thúc đẩy năng suất lao động, nó vừa mang quan hệ kinh tế vừa mang quan hệ xã hội. 2. Quỹ tiền lương và thành phần của quỹ tiền lương trong Doanh nghiệp. Quỹ tiền lương của doanh nghiệp là toàn bộ tiền lương mà doanh nghiệp trả cho tất cả các loại lao động thuộc doanh nghiệp quản lý và sử dụng. Thành CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP BÙI THỊ KIM HOAN phần quỹ tiền lương bao gồm nhiều khoản như lương thời gian (tháng, ngày, giờ), lương sản phẩm, phụ cấp (cấp bậc, khu vực, chức vụ, đắt đỏ ….), tiền thưởng trong sản xuất. Quỹ tiền lương (hay tiền công) bao gồm nhiều loại và có thể phân theo nhiều tiêu thức khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu như phân theo chức năng của lao động, phân theo hiệu quả của tiền lương….. 3. Chế độ tiền lương và các hình thức trả lương trong Doanh nghiệp 3.1. Chế độ tiền lương a. Chế độ tiền lương cấp bậc Chế độ tiền lương cấp bậc là toàn bộ những quy định của Nhà nước và các xí nghiệp, doanh nghiệp áp dụng, vận dụng để trả lương cho người lao động, căn cứ vào chất lượng và điều kiện lao động khi họ hoàn thành một số công việc nhất định. Chế độ tiền lương cấp bậc áp dụng cho những công nhân, những người lao động trực tiếp, và trả lương theo kết quả lao động của họ, thể hiện quan hệ số lượng và chất lượng lao động. Việc xây dựng và áp dụng chế độ tiền lương cấp bậc là rất cần thiết nhằm quán triệt các nguyên tắc trả lương cho người lao động. Để trả lương một cách đúng đắn và công bằng thì phải căn cứ vào cả hai mặt: số lượng và chất lượng của lao động. Hai mặt này gắn liền với nhau trong bất kỳ một quá trình lao động nào. Số lượng lao động thể hiện qua mức hao phí thời gian lao động để sản xuất ra sản phẩm trong một khoảng thời gian theo lịch nào đó. Đơn vị số lượng lao động chính là số thời gian lao động. Chất lượng lao động là trình độ lành nghề của người lao động được sử dụng vào quá trình lao động. Chất lượng lao động thể hiện ở trình độ giáo dục và đào tạo, kinh nghiệm, kỹ năng. Chất lượng lao động càng cao thì năng suất lao động và hiệu quả làm việc cũng càng cao. Nội dung chính của chế độ tiền lương cấp bậc là thang lương tức là bảng xác định quan hệ tỷ lệ về tiền lương giữa những công nhân trong cùng một nghề hoặc một nhóm nghề giống nhau, theo trình độ lành nghề của họ. Một thang CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP BÙI THỊ KIM HOAN lương bao gồm một số bậc lương và hệ số phù hợp với các bậc lương đó. Mỗi bậc lương có một mức tiền lương khác nhau. Bậc lương: Bậc phân biệt về trình độ lành nghề của công nhân và được xếp từ thấp đến cao, hệ số cao nhất có thể là bậc 5, bậc 6, bậc 7. Hệ số lương: chỉ rõ lao động của công nhân ở một bậc nào đó (Lao động có trình độ lành nghề cao) được lương cao hơn công nhân bậc 1 (bậc có trình độ lành nghề thấp) trong nghề bao nhiêu lần. Bội số lương : hệ số của bậc cao nhất trong một thang lương. Đó là sự gấp bội giữa hệ số lương của bậc cao nhất so với hệ số lương của bậc thấp nhất hoặc so với mức lương tối thiểu. Sự tăng lên của hệ số lương được xem xét ở hệ số tăng tuyệt đối về hệ số lương tương đối. Hệ số tăng tuyệt đối của hệ số lương là hiệu của hai hệ số lương liên tiếp kề nhau. Hệ số tăng tương đối của hệ số lương là tỷ số giữa hệ số tăng tuyệt đối với hệ số lương của bậc đứng trước. Trong khi xây dựng thang lương, các hệ số tăng tương đối của hệ số lương có thể là luỹ tiến (tăng dần), đều đặn (không tăng) hoặc luỹ thoái (giảm dần ); trong thực tế, các loại thang lương có hệ số tăng tương đối như trên mang tính nguyên tắc, phản ánh xu hướng chứ ít khi đảm bảo tính tuyệt đối . Bảng lương : Bảng trả lương cho người lao động trên cơ sở bậc lương, hệ số lương, hệ số lương cấp bậc của từng người lao động theo kết quả lao động về thời gian lao động và số lượng sản phẩm tạo ra. Việc áp dụng chế độ tiền lương cấp bậc có một ưu thế rất lớn: + Tạo khả năng điều chỉnh tiền lương giữa các ngành, các nghề một cách hợp lý, giảm bớt tính chất bình quân trong công việc trả lương. + Làm cho việc bố trí và sử dụng công nhân thích hợp với khả năng về sức khỏe và trình độ lành nghề của họ + Khuyến khích và thu hút người lao động vào làm việc trong những ngành có điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại…. Chế độ tiền lương cấp bậc không phải là cố định, trái lại tuỳ theo điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội trong từng thời kỳ nhất định mà chế độ tiền lương này được cải tiến hay sửa đổi thích hợp để phát huy tốt vai trò, tác dụng của nó. b/ Chế độ tiền lương chức vụ CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP BÙI THỊ KIM HOAN Chế độ tiền lương chức vụ là toàn bộ những quy định của Nhà nước mà các tổ chức quản lý nhà nước, các tổ chức kinh tế, xã hội và các doanh nghiệp áp dụng để trả lương cho người lao động quản lý. Khác với công nhân, những người lao động trực tiếp, lao động quản lý tuy không trực tiếp tạo ra sản phẩm nhưng lại đóng vai trò rất quan trọng trong việc lập kế hoạch, tổ chức, điều hành, kiểm soát và điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh. Sản xuất càng phát triển, quy mô và phạm vi hoạt động kinh doanh càng mở rộng thì vai trò quan trọng của lao động quản lý ngày càng tăng và càng phức tạp. Hiệu quả của lao động quản lý có ảnh hưởng rất lớn, trong nhiều trường hợp mang tính quyết định đến hiệu quả hoạt động của các tổ chức xã hội, chính trị… Tiền lương trong chế độ tiền lương chức vụ trả theo thời gian, thường trả theo tháng và dựa vào các bảng lương chức vụ. Việc phân biệt tình trạng trong bảng lương chức vụ chủ yếu dựa vào các tiêu chuẩn như: chính trị, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trách nhiệm. Việc xây dựng chế độ tiền lương chức vụ dựa trên chức danh của người lao động quản lý, sự phức tạp của lao động trong từng chức danh…. Trong thực tế, vì lao động quản lý trong doanh nghiệp nói riêng cũng như lao động quản lý trong các tổ chức chính trị xã hội nói chung rất khó xác định, lượng hoá hiệu quả hay mức độ đóng góp của các hoạt động này. Do vậy việc xác định tiền lương cũng rất phức tạp. Để có thể đưa ra một bảng lương hợp lý cho chế độ trả lương theo chức vụ, cần phải có sự tham gia của nhiều chuyên gia và cần áp dụng nhiều phương pháp khác nhau. 3.2 Các hình thức trả lương Tuỳ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp sẽ tự lựa chọn hình thức trả lương cho người lao động một cách phù hợp. Hiện nay có các hình thức trả lương dưới đây: 3.2.1. Hình thức trả lương sản phẩm CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP BÙI THỊ KIM HOAN Hình thức trả lương sản phẩm là hình thức trả lương cho người lao động dựa trực tiếp vào số lượng và chất lượng sản phẩm (dịch vụ) mà họ hoàn thành. Hình thức này được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp sản xuất chế tạo sản phẩm. Đặc biệt được áp dụng ở các bộ phận sản xuất trực tiếp mà khối lượng công việc hoàn thành được xác định một cách định lượng (cái, chiếc..) và có thể tiến hành kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm một cách dễ dàng. Ưu điểm của hình thức này là: + Gắn chặt thu nhập của người lao động với kết quả sản xuất ra. Từ đó khuyến khích người công nhân sản xuất ra nhiều sản phẩm tốt cho doanh nghiệp. + Nâng cao ý thức tự giác và thái độ không cần phải kiểm soát nhiều Nhưng để áp dụng hình thức này, đòi hỏi phải xây dựng các mức có căn cứ khoa học, đảm bảo tổ chức và phục vụ tốt nơi làm việc, làm tốt công tác nghiệm thu sản phẩm. Vì vậy, chi phí tăng lên. Các chế độ trả lương theo sản phẩm: a. Chế độ trả lương sản phẩm trực tiếp cá nhân Là chế độ trả lương trực tiếp cho từng người theo kết quả lao động. Tiền lương của từng công nhân tính được là căn cứ vào đơn giá và số lượng sản phẩm đảm bảo chất lượng mà người công nhân đó chế tạo ra. Tính lương: LCN= ĐG x Q Trong đó: LCN: Tiền lương sản phẩm của cá nhân ĐG: Đơn giá tiền lương cho một sản phẩm. Đơn giá tiền lương là mức tiền lương dùng để trả cho người lao động khi họ hoàn thành một đơn vị sản phẩm hay công việc. Đơn giá tiền lương được tính như sau: CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP BÙI THỊ KIM HOAN LCB ĐG = Qo hoặc ĐG = LCB x T0 LCB: Lương cấp bậc của công nhân trong kỳ Qo: Mức sản lượng của công nhân To: Mức thời gian hoàn thành một đơn vị sản phẩm. Q: Số lượng sản phẩm thực tế hoàn thành Chế độ trả lương này được áp dụng rộng rãi với người trực tiếp sản xuất trong điều kiện quá trình lao động của họ mang tính độc lập tương đối, có thể định mức kiểm tra nghiệm thu sản phẩm một cách riêng biệt. b/ Chế độ tiền lương theo sản phẩm gián tiếp Thực chất, là phải căn cứ vào số lượng của công nhân chính để tính lương cho công nhân phụ, phục vụ: LCN = ĐG x Q1 Trong đó: LCN: Tiền lương của công nhân phụ Q1: Sản lượng hoàn thành thực tế của công nhân chính ĐG: Đơn giá của công nhân phụ LCB ĐG = M .Qo LCB: Lương cấp bậc của công nhân phụ, phục vụ M: Mức phục vụ của công nhân phụ Qo: Mức sản lượng của công nhân chính Chế độ trả lương sản phẩm gián tiếp áp dụng khi công việc của công nhân chính phải có sự giúp đỡ của công nhân phụ phục vụ c/ Chế độ trả lương sản phẩm tập thể Chế độ trả lương cho một nhóm người lao động khi họ hoàn thành một khối lượng sản phẩm nhất định CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP BÙI THỊ KIM HOAN LTT = ĐGTT . SP TT Trong đó: LTT: Tiền lương của cả tập thể SPTT: Số sản phẩm tập thể làm được ĐGTT: Đơn giá của tập thể ĐGTT LCB = Qo hoặc ĐGTT = LCB X TO LCB: Tổng tiền lương cấp bậc của cả tập thể Qo: Mức sản lượng của cả tập thể To: Mức thời gian của tập thể Sau khi xác định được tiền lương tập thể, việc tiến hành chia lương cho từng cá nhân theo các phương pháp sau: - Phương pháp dùng hệ số điều chỉnh (Hđc): Hđc = Ltt LCB Ltt: Lương cả tập thể nhận được LCB: Tổng lương cấp bậc của cả tập thể Số tiền từng người lĩnh: LCNi = Hđc x LCBi Trong đó: LCB: Lương cấp bậc của từng người i LCNi: Lương của người công nhân i - Phương pháp dùng giờ hệ số: + Quy đổi số giờ làm việc của các công nhân ra số giờ làm việc của công nhân bậc 1 (Tqdi) + Tiền lương cho 1 giờ làm việc của các công nhân bậc 1 được tính: Ltt LG = Tqd CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP BÙI THỊ KIM HOAN LG: Lương cho 1 giờ của công nhân bậc 1 Ltt: Lương của cả tập thể Tqd: Tổng số giờ bậc 1 của tập thể sau khi quy đổi + Tiền lương cho từng người: LCNi = Tqđi x LG LCNi: Tiền lương của người thứ i Tqđi: Số giờ bậc 1 đã quy đổi của người i - Phương pháp hệ số tham gia: Thực chất của phương pháp này là thông qua bình bầu tập thể để phân loại mức độ đóng góp của từng cá nhân vào tập thể. Cách tính đơn giản hơn nhưng độ chính xác thì thấp hơn hai phương pháp trên. Chế độ trả lương theo sản phẩm tập thể được áp dụng trả cho các loại công việc nặng nhọc, có định mức thời gian dài, cá nhân từng người không thể làm mà phải có sự đóng góp của cả tập thể hoặc để trả cho những loại công việc khó xác định được kết quả của từng cá nhân. d/ Chế độ tiền lương sản phẩm luỹ tiến Chế độ trả lương này sử dụng nhiều đơn giá khác nhau để trả cho công nhân tăng sản lượng ở mức độ khác nhau những sản phẩm đạt định mức, định lượng trả lương theo đơn giá tăng dần. Trong chế độ trả lương này, ta dùng hai loại đơn giá. Đơn giá cố định: Dùng để trả cho những sản phẩm vượt mức khởi điểm để tính lương cho những sản phẩm vượt mức khởi điểm. Đơn giá luỹ tiến là đơn giá cố định nhân với tỷ lệ tăng đơn giá tiền lương theo sản phẩm luỹ tiến. Llt: ĐG x Q + ĐG . K. (Q1 – Q0) Trong đó: Ltl: Tiền lương trả theo sản phẩm luỹ tiến ĐG: Đơn giá cố định tính theo sản phẩm thực tế Q0: Sản lượng đạt mức khởi điểm CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP BÙI THỊ KIM HOAN K: Tỷ lệ tăng thêm để có đơn giá luỹ tiến Chế độ trả lương này áp dụng ở những khâu chủ yếu của dây chuyền sản xuất, hoặc tại một khâu chủ quan trọng nhất có tác dụng quyết định toàn bộ dây chuyền sản xuất đó, hoặc là khi cần động viên hoàn thành dứt điểm công việc. e/ Chế độ tiền lương khoán sản phẩm Chế độ tiền lương khoán sản phẩm áp dụng cho những công việc được giao khoán cho công nhân. Chế độ này được đưa vào thực hiện khá phổ biến trong các ngành nông nghiệp, xây dựng cơ bản hoặc trong một số ngành khác khi công nhân làm các công việc mang tính đột xuất, công việc không thể xác định một mức lao động ổn định trong thời gian dài. Tiền lương khoán được tính: LK = ĐGK x Q0 Trong đó: LK: Tiền lương công nhân nhận ĐGK: Đơn giá khoán cho một đơn vị sản phẩm hay công việc Q0: Số lượng sản phẩm được hoàn thành. Chế độ trả lương này có tác dụng làm cho người lao động phát huy sáng kiến và tích cực cải tiến lao động để tối ưu hoá quá trình làm việc, giảm thời gian lao động, hoàn thành công việc được giao khoán. Tuy nhiên việc xác định đơn giá giao khoán phức tạp và nhiều khi khó chính xác. f/ Chế độ trả lương sản phẩm có thưởng Chế độ trả lương sản phẩm có thưởng là sự kết hợp trả lương theo sản phẩm và tiền thưởng. Chế độ này gồm 02 phần: + Phần tiền thưởng theo đơn giá cố định và số lượng sản phẩm thực tế đã hoàn thành. + Phần tiền thưởng được tính dựa vào trình độ hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu thưởng cả về số lượng và chất lượng sản phẩm. Lương sản phẩm có thưởng được tính như sau: CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP BÙI THỊ KIM HOAN Lth = Lsp + Lsp.m.h 100 Trong đó: Lth: Tiền lương sản phẩm có thưởng Lsp: Tiền lương trả theo sản phẩm với đơn giá cố định m: Tỷ lệ phần trăm tiền thưởng tính theo tiền lương sản phẩm và đơn giá cố định h: Tỷ lệ phần trăm hoàn thành vượt mức sản lượng được tính thưởng. Chế độ trả lương này khuyến khích người công nhân tích cực hoàn thành vượt mức sản lượng nhưng việc phân tích, tính toán, xác định các chỉ tiêu tính thưởng không chính xác có thể làm tăng chi phí tiền lương, bội chi quỹ tiền lương. 3.2.2. Hình thức tiền lương theo thời gian. Tiền lương thời gian là số lượng tiền thưởng trả cho công nhân căn cứ vào thời gian làm việc và tiền lương của một đơn vị thời gian. Hình thức trả lương này được áp dụng chủ yếu đối với người làm công tác quản lý. Đối với công nhân sản xuất hình thức này chỉ áp dụng ở những nơi có tính chất sản xuất liên tục bằng máy móc tự động hoặc ở những nơi sản xuất thử, thí nghiệm, sản xuất đơn chiếc mà định mức một cách chặt chẽ và chính xác. Hình thức này có nhiều nhược điểm hơn so với hình thức trả lương sản phẩm vì nó chưa gắn thu nhập của mỗi người với kết quả lao động mà họ đạt được trong thời gian làm việc. Các chế độ trả lương theo thời gian: a/ Chế độ trả lương theo thời gian giản đơn: Chế độ trả lương theo thời gian giản đơn là chế độ trả lương mà tiền lương nhận được của mỗi người công nhân dựa vào mức lương cấp bậc cao hay thấp và thời gian thực tế làm việc nhiều hay ít quyết định. Chế độ trả lương này chỉ áp dụng ở những nơi khó xác định mức lao động chính xác, khó đánh giá công việc chính xác. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP BÙI THỊ KIM HOAN Tiền lương được tính: LCN = LCB x T Trong đó: LCN: Tiền lương thực tế cá nhân nhận được LCB: Tiền lương cấp bậc tính theo thời gian T: Thời gian thực tế làm việc Chế độ trả lương này tính toán đơn giản nhưng mang tính chất bình quân, không khuyến khích sử dụng hợp lý thời gian làm việc, nguyên liệu sản xuất, không tập trung công suất của máy móc thiết bị để tăng năng suất lao động. b/ Chế độ trả lương theo thời gian có thưởng: Chế độ này là sự kết hợp giữa chế độ trả lương theo thời gian giản đơn và tiền thưởng khi đạt được những chỉ tiêu về số lượng hoặc chất lượng đã quy định. Chế độ trả lương này chủ yếu áp dụng đối với những công nhân phụ làm công việc phục vụ như công nhân sửa chữa điều chỉnh thiết bị. Ngoài ra, còn áp dụng đối với những công nhân chính làm việc ở những khâu sản xuất có trình độ cơ khí hoá cao, tự động hoá hoặc những công việc tuyệt đối phải đảm bảo chất lượng. Tiền lương của công nhân được tính như sau: LCN: LCB x T + tiền thưởng Trong đó: LCN: tiền lương mà công nhân nhận LCB: Tiền lương cấp bậc tính theo thời gian T: Thời gian làm việc thực tế Chế độ trả lương này có nhiều ưu điểm hơn chế độ trả lương theo thời gian giản đơn. Chế độ trả lương này không những phản ánh được trình độ thành thạo và thời gian làm việc thực tế mà còn gắn chặt với thành tích công tác của từng người thông qua chỉ tiêu xét thưởng đã đạt được. Vì vậy, nó khuyến khích người lao động quan tâm đến trách nhiệm và kết quả công tác của mình Tuy nhiên, việc xác định tiền thưởng một cách chính xác là khó khăn. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP BÙI THỊ KIM HOAN 4. Một số vấn đề bổ sung cho việc trả lương và bản chất của tiền thưởng 4.1. Một số vấn đề bổ sung cho việc trả lương 4.1.1. Trả lương theo hiệu quả sản xuất kinh doanh Trả lương theo hiệu quả sản xuất kinh doanh là một chế độ trả lương mới được áp dụng đối với công nhân sản xuất và cán bộ quản lý. Chế độ này dựa trên kết quả cuối cùng của từng người, từng bộ phận. So với các chế độ trả lương trước đây, chế độ trả lương theo hiệu quả sản xuất kinh doanh có điểm khác: việc trả lương theo công việc được giao gắn với mức độ phức tạp, tính trách nhiệm, mức độ hoàn thành công việc và số ngày công thực tế. Trong khi đó, chế độ trả lương sản phẩm phải căn cứ vào tính chất lao động, tính chất sản xuất, điều kiện cụ thể nơi làm việc và áp dụng đối với công nhân sản xuất ra sản phẩm cụ thể. Đối với trả lương theo thời gian căn cứ vào thời gian làm việc của người lao động và áp dụng chủ yếu đối với người làm công tác quản lý. Như vậy, chế độ trả lương này được áp dụng rộng rãi hơn. Ngoài ra, chế độ trả lương theo hiệu quả sản xuất kinh doanh còn có tác dụng khuyến khích như tiền thưởng vì nó căn cứ vào mức độ hoàn thành công việc của từng người. Khi mức độ hoàn thành công việc cao, làm việc tinh thần trách nhiệm thì người đó sẽ được hưởng lương cao. Nguyên tắc chung: Theo công văn 4320 – LĐTBXH/T: ngày 29/12/1998 của Bộ lao động – Thương binh và Xã hội về việc xây dựng quy chế trả lương trong doanh nghiệp Nhà nước, trả lương theo hiệu quả sản xuất kinh doanh được thể hiện dựa trên các nguyên tắc chung sau: Thực hiện phân phối theo lao động. Tiền lương phụ thuộc vào kết quả lao động cuối cùng của từng bộ phận. Chống phân phối bình quân, hệ số giãn cách giữa người có tiền lương cao nhất và thấp nhất do doanh nghiệp lựa chọn, quyết định nhưng tối đa không quá 2 lần so với hệ số mức lương cao nhất áp dụng trong doanh nghiệp theo quy CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP BÙI THỊ KIM HOAN định tại Nghị định 26/CP ngày 25/5/1993 của Chính Phủ và thấp nhất bằng hệ số mức lương quy định tại Nghị định 26/CP nói trên. Lãnh đạo doanh nghiệp phối hợp với tổ chức công đoàn cùng cấp để xây dựng quy chế trả lương. Quy chế trả lương được phổ biến công khai đến từng người lao động trong doanh nghiệp và đăng ký với cơ quan có thẩm quyền giao đơn giá tiền lương. Ưu điểm của chế độ trả lương theo hiệu quả sản xuất kinh doanh: Đảm bảo tính dân chủ, công khai. Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, tiền lương gắn với năng suất chất lượng và hiệu quả của từng người. Chống phân phối, bình quân. Tính toán chia lương một cách chính xác. Nhược điểm của phương pháp này: Xác định hiệu quả công việc của từng người khó, phải có sự tính toán chính xác, tỉ mỉ, cần theo dõi thường xuyên liên tục cả về chất lượng và số lượng công việc người lao động đã đạt được. Từ đó, người cán bộ làm công tác tiền lương cần phải xác định chính xác, nếu không sẽ đem lại những tiêu cực gây mâu thuẫn nội bộ cơ quan, đơn vị. Thêm vào đó, phương pháp xây dựng quy chế rất phức tạp, cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, chính xác và phải đưa ra ban lãnh đạo đơn vị bàn bạc, tổ chức công đoàn cần áp dụng thử thí điểm trước khi đưa vào áp dụng trong toàn Công ty. 4.1.2. Trả lương khi làm thêm giờ và làm việc vào ban đêm Việc trả luơng khi người lao động làm việc thêm giờ, làm việc vào ban đêm được quy định trong Bộ luật lao động nước Việt Nam như sau: a/ Trả lương khi làm thêm giờ; Trả lương khi làm thêm giờ được áp dụng cho mọi đối tượng, trừ những người làm việc theo lương sản phẩm, theo định mức lương khoán hoặc trả lương theo thời gian làm việc không ổn định như trên các phương tiện vận tải. Nếu trả lương theo thời gian thì người lao động được trả lương làm thêm giờ khi làm thêm ngoài giờ tiêu chuẩn. CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP BÙI THỊ KIM HOAN Thời gian làm thêm giờ do người sử dụng lao động và người lao động thoả thuận nhưng không được quá 4 giờ trong một ngày và quá 200 giờ trong một năm. Mức trả: + Vào ngày thường được trả ít nhất bằng 155% tiền lương giờ của ngày làm việc bình thường. + Vào ngày nghỉ hàng tuần hoặc ngày lễ được trả lương ít nhất bằng 200% tiền lương giờ của ngày làm việc bình thường. Nếu người lao động được nghỉ bù những giờ làm thêm thì người sử dụng lao động chỉ phải trả phần chênh lệch so với tiền lương giờ của ngày làm việc bình thường. Nếu trả lương theo sản phẩm, lương khoán thì người lao động được trả lương làm thêm giờ khi người sử dụng lao động có yêu cầu làm thêm số lượng, khối lượng sản phẩm ngoài số lượng, khối lượng sản phẩm làm trong giờ tiêu chuẩn. b/ Trả lương làm việc vào ban đêm Người lao động làm việc vào ban đêm thì được trả thêm ít nhất bằng 30% tiền lương làm việc vào ban ngày nếu không thường xuyên làm việc vào ban đêm, ít nhất bằng 35% tiền lương làm việc vào ban ngày nếu thường xuyên làm theo ca (chế độ 3 ca) hoặc chuyên làm việc vào ban đêm. Trường hợp làm thêm vào ban đêm thì tiền lương giờ làm thêm được tính trả như làm thêm giờ vào ban ngày cộng với tiền lương trả thêm khi làm việc vào ban đêm 4.2. Bản chất và vai trò của tiền thưởng Tiền thưởng là khoản tiền bổ sung cho tiền lương nhằm mục đích quán triệt hơn nguyên tắc phân phối theo số lượng và chất lượng lao động, nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Người lao động được hưởng tiền thưởng khi họ đạt được các chỉ tiêu thưởng và thoả mãn các điều kiện được thưởng do doanh nghiệp đưa ra. Mức tiền thưởng của mỗi người lao
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan