Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa kinh bắc trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc...

Tài liệu Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa kinh bắc trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế

.PDF
113
379
59

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LÊ THỊ HƯỜNG GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA KINH BẮC TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Hà Nội, 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LÊ THỊ HƯỜNG GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA KINH BẮC TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học Mã số: 602285 Người hướng dẫn: PGS. TS. ĐỖ NHẬT TÂN Hà Nội, 2010 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1 PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................................. 11 Chương 1. BẢN SẮC VĂN HÓA KINH BẮC - VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC ...................................................... 11 1.1. Một số khái niệm liên quan đến văn hóa Kinh Bắc ......................... 11 1.1.1. Khái niệm văn hóa và bản sắc văn hóa .......................................... 11 1.1.2. Văn hóa vùng, miền và bản sắc văn hóa vùng, miền ..................... 18 1.2. Khái niệm bản sắc văn hóa Kinh Bắc ............................................... 20 1.2.1. Điều kiện hình thành bản sắc văn hóa Kinh Bắc ........................... 20 1.2.2. Bản sắc văn hóa Kinh Bắc và những đặc trưng của bản sắc văn hóa Kinh Bắc ................................................................................................... 27 1.2.3. Mối quan hệ của bản sắc văn hóa Kinh Bắc với bản sắc văn hóa dân tộc ...................................................................................................... 33 1.3. Vai trò của văn hóa Kinh Bắc đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc........................................................................................................ 36 1.3.1. Phát huy tính nhân văn trong đời sống xã hội ................................ 36 1.3.2. Phát huy tinh thần lạc quan yêu đời, yêu quê hương, đất nước, dũng cảm trong chiến đấu, hăng say trong lao động sản xuất, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ............................................. 46 Chương 2. THỰC TRẠNG GIỮ GÌN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA KINH BẮC .. 55 2.1. Ông cha ta giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Kinh Bắc ................ 55 2.2. Những quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước nói chung, của Đảng bộ, chính quyền địa phương nói riêng về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Kinh Bắc ....................................................................................... 68 2.2.1. Những quan điểm của Đảng, Nhà nước nói chung về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa.......................................................................... 68 108 2.2.2. Quan điểm của Đảng bộ, chính quyền địa phương tỉnh Bắc Ninh nói riêng về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Kinh Bắc .................... 73 2.3. Những nội dung chủ yếu giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Kinh Bắc thời kỳ mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế (1986 đến nay) ............... 74 Chương 3. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA KINH BẮC TRONG THỜI KỲ MỚI ĐẨY MẠNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ......................................................................................................... 81 3.1. Dự báo xu hướng biến đổi bản sắc văn hóa Kinh Bắc những năm tới ................................................................................................................. 81 3.1.1. Xu hướng tích cực .......................................................................... 81 3.1.2. Xu hướng tiêu cực .......................................................................... 82 3.2. Những nguyên tắc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Kinh Bắc trong thời kỳ mới – đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế ........................ 83 3.2.1. Tuân theo những quan điểm của Đảng, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện của Đảng. ........................................................... 84 3.2.2. Chủ động hội nhập để tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại trên cơ sở giữ gìn và phát huy nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ............................................................................................................. 85 3.2.3. Không bảo thủ giữ nguyên cái cũ, không chịu đổi mới, tiếp thu cái mới, cái tiến bộ ......................................................................................... 87 3.2.4. Không tự ti phủ định sạch trơn cái cũ, bắt chước dập khuôn cái mới .................................................................................................................. 89 3.2.5. Bảo đảm mối quan hệ biện chứng giữa giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Kinh Bắc với đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế - xã hội ở Bắc Ninh – Kinh Bắc ........................................................... 89 3.3. Giải pháp và kiến nghị nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Kinh Bắc trong thời kỳ mới – đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế ...... 90 109 3.3.1. Nhóm giải pháp và kiến nghị về nâng cao, thống nhất nhận thức tư tưởng ......................................................................................................... 90 3.3.2. Nhóm giải pháp và kiến nghị về lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, quản lý .. 92 3.3.3. Nhóm giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ ............................. 95 3.3.4. Nhóm giải pháp và kiến nghị về cơ chế, chính sách ...................... 95 3.3.5. Nhóm giải pháp và kiến nghị về xây dựng môi trường văn hóa, thiết chế văn hóa, sinh hoạt văn hóa ở địa phương và cơ sở .................... 96 KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 99 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 102 110 PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài luận văn Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Văn hóa có ảnh hưởng sâu rộng và tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Trong đó phải kể đến những ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ của văn hóa đến phát triển kinh tế. Giữa phát triển văn hóa và phát triển kinh tế có quan hệ biện chứng với nhau. Văn hóa còn biểu hiện trình độ văn minh của dân tộc và là bản sắc của từng vùng, miền. Bản sắc văn hóa được xem như là chứng minh thư, là thẻ căn cước của từng dân tộc, từng vùng, miền. Thông qua bản sắc văn hóa người ta có thể thấy được chiều hướng phát triển kinh tế, cũng như cung cách phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Chính vì vậy, việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc – một nhiệm vụ quan trọng được đặt song song với sự phát triển kinh tế mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đang rất quan tâm. Từ khi ra đời đến nay Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề xây dựng, phát triển văn hóa. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 5 khóa VIII về: “Phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” và báo cáo chính trị tại đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đặt ra những yêu cầu cấp bách đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện đổi mới và mở cửa. Ngược dòng lịch sử, quê hương Quan họ có nhiều tên gọi khác nhau và địa bàn rộng, hẹp khác nhau, qua các triều đại. Từ xa xưa đã nổi tiếng một vùng Kinh Bắc, xứ sở của Quan họ. Dưới thời Pháp thuộc, cuối thế kỉ XIX, từ ngày 10/10/1895 bắt đầu tồn tại hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Từ năm 1963 hai tỉnh đó lại được sáp nhập lại thành một tỉnh Hà Bắc rộng lớn. Gần đây hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang lại được tách ra. Song nói đến xứ Bắc – 1 Kinh Bắc thì tỉnh Bắc Ninh ngày nay là địa bàn cốt lõi, trung tâm của xứ Bắc – Kinh Bắc xưa. Trải chiều dài lịch sử, Kinh Bắc – Bắc Ninh có vị thế và vai trò đặc biệt quan trọng trong lịch sử dân tộc. Đó là mảnh đất vốn là một trong những cái nôi sinh thành của dân tộc Việt, trung tâm diễn ra cuộc đấu tranh lâu dài và khốc liệt của dân tộc chống xâm lược và đồng hóa trong suốt thiên niên kỷ đầu công nguyên. Nơi đây là quê hương của Kinh Dương Vương, Lý Bát Đế triều đại mở nền văn minh Đại Việt, miền đất phên giậu phía Bắc của kinh thành Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Dưới thời thuộc Hán - “thủ phủ” vùng đất này - là cái nôi truyền bá Nho học và Phật học lớn nhất của người Việt. Kinh Bắc - Bắc Ninh còn là một vùng đất lịch sử của những anh hùng, cội nguồn của văn hóa - văn minh Đại Việt, đồng thời cũng là vùng đất cổ, giàu truyền thống văn hiến, hiếu học, khoa bảng. Văn hóa Bắc Ninh – Kinh Bắc phong phú và đặc sắc được thể hiện qua những công trình kiến trúc nghệ thuật, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử- văn hóa, phong tục tập quán, các sinh hoạt văn hóa dân gian. Năm 1997, tỉnh Bắc Ninh được tái lập, đặc biệt năm 2006, thị xã Bắc Ninh chính thức được công nhận là thành phố đô thị loại 3, đã tạo những bước tiến vững chắc trong quá trình xây dựng và phát triển của địa phương. Bắc Ninh hiện đang đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế, tốc độ đô thị hóa với những biến đổi diễn ra mạnh mẽ nhanh chóng trên tất cả các mặt của đời sống xã hội làm cho đời sống nhân dân được cải thiện và nâng lên đáng kể, hạ tầng cơ sở được kiến trúc, xây dựng khang trang hiện đại; nhưng bên cạnh đó cũng khiến cho nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể bị mai một, lạm dụng, xâm hại và thương mại hóa. Quá trình đô thị hóa cùng với mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế cũng hình thành nên những chuẩn mực mới trong đời sống tinh thần, dẫn đến “sự va chạm” giữa lối sống, lối tư 2 duy hiện đại với lối sống và tư duy truyền thống. Trong đời sống nhân dân đang xuất hiện các xu hướng tự phát, một bộ phận nhân dân quay lưng lại với truyền thống, xem thường những giá trị văn hóa của quê hương đất nước, chạy theo đồng tiền, đạo đức bị xói mòn, một bộ phận khác lại có xu hướng trở về cội nguồn, khôi phục những lễ hội, thậm chí kéo theo cả việc khôi phục những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan … Trước thực trạng đó, các nhà lý luận và chỉ đạo hoạt động thực tiễn phải chỉ ra được đâu là khuynh hướng có hại, đâu là khuynh hướng có lợi; khuynh hướng nào cần bảo tồn, phát huy; khuynh hướng nào cần phải hạn chế, cải tạo để Bắc Ninh có thể phát triển đúng hướng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những ngày cuối tháng 9 năm 2009 người dân Việt Nam nói chung và nhân dân Bắc Ninh – Kinh Bắc nói riêng rất vui mừng tự hào đón nhận danh hiệu Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân loại cho những làn điệu Dân ca Quan họ - một giá trị văn hóa đặc sắc của quê hương do Ủy ban Liên Chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể công nhận. Bên cạnh niềm tự hào đó còn là trách nhiệm cần phải giữ gìn, phát huy và quảng bá nét đẹp văn hóa đó với bạn bè quốc tế. Từ góc độ Triết học và Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Kinh Bắc trong thời kỳ mới – đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay nhằm sử dụng những giá trị tích cực của văn hóa truyền thống của Kinh Bắc, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. Và đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng, góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Cho tới nay, đã có một số công trình nghiên cứu khoa học, bài viết về vùng văn hóa Bắc Ninh - Kinh Bắc, văn hiến Kinh Bắc. Tuy nhiên, vấn đề “giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Kinh Bắc trong thời kỳ mới – đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế” thì chưa được các nhà nghiên cứu đi trước đề cập 3 tới. Đây còn là một khoảng trống khoa học cần được nghiên cứu. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Giữ gìn bản sắc văn hóa Kinh Bắc trong thời kỳ mới – đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp bậc Cao học của mình. II. Lịch sử nghiên cứu có liên quan tới đề tài luận văn Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vùng quê Kinh Bắc và văn hóa Kinh Bắc dưới nhiều góc độ: Lịch sử, khảo cổ học, văn hóa học và ngôn ngữ học như: Cuốn “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, sách được viết xong năm 1435, còn gọi là An Nam Vũ Cống. Trong tác phẩm sau phần giới thiệu qua vị trí chung của toàn quốc, đơn vị hành chính, nhân khẩu, quốc hiệu, quốc đô qua các thời đại, Nguyễn Trãi chép riêng các đạo thời Lê sơ. Riêng về Kinh Bắc sách đã giới thiệu như sau: “Thiên Đức là tên sông, xưa là Bắc Giang, đời Lý nhấc lên làm phủ. Vệ Linh là tên khác của núi Vũ Sơn. Đổng Thiên Vương bay lên trời là ở nơi đây. Kinh Bắc xưa là bộ Vũ Ninh, tây và nam giáp Thượng Kinh, Sơn Nam, đông và bắc giáp Thái Nguyên, Hải Dương. Đây là trấn thứ tư trong bốn kinh trấn và là đứng đầu phên giậu phía bắc…”. Như vậy, ngay từ thời đó, Kinh Bắc xưa đã được nhắc tới như một địa phương đất tốt, vị trí quan trọng, với những nghề tiểu thủ công cổ truyền. Cuốn thứ hai hết sức quan trọng là: Đại Nam nhất thống chí (Triều Tự Đức, tập III, quyển XIX) khi giới thiệu về tỉnh Bắc Ninh đã nêu lên những sự cải tạo và sử dụng tự nhiên của nhân dân thời đó đối với các yếu tố tự nhiên và việc phát triển các hoạt động sản xuất của địa phương. Cuối thời Lê, đầu Nguyễn đã xuất hiện sách Kinh Bắc phong thổ ký (kí hiệu R986, thư viện Quốc gia), nằm trong sách Thiên tải nhàn đàm của Đàm Nghĩa Am, là sách địa lý Việt Nam về đời Gia Long – Minh Mạng. Riêng phần Kinh Bắc phong thổ ký có ghi rõ tác giả là Nguyễn Thăng, tri phủ Lạng Giang, viết năm 1807 in trong phần phụ dẫn của sách Thiên tải nhàn đàm. 4 Dưới triều Nguyễn đã xuất hiện tiếp một số sách tỉnh chí như Bắc Ninh tỉnh địa dư (1815), Bắc Ninh tỉnh chí (1876). Cuốn Hà Bắc ngàn năm văn hiến, tập 1, 2, 3, tác giả Thanh Hương, Phương Anh, Ty Văn hóa Hà Bắc xuất bản từ 1973 đến 1976. Cuốn Một Hà Bắc cổ trong lòng đất, của tác giả Trần Quốc Vượng, Trần Đình Luyện, Nguyễn Ngọc Bích, Ty Văn hóa và Thông tin Hà Bắc xuất bản năm 1981. Cuốn “Địa lý hành chính vùng Kinh Bắc” của tác giả Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Trường, Nxb Văn hóa Thông tin, 1998. Cuốn “Bắc Ninh làng cũ quê xưa- chiếc nôi của nền văn hóa Việt Nam” của tác giả Ngô Thế Thịnh, Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2000. Cuốn “Bắc Ninh – Thế và lực trong thế kỷ XXI” của nhóm tác giả Chu Viết Luận (cb), Trịnh Anh Vũ, Dương Mai Lan, Nxb Chính trị Quốc gia, 2002. Cuốn “Bắc Ninh lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 – 1954” của các tác giả Nguyễn Hữu Vinh (chủ biên), Ngô Thanh Tuấn, Nguyễn Thành Hương, Nxb Quân đội Nhân dân, 2000. Cuốn “Văn hiến Kinh Bắc” của nhóm tác giả Trần Đình Luyện, Lê Danh Khiêm, Nguyễn Quang Khải, Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh, 1997… Đây là những nghiên cứu mang tính khái quát chung về văn hóa và văn hiến Kinh Bắc thông qua tìm hiểu về lịch sử vùng Kinh Bắc, về những phong tục trong đời sống sinh hoạt vật chất và tinh thần. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể tiếp cận các nghiên cứu đó ở nhóm các công trình, bài viết nghiên cứu về văn hóa vật thể và nhóm các nghiên cứu về văn hóa phi vật thể. Thứ nhất, nhóm các nghiên cứu về văn hóa vật thể của văn hóa Kinh Bắc. Trong đó phải kể đến những nghiên cứu của tác giả Nguyễn Đức Thìn 5 với những nghiên cứu về Đền Đô - một di tích lịch sử văn hóa trong các tác phẩm “Chuyện kể ở Đền Đô” và cuốn “Di tích lịch sử Đền Đô”; nghiên cứu về văn bia trên đất Kinh Bắc với các công trình “Văn bia văn miếu Bắc Ninh” của Nguyễn Quang Khải, cuốn “Văn bia văn chỉ Yên Phụ”; tác giả Nguyễn Hữu và Nguyễn Duy Hợp với nghiên cứu về “Chùa Dâu - Lịch sử và truyền thuyết”. Công trình nghiên cứu về “Gốm sành nâu ở Phù Lãng” trong luận văn Tiến sĩ của tác giả Trương Thị Minh Hằng, 2005, Tác giả Vương Xuân Tình thì lại tìm hiểu văn hóa Kinh Bắc trong nghiên cứu về “Tập quán ăn uống của người Việt vùng Kinh Bắc” Ngoài ra, còn rất nhiều các bài viết đăng trên các tạp chí như: “Pho tượng Pháp Điện một kiệt tác nghệ thuật thế kỷ XVII” (Trà Hải), “Về vùng văn hóa Luy Lâu - hồi cố và mấy suy nghĩ tản mạn” (Nguyễn Hữu Toàn), “Bắc Ninh đất trăm nghề” (Trần Đình Luyện), “Lịch sử chùa Bút Tháp qua tư liệu Hán Nôm” (Phạm Tuấn), “Tìm hiểu về quả chuông cổ nhất xứ Kinh Bắc ở chùa Diên Phúc” (Nguyễn Khắc Bảo), “Tranh Đông Hồ nét văn hóa Kinh Bắc” (Văn Côn), “Di tích lịch sử Bắc Ninh - Công tác quản lý và phát huy giá trị” (Lê Viết Nga), “Nét đẹp kiến trúc dân gian ở làng Đình Bảng” (Hồ Sĩ Tá)… Thứ hai, nhóm các nghiên cứu về văn hóa phi vật thể của văn hóa Kinh Bắc. Nhắc đến văn hóa phi vật thể của vùng văn hóa Kinh Bắc không thể không nhắc tới những làn điệu dân ca Quan họ và các nghiên cứu về loại hình văn hóa dân gian đặc trưng này. Cuốn “Một số vấn đề về dân ca Quan họ” tập hợp một số bài tham luận tại Hội nghị khoa học các năm từ 1965- 1971 do Ty Văn hóa Hà Bắc tổ chức (Cuốn sách xuất bản năm 1972). Cuốn sách giúp người đọc cái nhìn tổng quát 6 về dân ca Quan họ trên nhiều phương diện khác nhau: nguồn gốc của dân ca Quan họ, lề lối hát Quan họ, âm nhạc Quan họ, tình hình phong trào ca hát Quan họ, Các phương hướng bảo tồn phát triển văn hóa Quan họ… Năm 2006, Viện Văn hóa – Thông tin kết hợp với Sở Văn hóa – Thông tin Bắc Ninh tổ chức Hội thảo quốc tế “Bảo tồn và phát huy dân ca trong xã hội đương đại (qua trường hợp Quan họ ở Bắc Ninh, Việt Nam)”. Sau cuộc hội thảo lớn này, tập kỷ yếu “Không gian văn hóa Bắc Ninh - Bảo tồn và phát huy” được xuất bản. Với hơn 50 tham luận của nhiều tác giả trong và ngoài nước, hội thảo đã tập trung nghiên cứu nội dung, lề lối sinh hoạt dân ca Quan họ, nghệ thuật âm nhạc Quan họ. Có thể kể đến một số bài như “Nét đẹp riêng trong lời ca Quan họ từ góc nhìn văn hóa ứng xử” (Phạm Thu Yến), “Những khả năng và sự biến đổi” (Trần Thị An), “Lễ hội- môi trường xã hội nhân văn bảo tồn và phát huy những giá trị dân ca Quan họ Bắc Ninh” của (Hoàng Lương), “Bảo tồn và phát huy nghệ thuật dân gian Việt Nam trong cơ chế thị trường với trường hợp dân ca Quan họ Bắc Ninh” (Lê Thị Hoài Phương) Ngoài ra còn cả một kho tàng truyện kể dân gian, ca dao, tục ngữ, là kết tinh trí tuệ và tâm hồn của con người Kinh Bắc, thể hiện tinh thần hiếu khách, nho nhã, trọng tình nghĩa, tinh thần lạc quan yêu đời, phản ánh niềm yêu say mê và khả năng sáng tạo nghệ thuật phong phú. Các tác phẩm, nghiên cứu về mảng vấn đề này có thể kể đến cuốn “Phương ngôn xứ Bắc” của nhóm tác giả Nguyễn Đình Bưu, Khổng Đức Thiêm, Nxb Văn hóa dân tộc, 1997, cuốn “Bắc Ninh thi thoại” của tác giả Nguyễn Khôi, Nxb Văn hóa dân tộc, 2004, cuốn “Danh nhân Kinh Bắc: truyện dã sử”, của hai tác giả Huy Cờ, Trần Đình Luyện, Nxb Văn hóa Dân tộc, 1999. Miền Kinh Bắc được mệnh danh là quê hương, là vương quốc của lễ hội. Khắp các xóm làng trên quê hương xứ Bắc cứ mỗi độ xuân về lại tưng bừng mở hội. Đây là một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa dân gian thể hiện sự 7 tài hoa, tinh tế, lịch lãm của mình trong giao tiếp ứng xử với bạn bè và quý khách của con người Kinh Bắc. Trong mảng đề tài này có rất nhiều những nghiên cứu tiêu biểu như cuốn “Lễ hội Bắc Ninh” của Trần Đình Luyện, 2003, Sở Văn hóa – Thông tin Bắc Ninh xuất bản, “Hội Lim, truyền thống và hiện đại” (kỷ yếu hội thảo khoa học), Sở Văn hóa – Thông tin Bắc Ninh, 2004, “Một số sinh hoạt văn hóa - tín ngưỡng ở vùng Dâu” của (Nguyễn Hữu Toàn), “Văn hóa truyền thống làng Viêm Xá” (Đỗ Thị Thủy). Trong thời gian này còn có cuốn sách “Vùng văn hóa Quan họ Bắc Ninh” là kết quả của chương trình hợp tác giữa Bộ Văn hóa – Thông tin và Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh xây dựng hồ sơ trình UNESCO công nhận Quan họ Bắc Ninh là di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Cuốn sách dày hơn 1000 trang, được tuyển chọn từ các công trình nghiên cứu về Quan họ Bắc Ninh từ trước đến nay, đã giới thiệu toàn vẹn về văn hóa Quan họ. Trong quá trình nghiên chúng tôi thấy có rất nhiều công trình, sách báo, tài liệu nghiên cứu về văn hóa Kinh Bắc ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, có một số nghiên cứu đã nêu được nhiều nét đặc trưng của văn hóa Kinh Bắc; một số khác nghiên cứu một cách rời rạc, lẻ tẻ một vài đặc trưng bản sắc văn hóa Kinh Bắc mà chưa có công trình nghiên cứu và sách báo nào đề cập một cách hệ thống những đặc trưng của bản sắc văn hóa Kinh Bắc, đặc biệt là vai trò của nó đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và việc giữ gìn phát huy nó trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. III. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn 3.1. Mục đích Thấy rõ được vai trò của bản sắc văn hóa Kinh Bắc trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Kinh Bắc – Bắc Ninh nói riêng và xây dựng bảo vệ Tổ quốc nói chung. Từ đó, có cách ứng xử phù hợp và giải pháp khả thi 8 nhằm giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Kinh Bắc trong thời kỳ mới – tiếp tục đẩy mạnh mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau: - Làm rõ khái niệm bản sắc văn hóa Kinh Bắc và vai trò của nó đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (chương 1) - Đánh giá thực trạng giữ gìn bản sắc văn hóa Kinh Bắc qua các thời kỳ, nhất là thời kỳ mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế (chương 2) - Dự báo xu hướng biến đổi bản sắc văn hóa Kinh Bắc trong thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Kinh Bắc trong thời kỳ này (chương 3) IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài luận văn Bản sắc văn hóa Kinh Bắc trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế và việc giữ gìn, phát huy nó. V. Cơ sở lý luận, thực tiễn, phương pháp nghiên cứu đề tài luận văn - Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. - Cơ sở thực tiễn: Điều kiện chính trị, văn hóa - xã hội trong giai đoạn hiện nay ở Bắc Ninh. - Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp như: phương pháp logic và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh… 9 VI. Ý nghĩa của đề tài luận văn - Ý nghĩa về mặt lý luận: + Góp phần làm rõ khái niệm bản sắc văn hóa và bản sắc văn hóa Kinh Bắc, cũng như vai trò động lực của nó trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. + Góp phần làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa bản sắc văn hóa Kinh Bắc với mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng biến đổi bản sắc văn hóa Kinh Bắc trong thời kỳ mới tiếp tục đẩy mạnh mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế; làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Kinh Bắc. - Ý nghĩa về mặt thực tiễn: + Giúp cho đảng bộ, chính quyền tỉnh Bắc Ninh nói riêng; Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng nói chung những cơ sở và luận cứ để chỉ đạo việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Kinh Bắc trong thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.. + Có thể làm tài liệu nghiên cứu, học tập, giảng dạy. VII. Kết cấu của đề tài luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục; phần nội dung gồm 3 chương với 9 tiết. 10 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 BẢN SẮC VĂN HÓA KINH BẮC - VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC 1.1. Một số khái niệm liên quan đến văn hóa Kinh Bắc 1.1.1. Khái niệm văn hóa và bản sắc văn hóa - Khái niệm văn hóa Văn hóa là một khái niệm có nội hàm hết sức phong phú. Mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình trong thế giới vật chất lẫn tinh thần có mối liên hệ với con người, được con người tìm hiểu, nhận thức, tác động và ảnh hưởng trở lại con người đều có khía cạnh văn hóa của nó. Để có một quan niệm đầy đủ, toàn diện về văn hóa không phải là điều đơn giản. Ngoài một số ngành khoa học xác định văn hóa là đối tượng trực tiếp, còn có nhiều ngành khoa học khác nghiên cứu góc độ này hay góc độ khác của văn hóa. Vì thế mà có nhiều định nghĩa, nhiều cách tiếp cận văn hóa. Có những định nghĩa nói về chức năng của văn hóa, có những định nghĩa nói về ý nghĩa của văn hóa, có những định nghĩa văn hóa thiên về dân tộc học, xã hội hoc, tâm lý học, nhân học… Có người cho rằng, văn hóa gồm văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần; văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính chất một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Cũng có người cho rằng, văn hóa theo nghĩa rộng là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, gồm tám lĩnh vực: tư tưởng, đạo đức, lối sống; giáo dục đào tạo; khoa học công nghệ; văn học nghệ thuật; giao lưu văn hóa; thông tin đại chúng; thể chế văn hóa; đời sống văn hóa. Nghĩa hẹp gồm nếp sống, lối sống; văn học nghệ thuật; thông tin đại chúng; xuất bản báo chí; phong tục tập quán; đạo đức xã hội và chuyên ngành nghiệp vụ văn hóa. 11 Trong cuốn “Đại từ điển tiếng Việt”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2008, trang 1744 đưa ra khái niệm văn hóa một cách tổng quát trên nhiều khía cạnh: - Những giá trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra trong lịch sử (nền văn hóa của dân tộc; kho tàng văn hóa dân tộc) - Đời sống tinh thần của con người (phát triển kinh tế và văn hóa; chú ý đời sống văn hóa của nhân dân) - Tri thức khoa học, trình độ học vấn (trình độ văn hóa, học các môn văn hóa) - Lối sống, cách ứng xử có trình độ cao, biểu hiện văn minh (người có văn hóa; gia đình văn hóa mới) - Nền văn hóa một thời kỳ lịch sử cổ xưa, xác định được nhờ tổng thể các di vật tìm được có những đặc điểm chung (văn hóa Đông Sơn; văn hóa rìu hai vai) Trong cuốn Từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2005, tập 4, trang 798 đưa ra khái niệm văn hóa một cách khái quát: “Là toàn bộ những hoạt động sáng tạo và những giá trị của nhân dân một nước, một dân tộc về mặt sản xuất vật chất và tinh thần trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước”. Khái niệm văn hóa ở đây được hiểu theo nghĩa nhân văn rất rộng [60, tr. 798]. Các - pốp nhà văn hóa thuộc Liên Xô định nghĩa: “Văn hóa là toàn bộ của cải vật chất và tinh thần, kết quả của những hoạt động có tính chất xã hội và lịch sử của loài người”.“Văn hóa là một hiện tượng nhiều mặt phức tạp, có liên quan đến nền sản xuất và chế độ kinh tế của đời sống xã hội, văn hóa biểu hiện trong mọi mặt của đời sống xã hội”. Tác giả Trần Ngọc Thêm trong cuốn “Cơ sở văn hóa Việt Nam”, từ việc phân tích đi đến xác định được bốn đặc trưng cơ bản của văn hóa mà 12 tổng hợp lại, đã nêu ra một định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”. Học giả Đào Duy Anh định nghĩa: “Văn hóa là văn vật và giáo hóa, văn hóa là giáo hóa con người trở nên đẹp đẽ” [1, tr. 13]. GS. Trần Quốc Vượng định nghĩa: “Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng như lối sống, lối suy nghĩ, lối ứng xử. Văn hóa theo nghĩa hẹp như văn hóa nghệ thuật, học vấn… và tùy từng trường hợp cụ thể mà có những định nghĩa khác nhau. Ví dụ xét từ khía cạnh tự nhiên, thì văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi bản tay của con người” [57, tr. 16]. Văn hóa biểu hiện trong lý tưởng sống, trong các quan niệm về thế giới và nhân sinh, tín ngưỡng, trong lao động và đấu tranh, trong tổ chức đời sống, tạo dựng xã hội, thể hiện lý tưởng thẩm mỹ. Có thể tìm thấy những biểu hiện của văn hóa trong các phương thức và công cụ sản xuất, phương thức sở hữu, các thể chế xã hội, phong tục tập quán, giao tiếp giữa người và người, trong trình độ học vấn và khoa học kỹ thuật, trong trình độ sáng tạo và thưởng thức văn học, nghệ thuật. Vì thế nhà xã hội học văn hóa Anh Taylor cho rằng: “Văn hóa là những tổng thể phức hợp, bao gồm các trí thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục, và tất cả những khả năng thói quen, mà con người đã đạt được với tư cách là thành viên trong xã hội” [62, tr. 13]. Nhân dịp phát động thập kỷ thế giới phát triển văn hóa (1988 - 1997), tổ chức giáo dục khoa học và văn hóa thế giới (UNESCO) đã công bố một định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa là tổng thể các hệ thống giá trị, bao gồm các mặt tình cảm, trí thức, vật chất, tinh thần của xã hội. Nó không thuần túy bó hẹp trong sáng tác nghệ thuật, mà bao gồm cả phương thức sống, những quyền cơ bản về con người, truyền thống tín ngưỡng” [64, tr. 5]. 13 Văn hóa được hiểu theo những góc độ tiếp cận khác nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh, danh nhân văn hóa thế giới, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta đã nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [23, tr. 431]. Như vậy, lao động sáng tạo là cội nguồn, khởi điểm của văn hóa. Để trở thành văn hóa đích thực thì những sáng tạo đó phải hướng về các giá trị nhân văn, hoàn thiện nhận thức, nhân cách con người. Trong quan niệm của Đảng ta, văn hóa là một lĩnh vực thực tiễn của đời sống xã hội, nó cũng có những quy luật vận động phát triển riêng, trong đó tính dân tộc được coi là thuộc tính cơ bản của văn hóa, phản ánh mối quan hệ giữa dân tộc và văn hóa trong điều kiện dân tộc đã hình thành. Tính dân tộc là nội dung quan trọng, luôn được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu, vì đó là tính chất cốt lõi của một nền văn hóa. Như vậy văn hóa của một dân tộc hiểu theo nghĩa căn bản nhất là toàn bộ những cái qua đó một dân tộc tự biểu hiện mình, tự nhận biết mình và giúp các dân tộc khác tự nhận biết mình. Bởi vậy, văn hóa là nơi thể hiện rõ nhất tinh thần dân tộc, bản sắc dân tộc, đồng thời cũng là nơi thể hiện ý thức và những phương thức tiếp nhận những giá trị của các dân tộc khác theo tinh thần cùng tham dự và cùng chia sẻ. Từ rất nhiều cách định nghĩa trên về văn hóa, song chúng ta có thể thấy: văn hóa không chỉ là lối sống, là tổng hợp những lĩnh vực khác nhau như: khoa học, tín ngưỡng, tôn giáo, văn học nghệ thuật… mà nó còn là những đặc trưng phổ quát nhất, tồn tại trong tất cả các giá trị vật chất, tinh 14 thần do con người sáng tạo ra. Văn hóa không phải là một vật cụ thể, người ta không thể tìm được sự vật hiện hình nào dưới cái tên văn hóa, nhưng ngược lại sự vật hiện tượng nào kể cả trong tự nhiên, một khi đã đặt trong mối quan hệ với con người đều biểu hiện mặt văn hóa của nó. Như vậy văn hóa vừa là cụ thể, vừa là trừu tượng. Từ những sự lý giải trên, theo chúng tôi: Văn hóa là hệ thống những giá trị chuẩn mực xã hội biểu hiện ra trong mọi lối sống nếp sống vật chất và tinh thần của một cộng đồng người hay một quốc gia. - Khái niệm bản sắc văn hóa Cốt lõi của văn hóa là bản sắc văn hóa. Theo nghĩa từ điển (Hán Việt), bản sắc được giải thích như sau: bản là gốc, cái thuộc về phần mình, gốc là đầu mọi việc; sắc là màu, vẻ, dung mạo. Bản sắc còn có một nghĩa khác là tính chất đặc biệt vốn có. Trong tiếng Anh, từ identity có nghĩa là đồng nhất. Sự đồng nhất hoá làm nên bản sắc của một đối tượng… Với những nghĩa trên, đã đưa đến nhiều cách giải thích khác nhau về cụm từ “bản sắc văn hoá”, chẳng hạn: - Bản sắc văn hóa gắn với quá trình hình thành và phát triển của đối tượng. - Bản sắc văn hóa thể hiện sự đồng nhất qua hàng loạt sự vật, hiện tượng. - Bản sắc văn hóa chứa đựng những nét riêng để có thể nhận ra diện mạo và bản chất đối tượng. - Bản sắc văn hóa có xu hướng tiến tới đồng nhất hoá nên không phải là những cái riêng lẻ, chi tiết, vì vậy, càng khái quát càng dễ tiếp cận bản sắc của một đối tượng. Bản sắc văn hóa bao hàm trong nó tất cả những yếu tố trên. Bản sắc văn hóa được thể hiện trên cả hai bình diện vật thể và phi vật thể. Tuy nhiên, bản sắc văn hóa không phải là các sự vật hiện tượng cụ thể, cũng không phải là các phương thức về y dược, ẩm thực, âm nhạc, hội họa,... Bản sắc văn hóa 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan