Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giọng điệu trong di cảo thơ chế lan viên...

Tài liệu Giọng điệu trong di cảo thơ chế lan viên

.PDF
91
323
132

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 NGUYỄN ANH TUẤN NGUYỄN ANH TUẤN CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM GIỌNG ĐIỆU TRONG DI CẢO THƠ CHẾ LAN VIÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM KHÓA: 19 HÀ NỘI, 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 NGUYỄN ANH TUẤN GIỌNG ĐIỆU TRONG DI CẢO THƠ CHẾ LAN VIÊN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: TS. La Nguyệt Anh (Chữ ký của người hướng dẫn) HÀ NỘI, 2017 LỜI CẢM ƠN Trong thời gian thực hiện luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam với đề tài “Giọng điệu trong Di cảo thơ Chế Lan Viên”, tôi đã nhận được sự quan tâm của Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, của quí thầy cô giảng dạy chuyên ngành Văn học Việt Nam (Cao học khóa 19 – Đại học Sư phạm Hà Nội 2). Đặc biệt, tôi vinh dự nhận được sự giúp đỡ hết sức tận tình và nhiệt thành của Tiến sĩ La Nguyệt Anh - người trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin được gửi lời cảm ơn đến Tiến sĩ La Nguyệt Anh, Ban Chủ nhiệm khoa Ngữ văn, quí thầy cô, các phòng ban của trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 cùng gia đình, bạn bè đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt thời gian qua. Xin chân thành cảm ơn! Học viên Nguyễn Anh Tuấn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực, không trùng lặp với bất cứ đề tài nào. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Học viên Nguyễn Anh Tuấn MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cảm ơn Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7 4. Mục đích nghiên cứu 7 5. Phương pháp nghiên cứu 7 6. Đóng góp của luận văn 8 7. Cấu trúc của luận văn 8 NỘI DUNG 9 Chương 1. Những vấn đề chung về giọng điệu và Di cảo thơ Chế Lan Viên 9 1.1. Giọng điệu và giọng điệu nghệ thuật 9 1.1.1. Giọng và giọng điệu 9 1.1.2. Giọng điệu thơ trữ tình 12 1.2. Chế Lan Viên và hành trình kiến tạo giọng điệu nghệ thuật 15 1.3. Vị trí Di cảo thơ trong sự nghiệp thi ca của Chế Lan Viên 20 Chương 2. Những sắc thái giọng điệu đặc trưng trong Di cảo thơ Chế Lan Viên 23 2.1. Giọng suy tư, chiêm nghiệm 23 2.1.1. Suy tư, chiêm nghiệm về bản thể 23 2.2.2. Suy tư, chiêm nghiệm về thế sự, đời thường 32 2.2. Giọng chất vấn, đối thoại 36 2.2.1. Chất vấn, đối thoại về nghề 36 2.2.2. Chất vấn, đối thoại với người 43 Chương 3. Những yếu tố nghệ thuật góp phần biểu hiện giọng 54 điệu Di cảo thơ Chế Lan Viên 3.1. Ngôn ngữ thơ 54 3.1.1. Ngôn ngữ thơ giàu chất trữ tình 54 3.1.2. Ngôn ngữ thơ đậm tính tự sự 57 3.2. Sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ 59 3.2.1. So sánh 59 3.2.2. Đối lập, tương phản và tương đồng 62 3.2.3. Câu hỏi tu từ 66 3.3. Thể thơ và nhịp điệu 68 3.3.1. Sự đa dạng trong nhịp điệu thơ tứ tuyệt 68 3.3.2. Cách tạo nhịp lạ trong thể thơ tự do 71 KẾT LUẬN 77 TÀI LIỆU THAM KHẢO 80 PHỤ LỤC 85 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Vận động và phát triển là phương thức tồn tại của văn học nghệ thuật. Quy luật ấy mang tính phổ quát cho mọi nền văn học trên thế giới và ở mọi thời đại. Đối với những nhà văn, nhà thơ lớn đã từng sống và sáng tác vào những thời điểm lịch sử và văn học chuyển mình mang ý nghĩa bước ngoặt thì dấu ấn của chủ thể sáng tạo càng thể hiện rõ nét trong tác phẩm. Nền văn học viết Việt Nam đã có lịch sử hình thành và phát triển trên một nghìn năm nay. Qua bao nhiêu bước thăng trầm, các thế hệ nhà văn Việt Nam đã xây dựng nên một nền văn học tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong cả chặng đường dài phát triển, có thể khẳng định văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay được xem là giai đoạn có nhiều bước biển chuyển mạnh mẽ nhất. Đây là thời kỳ văn học vận động và không ngừng đổi mới theo xu hướng hiện đại hóa và dân chủ hóa cả về nội dung và hình thức biểu hiện. Sự chuyển biến này có ý nghĩa cách mạng, làm thay đổi phạm trù văn học, chuyển văn học Việt Nam từ thời trung đại sang hiện đại. Nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, để chiếm lĩnh những giá trị nhân văn và giá trị thẩm mĩ của nó, chúng ta không thể không chú ý đến sự vận động và phát triển chung của cả nền văn học Việt Nam và cụ thể hóa ở những tác gia, tác giả tiêu biểu. 1.2. Chế Lan Viên là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Con đường thơ của Chế Lan Viên trải dài hơn nửa thế kỷ, qua ba thời kỳ: thời kỳ trước cách mạng tháng Tám năm 1945, thời kỳ kháng chiến và thời kỳ sau 1975. Thơ ông luôn có sự tìm tòi, khám phá và sáng tạo, gắn với một phong cách đặc sắc và có vẻ đẹp riêng. Thơ Chế Lan Viên được đánh giá là đạt đến đỉnh cao về tư tưởng, nghệ thuật và có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn học nước nhà. Trong tiến trình phát triển của thơ Việt Nam hiện đại, hiếm có một nhà thơ nào chiếm lĩnh được cả ba đỉnh cao ở cả ba thời kỳ sáng tác như Chế Lan Viên. Chính tài năng và những thành tựu to lớn trong sự nghiệp sáng tác mà Chế Lan Viên đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt là 2 những vần thơ Di cảo được người bạn đời của ông - nhà văn Vũ Thị Thường miệt mài sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu cùng bạn đọc ba tập Di cảo thơ vào các năm 1992, 1993, 1996. Mặc dù phần lớn Di cảo thơ mới chỉ ở dạng phác thảo nhưng tác phẩm đã cho ta thấy một Chế Lan Viên chân thực, luôn trăn trở không ngừng để đổi mới bản thân, một con người dám sống thật với chính mình, dám nói lên tiếng nói của mình. 1.3. Trong thế giới nghệ thuật của Di cảo thơ Chế Lan Viên thì vấn đề “giọng điệu” giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Nó đã góp phần tạo nên chân dung một Chế Lan Viên mới, mang lại cho Di cảo thơ những giá trị riêng. Giọng điệu nghệ thuật thơ Chế Lan Viên đã được nghiên cứu ở nhiều mức độ khác nhau. Nhưng việc nghiên cứu chuyên sâu giọng điệu Chế Lan Viên ở từng giai đoạn sáng tác vẫn còn nhiều bỏ ngỏ với nhiều khía cạnh cần được kiến giải thấu đáo, thấy được những đặc sắc nghệ thuật trong từng giai đoạn sáng tác của tác giả. Bởi vậy, nghiên cứu giọng điệu trong Di cảo thơ Chế Lan Viên là một việc làm hữu hiệu để thấy được nét độc đáo trong phong cách, sự ổn định, vận động, biến đổi cùng những đóng góp của Chế Lan Viên trong tiến trình thơ Việt Nam hiện đại. 1.4. Thơ Chế Lan Viên “là một minh chứng cho sức nghĩ, sức cảm của một tâm hồn thơ không ngừng tỏa sáng trong suốt cuộc đời từ những vần thơ tài năng của tuổi mười sáu trong những trang Di cảo cuối đời” [1, tr.12]. Nhiều tác phẩm của Chế Lan Viên được đưa vào giảng dạy trong chương trình ngữ văn ở các cấp học từ Trung học đến Cao đẳng, Đại học. Tìm hiểu thơ Chế Lan Viên nói chung, vấn đề giọng điệu trong Di cảo thơ Chế Lan Viên nói riêng sẽ góp phần thiết thực vào việc giảng dạy, nghiên cứu tác giả, tác phẩm trong nhà trường. Chúng tôi hi vọng việc nghiên cứu đề tài này sẽ là sự để bổ sung thêm kiến thức về Chế Lan Viên đồng thời góp phần khẳng định tài năng và phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Giọng điệu trong Di cảo thơ Chế Lan Viên”. 3 2. Lịch sử vấn đề Chế Lan Viên là cây đại thụ trong thi ca Việt Nam hiện đại. Thơ Chế Lan Viên thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu phê bình văn học với nhiều ý kiến. Đặc biệt, ngay khi ba tập Di cảo thơ của Chế Lan Viên ra mắt đã dành được những tình cảm yêu mến của bạn đọc, sự quan tâm lớn của các nhà nghiên cứu phê bình. Trong Đôi điều suy nghĩ bộc bạch cùng bạn đọc, tác giả Phong Lan viết: “Cũng giống như bất kỳ nhà văn, nhà thơ lớn hiện đại nào khác, việc đánh giá từng tác phẩm nói riêng hay toàn bộ sự nghiệp văn chương của Chế Lan Viên nói chung trải dài trong suốt sáu mươi năm, hẳn không tránh khỏi ở thời kỳ này hay thời kỳ khác, ở tác giả này hay tác giả khác, do chi phối của lịch sử hay sự ràng buộc của điều kiện khách quan, chủ quan nào đó mà đã có nhiều cách đánh giá thơ ông khác biệt nhau, thậm chí trái ngược nhau tùy theo quan điểm thẩm định riêng của mỗi thời và mỗi người. Đó cũng là điều bình thường và là quyền của người viết. Lẽ thường xưa nay, nhà văn tầm vóc càng lớn, các tác phẩm của họ càng đa diện, đa thanh, đa sắc, đa tầng bao nhiêu thì sự đánh giá họ càng phong phú, phức tạp bấy nhiêu. Tuy nhiên, rồi sự định giá công tâm sáng suốt và đáng tin cậy nhất bao giờ cũng là của thời gian và các thế hệ độc giả hôm nay và mai sau” [25, tr.32]. Trần Thanh Đạm đã viết: “những bài thơ đang còn dở dang anh để lại trong Di cảo phần lớn là những chiếc lá thơm hái lúc về già, mỗi chiếc mang một chút hương tư tưởng từ cuộc đời anh như cây đó lâu năm ruột hóa thành trầm và hương trầm đó đã chuyển chất thơm lên lá. Đó là những mảnh suy tư và xúc cảm về vũ trụ, về nhân sinh, về nghệ thuật, về thơ”. Đồng thời ông khẳng định: “Trong các nhà thơ của thế kỉ chúng ta, Chế Lan Viên vẫn là nhà thơ giàu chất triết lí hơn cả” [48, tr.106]. Tác giả Võ Tấn Cường viết bài Di cảo thơ Chế Lan Viên coi đó là “di chúc thơ về cuộc đời và nghệ thuật... đã gây nên những dao động về cảm xúc thẩm mỹ trong người đọc” và nhà thơ “hướng về những triết lý nhân sinh sâu thẳm và sinh 4 tồn của nhân loại”. Tác giả Trần Hoài Anh với bài viết Nhà thơ trong quan niệm thơ Chế Lan Viên đã nhận xét: “trong tư duy của Chế Lan Viên nhà thơ không phải là người bình thường mà vẫn là người nghệ sĩ có phẩm chất khác thường. Song cái khác thường ở đây không phải là một kiểu lập dị, xa lạ đối với thế giới con người mà đó là cái khác thường cần có và phải có trong phẩm chất mỗi thi nhân.” [45, tr.93]. Tác giả Huỳnh Văn Hoa trong bài Chế Lan Viên với cái nhìn nghệ thuật trong viết cho rằng: “vấn đề sống chết, ý nghĩa thời gian, về công nghiệp một đời người, về cõi quên là những vấn đề triết học muôn đời của con người” [40, tr.287]. Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên trong bài Chế Lan Viên - Người đi tìm mặt nhận xét: “Thành thực giãi bày và thừa nhận những góc khuất đời thật của mình, đó là điểm khá thú của Di cảo thơ Chế Lan Viên” [48, tr.216]. Những ý kiến trên cho thấy sự chuyển hướng trong tư duy thơ, bản lĩnh nghệ thuật của Chế Lan Viên, khẳng định những đóng góp đáng trân trọng của Chế Lan Viên qua những vần thơ được tiếp tục công bố sau khi tác giả qua đời. Vấn đề giọng điệu nghệ thuật ở thơ Chế Lan Viên sau 1975, đặc biệt là giọng điệu trong ba tập Di cảo thơ cũng nhận được nhiều đánh giá. Bản thân nhà thơ đã tuyên ngôn về sự chuyển giọng trong sáng tác thi ca của mình: “Giọng cao bao nhiêu năm, giờ anh hát giọng trầm” (Giọng trầm) [62, tr.187]. Có ý kiến cho rằng “giọng trầm” trong Di cảo thơ là bước lùi, yếu đuối. Tác giả Nguyễn Bá Thành trong bài Đọc hai tập Di cảo thơ cũng nhận thấy: “Chế Lan Viên chủ động đổi giọng”, “cố tình xuống giọng” [43, tr.114]. Theo tác giả, giọng điệu trong Di cảo: “là giọng thơ đơn lẻ, não nùng và có phần chua chát”. Giọng thơ từ “than” thành “hỏi”, từ “hát” thành “nói”: “Xưa tôi hát mà bây giờ tôi tập nói - Chỉ nói thôi mới nói hết được đời”; “Thơ Chế Lan Viên giờ đây là lời độc thoại để tự trấn an”; “ở Di cảo Chế Lan Viên rơi vào cái trận đồ siêu hình... hạ thấp thơ mình” [43, tr.116]. Bên cạnh đó, khi nhận xét về giọng điệu trong Di cảo thơ, có nhiều ý kiến khẳng định tính tích cực của sự chuyển giọng trong sáng tác của Chế Lan Viên. Trần Thanh Đạm khi tìm hiểu Những vần thơ triết lý của Chế Lan Viên qua 5 những trang Di cảo đã nhận thấy “cách nói riêng” của Chế Lan Viên và cho rằng: “Cái hay của những bài thơ triết lý như trên thường ở giọng thơ. Cái khác nhau cũng ở đó. Có giọng than thở, đau buồn. Có giọng ung dung, thanh thản. Giọng thơ Chế Lan Viên thuộc loại thứ hai” [48, tr.117]. Tác giả Hoài Anh trong bài Chế Lan Viên - một bản lĩnh, một tâm hồn thơ phong phú, đa dạng và bí ẩn lại nhận xét về những vần thơ cuối đời của Chế Lan Viên “mang giọng tiêu tao, hiện thực pha màu huyền ảo”[45, tr.102]. Tác giả Nguyễn Quốc Khánh trong bài viết Di cảo thơ Chế Lan Viên - hành trình tìm lại chính mình đã khẳng định những vần Di cảo “đã giúp cho chúng ta nhìn ra nhiều mặt khác nhau của một thiên tài”: “Chúng ta từng biết, từng quen với “màu sen đỏ rực”, cùng với giọng cao hùng tráng của thơ ông suốt ba chục năm qua. Nay chúng ta cũng cần biết “nỗi buồn hoa súng”, và giọng trầm buồn nhưng không kém phần âm vang và ám ảnh của thơ ông” [47, tr.432]. Nhà thơ Vũ Quần Phương qua bài Chế Lan Viên trong Di cảo đã viết: “Đọc các tập Di cảo... chúng ta được biết thêm một thế giới khác nữa của Chế Lan Viên. Đây chính là thơ bổ sung, thế giới bổ sung vào đời thơ Chế Lan Viên. Chúng ta sẽ còn tốn nhiều bút mực về các thi phẩm này” [46, tr.218]. Đánh giá về những bài thơ trong Di cảo, nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: “Về kết cấu bài có thể chưa hoàn chỉnh, đôi câu, đôi đoạn còn non lép hoặc trùng chất liệu với các bài khác, nhưng chủ đề, ý tứ đã rõ và chúng như có riêng một giọng thơ, một cách nói. Cái cách nói như đang chuyện trò, đang lập luận, bình dị, bình dân” [46, tr.220-221]. Tác giả nhận thấy ở những vần thơ Di cảo, Chế Lan Viên “Không lạc quan mà là chiêm nghiệm những chiêm nghiệm trụi trần, không màu mè mỹ tự nhưng sâu sắc” [47, tr.223]. Đoàn Trọng Huy trong nhiều bài viết đã đề cập đến vấn đề giọng điệu thơ Chế Lan Viên sau 1975, nhất là giọng điệu Di cảo thơ. Khi tìm hiểu Khuynh hướng vận động thơ Chế Lan Viên từ sau 1975, tác giả Đoàn Trọng Huy nhận thấy: “Chế Lan Viên luôn tỉnh táo lựa chọn giọng điệu phù hợp với thời sự” [20, tr.113]. Tác giả cho rằng: “Sự chuyển giọng đâu chỉ là yêu cầu của hình thức nghệ thuật đơn thuần. Giọng thơ nói lên chính chuyển biến điệu tâm hồn nghệ 6 sĩ” [20, tr.115]. Cụ thể hơn, trong bài viết Đọc những trang để lại, thêm hiểu một hồn thơ Di cảo, Đoàn Trọng Huy nhận thấy: “Những tập thơ tiếp theo nhau từ sau 1975 Hái theo mùa, Hoa trên đá, Ta gửi cho mình đã đánh dấu một chặng đường sáng tác mới của Chế Lan Viên, chặng đường thơ chuyển mạnh vào loại đề tài thế sự đời thường với giọng trầm tư sâu lắng” [21, tr.209]. Trong bài viết Chế Lan Viên - Độc đáo một tiếng thơ giàu sắc điệu, tác giả Đoàn Trọng Huy đã khái quát Sự vận động và biến hoá giọng điệu thơ Chế Lan Viên. Theo tác giả: “một cách tóm lược, ta có thể nhận diện được giọng điệu cơ bản như âm hưởng thơ của một thời”. Theo đó, tác giả đã phác thảo “một cái nhìn đại thể” về giọng điệu thơ Chế Lan Viên: “- Thời kỳ đầu đời: Giọng điệu sầu hận, kinh hoàng, gay gắt. - Thời kỳ từ sau Cách mạng: Giọng điệu oai nghiêm, tha thiết, hào sảng. - Thời kỳ cuối đời: Giọng điệu thâm trầm, suy tưởng, day dứt. Mỗi thời kỳ, giai đoạn những giọng điệu ấy lại mang những sắc thái, những cung bậc phong phú nội tại theo những càm hứng đa dạng, cụ thể khác nhau”. Tác giả khẳng định: “Tiếng thơ Chế Lan Viên là một quá trình biểu hiện của một giọng điệu biến hoá đa thanh sắc” [21, tr.216]. Ý kiến của Đoàn Trọng Huy vừa khái quát, vừa cụ thể, cho chúng tôi một điểm tựa và sự gợi mở quí báu trong quá trình tìm hiểu giọng điệu thơ Chế Lan Viên nói chung và giọng điệu Di cảo thơ Chế Lan Viên nói riêng. Như vậy, qua các ý kiến trên, có thể thấy, các nhà nghiên cứu đã đề cập đến giọng điệu chủ đạo và những sắc điệu riêng trong việc biểu hiện những nội dung trữ tình trong Di cảo thơ của Chế Lan Viên. Đó là tiếng thơ với những trăn trở suy tư khi nghĩ về thế sự, đời tư, khi tranh biện, đối thoại, chất vấn… Nhưng do mục đích nghiên cứu và những định hướng tiếp cận, chưa có công trình nào tập trung tìm hiểu chuyên sâu về giọng điệu nghệ thuật trong Di cảo thơ Chế Lan Viên hoàn chỉnh cả về hình thức biểu hiện lẫn nội dung. Trên cơ sở lịch sử vấn đề đã nêu ở trên, chúng tôi sẽ cố gắng tìm tòi phát hiện vấn đề giọng điệu trong Di cảo thơ Chế Lan Viên một cách toàn diện hơn. 7 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Giọng điệu trong Di cảo thơ Chế Lan Viên. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung nghiên cứu: Những vấn đề lí luận về giọng điệu, giọng điệu nghệ thuật thơ Chế Lan Viên và những yếu tố nghệ thuật góp phần biểu hiện giọng điệu ấy. - Phạm vi tư liệu nghiên cứu: ba tập Di cảo thơ I, II, III (1992, 1993, 1996) của Chế Lan Viên đã xuất bản gồm 566 bài thơ. Khi cần thiết, chúng tôi có sự so sánh với các tập thơ khác của Chế Lan Viên và của các nhà thơ cùng thời. 4. Mục đích nghiên cứu Về mặt lí luận, chúng tôi cố gắng khẳng định thêm vai trò của giọng điệu trong sáng tác văn chương. Trên cơ sở đó, luận văn thực hành nghiên cứu ba tập Di cảo thơ và tập trung vào vấn đề trọng tâm là giọng điệu - một trong những phương diện quan trọng thể hiện phong cách nghệ thuật. Từ đó, chúng tôi hi vọng có thể góp thêm tiếng nói khẳng định vị trí đặc biệt của ba tập Di cảo thơ trong hành trình nghệ thuật thơ Chế Lan Viên và phần nào nhận diện toàn vẹn, chính xác hơn chân dung của nhà thơ. Qua đó làm nổi bật giá trị nội dung Di cảo thơ cùng bước phát triển về phong cách nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, chỉ ra quá trình vận động của thơ Chế Lan Viên. Mục đích cuối cùng mà đề tài hướng tới là nhằm vận dụng vào việc học tập, nghiên cứu của sinh viên, đặc biệt là sinh viên khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 cùng những người yêu thích thơ Chế Lan Viên. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn này có sự phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau: 5.1. Phương pháp thống kê, phân loại Phương pháp này giúp chúng tôi thống kê, tập hợp những bài thơ của Chế Lan Viên trong ba tập Di cảo thơ, sau đó tiến hành phân loại theo những tiêu chí khác nhau gắn với mục đích nghiên cứu của đề tài. 8 5.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu Đánh giá, khẳng định một vấn đề bất kì, người nghiên cứu bao giờ cũng phải đặt vấn đề ấy trong mối quan hệ với những vấn đề khác và chỉ trong quan hệ so sánh đối chiếu, vị trí, giá trị của vấn đề mới được khẳng định. Với phương pháp này, tác giả luận văn sẽ làm rõ hơn quá trình vận động, chuyển biến tất yếu trong thơ Chế Lan Viên, làm rõ được nét độc đáo của giọng điệu trong Di cảo thơ. Chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu chủ yếu trên bình diện lịch đại nghĩa là nhằm so sánh đối chiếu Di cảo thơ Chế Lan Viên với những sáng tác khác của ông để thấy sự vận động, phát triển, đổi mới của hồn thơ. 5.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp Sau khi thống kê số liệu và có những so sánh, tác giả luận văn sẽ tiến hành phân tích các ý kiến, các chi tiết nghệ thuật, từ đó đưa ra sự nhìn nhận đánh giá về giọng điệu Di cảo thơ. Từ những phân tích đó sẽ tổng hợp thành những luận điểm chính nhằm làm rõ những sắc thái giọng điệu đặc trưng trong Di cảo thơ Chế Lan Viên cũng như các yếu tố góp phần biểu hiện giọng điệu nghệ thuật của ông. 6. Đóng góp của luận văn Chỉ ra những sắc thái giọng điệu trong Di cảo thơ Chế Lan Viên, những yếu tố nghệ thuật góp phần thể hiện giọng điệu thơ của ông. Từ đây có thể thấy được: - Thơ Chế Lan Viên ở hành trình cuối có sự vận động, thay đổi trong tư duy nghệ thuật, quan niệm của nhà thơ. - Phong cách thơ Chế Lan Viên thống nhất, nhưng ở mỗi giai đoạn phát triển có những biểu hiện đa dạng, phong phú. 7. Cấu trúc của luận văn Tương ứng với những mục đích nghiên cứu đặt ra, ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được triển khai trong ba chương như sau: Chương 1. Những vấn đề chung về giọng điệu và Di cảo thơ Chế Lan Viên. Chương 2. Những sắc thái giọng điệu đặc trưng trong Di cảo thơ Chế Lan Viên. Chương 3. Những yếu tố nghệ thuật góp phần biểu hiện giọng điệu Di cảo thơ Chế Lan Viên 9 NỘI DUNG CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỌNG ĐIỆU VÀ DI CẢO THƠ CHẾ LAN VIÊN 1.1. Giọng điệu và giọng điệu nghệ thuật 1.1.1. Giọng và giọng điệu Theo Từ điển văn học, giọng được xác định: “Độ cao thấp mạnh yếu của lời nói, tiếng hát, cách phát âm riêng của một địa phương, cách diễn đạt bằng ngôn ngữ, biểu thị tình cảm thái độ nhất định, gam đã xác định âm chủ”[15, tr.298]. Cũng theo Từ điển văn học, giọng điệu được hiểu là: “Giọng nói, lối nói biểu thị một thái độ nhất định; Ngữ điệu” [15, tr.295]. Nguyễn Đăng Điệp cho rằng: giọng điệu vốn được ghép trên cơ sở hai thành tố: giọng và điệu. Về cơ bản giọng “biểu thị mặt âm thanh “khí lực” của người nói”, điệu “chủ yếu biểu thị đường nét, màu sắc của giọng” [5, tr.34]. Như vậy, điểm chung giữa giọng và giọng điệu là đều nhấn mạnh đặc tính âm thanh của lời nói. Khi đề cập đến vấn đề âm thanh (sound) của diễn ngôn, giới nghiên cứu thường sử dụng hai khái niệm voice và tone. Trong đó voice được hiểu là giọng; tone được hiểu là giọng điệu. Bách khoa thư Mỹ định nghĩa: “Voice là âm thanh được sinh vật phát ra”, “Tone là âm thanh được xét trong sự can thiệp của trường độ, cường độ, âm sắc và âm lượng của nó” [dẫn theo 11, tr.9]. K.Danzger và S.Johnson khẳng định giọng điệu (tone): “Là một phạm trù có liên quan đến tất cả các yếu tố tạo nên văn phong (style) bao gồm: cách diễn đạt, hình tượng, cú pháp, âm thanh và nhịp điệu, là biểu hiện của một thái độ về phía đối tượng (object) được nêu rõ hay ngụ ý” [dẫn theo 11, tr.10]. Katie Wales trong Từ điển phong cách học quan niệm: “Giọng được dùng để miêu tả ai là người nói”. “Giọng điệu được dùng với nghĩa một phẩm chất âm thanh đặc biệt nào đó có liên quan đến những xúc cảm hoặc tình cảm đặc biệt nào đó. Đôi lúc giọng điệu được dùng để chỉ một chất giọng phổ quát được điều hành 10 bởi một tác giả ẩn” [dẫn theo 11, tr.11]. M. Bakhtin lại đưa ra khái niệm “đa thanh” nhằm ghi nhận sự phát triển của giọng và giọng điệu. Trong văn học, giọng điệu (hay giọng điệu nghệ thuật) là yếu tố quan trọng cấu thành nét đặc trưng riêng cho mỗi loại hình lời văn nghệ thuật, nó góp phần khu biệt đặc trưng phong cách của nhà văn, khuynh hướng sáng tác. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, giọng điệu biểu hiện: “Thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với các hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn, qui định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa, gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…” [13, tr.108]. Tiến hành hàng loạt phân biệt với ngữ điệu, nhạc điệu, nhịp điệu, tiết điệu, Nguyễn Đăng Điệp đã thiết lập một hệ thống khái niệm đầy đủ, cặn kẽ về giọng điệu. Ông cho rằng giọng điệu là một hiện tượng siêu ngôn ngữ, nó không nằm ở trong một thành tố, một khu vực cục bộ mà nó toát lên từ toàn bộ tác phẩm. “Giọng điệu là một phương diện biểu hiện quan trọng của chủ thể sáng tạo” [5, tr.46] và: “Giọng điệu thể hiện thái độ, lập trường, cách nhìn của chủ thể phát ngôn về đối tượng được nói đến và đối tượng mà lời văn ấy hướng tới” [5, tr.341]. Giọng điệu là thứ hình thức mang tính quan niệm, bao giờ cũng là sản phẩm sáng tạo đích thực của nhà văn và mang tính chất lượng, giọng điệu chính là thần thái toát lên từ tác phẩm. Tìm hiểu giọng điệu chính là tìm hiểu ngôn ngữ chủ thể - nhân lõi tạo thành phong cách nghệ thuật của nhà văn. Giọng điệu trong văn chương không phải được thể hiện ở chỗ nói cái gì (nội dung nói) mà ở chỗ nói như thế nào (hình thức nói). Nhà văn, nhà thơ trước khi bắt tay vào viết phải bắt đầu từ “khúc ca bên trong” như cách nói của Larmartine, phải chọn được một giọng điệu từ một “tâm trạng mang màu sắc nhạc tính” (quan niệm của M. Amaudov). Giọng điệu là một thành tố quan trọng để làm nên “cấu trúc chỉnh thể” của tác phẩm nghệ thuật, tạo nên phong cách nghệ thuật của người nghệ sĩ, là thước đo tài năng của người nghệ sĩ. 11 Trong văn học, khái niệm giọng điệu vừa được biểu hiện ở phương diện ngữ âm: trầm, bổng, trong, đục, nhanh, chậm, dài, ngắn... vừa được biểu hiện ở phương diện phong cách: nóng, lạnh, nhu, cương, khoan thai hay dồn dập, sôi nổi, trân trọng hay mỉa mai, khinh bỉ hay ngợi ca, yêu thương hay căm giận, mềm mại, dịu dàng hay cứng cỏi, kiên quyết, tha thiết gắn bó hay thờ ơ, lãnh đạm... Giọng điệu là âm hưởng chung toát lên từ toàn bộ tác phẩm nghệ thuật. Nó là hình thức bộc lộ rõ nhất chủ quan người nghệ sĩ. Toàn bộ cách cảm, cách nhìn, phương pháp tư duy, kiểu nhận thức thế giới, tình cảm, thái độ, lập trường, quan điểm, đạo đức của nhà văn được thể hiện đậm nét qua giọng điệu, tạo nên giọng nói riêng, phong cách riêng, mang dấu ấn của cá tính sáng tạo, không thể bắt chước hoặc thay thế. Vì vậy mà giọng điệu văn chương còn có ý nghĩa như một tiêu chí để xác định chân tài của nhà văn. Như thế đứng ở bình diện thi pháp, chủ yếu chúng ta tìm hiểu các giọng điệu gắn với tình điệu, với văn khí, với hơi văn, mạch văn, giọng văn, cái giai điệu, cái “hồn” chi phối toàn tác phẩm và đây chính là một trong những yếu tố quan trọng nhất để phân biệt nhà văn này so với nhà văn khác. Nguyễn Đăng Điệp cho rằng: “Giọng điệu tác phẩm là biểu hiện cụ thể của giọng điệu nhà văn, và đến lượt mình giọng điệu nhà văn là cơ sở tạo nên âm hưởng chung của một thời đại văn học. Tuy nhiên, giọng điệu nhà văn, nhà thơ không phải là một hiện tượng tĩnh tại, bất biến mà vận động, biến hóa. Mỗi một nghệ sĩ lớn thường là một nghệ sĩ tạo ra được một dải phổ giọng điệu rộng lớn, phong phú mà thống nhất. Đó là sự thống nhất của cái đa dạng” [5, tr.342]. Từ đó nó đề cao, coi trọng vai trò chủ thể sáng tạo. Có thể phân loại giọng điệu theo nhiều cách: Phân loại theo sắc thái tình cảm: giọng trang trọng hay thân mật, giọng mến thương hay gay gắt, dịu dàng hay dữ dội...; Theo nội dung tình cảm: bi, hài, anh hùng ca, lãng mạn hiện thực; Theo khuynh hướng cảm hứng: thông cảm, phê phán, khẳng định, phủ định, yêu thương, căm thù; Theo cấu trúc giọng: giọng đơn, giọng chính, giọng phụ; Theo cấu trúc thể loại: tự sự, trữ tình, chủ quan, khách quan... Ngoài ra còn có thể 12 phân chia giọng theo tính chất, đặc điểm của giọng: giọng tường thuật, giọng nghi vấn, giọng mệnh lệnh, giọng hát, giọng ngâm... 1.1.2. Giọng điệu thơ trữ tình Khrapchencô nhận định: “Đề tài, tư tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện trong một môi trường giọng điệu nhất định, trong phạm vi của thái độ cảm xúc nhất định đối với đối tượng sáng tác, đối với những mặt khác nhau của nó” [24, tr.173]. Thực tế cho thấy, giọng điệu là một thành tố không thể thiếu được trong việc xây dựng và triển khai tư tưởng, xúc cảm của nhà thơ. Ở một phương diện khác, giọng điệu chịu áp lực của thể loại. Thơ trữ tình chủ yếu được nói đến như một bản tự thuật tâm trạng cả chủ thể và khách thể gần gũi nhau đến mức “trong đa số trường hợp xem như hòa lẫn cùng nhau”. Trong các bài thơ trữ tình nhập vai, nhân vật có mối quan tâm riêng, có cảnh ngộ và đời sống riêng. Việc đẩy nhân vật trữ tình ra khỏi tầm kiểm soát thông thường của nhà thơ đã biến nhân vật có khi trở thành đối tượng nhận thức của chính tác giả. Dù vậy, nhìn vào mối quan hệ ngầm ẩn bên trong, người đọc có thể nhận ra nhân tố tự thuật tâm trạng và nhân tố nhập vai. Hai nhân tố này khiến nhà thơ trở thành “một sự thống nhất trong hai con người”. Chính trên cái nền thống nhất có tính bản chất này mà thơ trữ tình trực tiếp bộc lộ giọng điệu tác giả, được chảy trong một trường nhìn, một kênh giọng chỉ đạo. Vì thế, giọng điệu trữ tình là sự tương hợp nội tại giữa ý thức có tính độc thoại và sự lựa chọn thể loại phù hợp. Thơ trữ tình có điểm xuất phát từ thế giới bên trong, thế giới tinh thần phong phú và bí ẩn của tâm hồn, của “trạng thái nội cảm” (Hêghen). Nó là “một điệu hồn đi tìm những hồn đồng điệu” (Tố Hữu), là “tiếng vang cảm xúc”, “tiếng lòng”... Thơ trữ tình là kiểu thơ thiên về tình cảm. Trong thơ trữ tình luôn đề cập tới “cái tôi trữ tình” là biểu hiện tập trung của tính chủ quan trong thơ trữ tình. Bởi vậy ở đó cuộc sống được nhận thức, lý giải, đánh giá bằng suy nghĩ, tình cảm, thái độ, nhân cách của chủ thể trữ tình. Trong thơ trữ tình, nhà thơ 13 mượn lời thơ để nói với chính mình, để tự giải tỏa những xúc cảm, bức xúc đang dồn dập trong lòng. Nó bộc lộ tất cả những gì trong sâu thẳm lòng người. Giọng điệu nổi bật và bao trùm của thơ trữ tình là tự biểu hiện, thể hiện trực tiếp, trực diện quan niệm, thái độ lập trường của nghệ sĩ mà giọng điệu thơ mang tính chủ quan. Tự biểu hiện mình (và thời đại mình) qua niềm vui, nỗi khổ, đớn đau, hạnh phúc, chua cay, ngọt bùi. Giọng điệu chung để thể hiện nội dung thơ trữ tình là trình bày, giãi bày, tâm tình, thổ lộ các nỗi niềm, suy tư, khát vọng để giải tỏa, giải thoát hoặc tìm sự đồng cảm, sẻ chia. Theo Bakhtin “cả những cái xa lạ với mình nhà thơ cũng nói đến bằng tiếng nói của mình” [dẫn theo 11, tr.34]. Nhà thơ trữ tình có thể viết về cái chung hay cái riêng, nhưng dù là chung hay riêng bao giờ cũng phải gắn với một xúc cảm mãnh liệt, chân thành tạo nên giọng điệu riêng của mình, thơ trữ tình là “bản tự thuật tâm trạng”, là những mảng tâm trạng điển hình, những nhát cắt của dòng cảm xúc mãnh liệt cho nên giọng điệu tác phẩm thường trùng khít, tương hợp với ý đồ tác giả. Tâm trạng là trạng thái tâm hồn vừa cụ thể vừa trừu tượng không dễ gì gọi tên ra được. Nó giống như một giai điệu đang vang lên trong tâm hồn. Giai điệu ấy buồn hay vui, hạnh phúc hay đau khổ nó sẽ được biểu hiện ra bằng giọng điệu tương tự, bằng nội dung tương tự. Xuất phát từ quan điểm loại hình lịch sử, Nguyễn Đăng Điệp đã tiến hành khảo sát các loại hình giọng điệu bao hàm từ thơ ca dân gian đến thơ ca trung đại, thơ ca hiện đại và thơ lãng mạn, thơ siêu thực. Ông phát hiện giọng điệu trong thơ dân gian là: “Giọng điệu của một tập thể, nó thể hiện cảm xúc, thái độ của một lớp người, một tập thể nào đó chứ không phải là sản phẩm của một cá tính sáng tạo đơn nhất, không lặp lại như thơ trữ tình sau này” [5, tr.343]. Thơ trung đại: “Do tập trung thể hiện con người siêu cá thể, nhìn con người trong sự tương thong với vũ trụ theo kiểu “tâm vật cảm ứng” nên giọng điệu chủ thể tuy đã xuất hiện song chưa thật phát triển” [5, tr.343]. Thơ lãng mạn: “Do đặt lên hàng đầu vai trò của cảm xúc cá nhân, nhìn thế giới qua lăng kính của cái tôi cá nhân nên giọng điệu thơ ca đặc biệt nổi bật” [5, tr.344]. Còn thơ tượng trưng và 14 siêu thực thì yếu tố giọng điệu chìm xuống bởi đề cao những ám thị “vô thức” và chủ trương lối viết “tự động”. Thơ cách mạng mang giọng điệu lạc quan, tin tưởng vào tương lai sáng. Giọng điệu bao giờ cũng chi phối đến các phương diện hình thức, được bộc lộ qua những tín hiệu có tính hình thức. Giọng điệu không hiện ra chắp vá, rời rạc mà được toát ra từ cách xây dựng nhịp điệu và khả năng điều phối các kỹ thuật sử dụng hình ảnh, gieo vần, các thủ pháp nghệ thuật... tạo thành mối quan hệ bên trong, góp phần làm nên sự thống nhất cơ bản của tác phẩm. Nó chi phối toàn bộ các yếu tố khác của tác phẩm như ngôn ngữ, thể loại, kết cấu, âm thanh, nhịp điệu, hình ảnh... Về giọng điệu và sức mạnh của ngôn từ, Liliem Jimenes cho rằng: “Mỗi từ có tiếng nói riêng của nó, mỗi từ nôn nao một nỗi xúc động riêng. Mỗi từ mang sẵn trong nó một tiếng vang cực kỳ sâu sắc Có những từ có đọng cả nước mắt, mồ hôi, hơi thở con người” [dẫn theo 11, tr.21]. Từ đó ta thấy mỗi nhà thơ có một ưu thế riêng trong việc sử dụng sức mạnh của ngôn ngữ tạo nên giọng điệu thơ riêng cho mình. Nhà thơ luôn đi trên hành trình tìm được giọng thích hợp với tâm trạng mình và ngôn ngữ phù hợp để biểu hiện tâm trạng ấy. Thơ trữ tình luôn có một hệ thống biểu tượng, hình ảnh phong phú. Hình ảnh trong thơ không chỉ có tính chất trực quan, mà nó còn có giọng của nó, việc lựa chọn hình ảnh để tổ chức nên câu thơ, bài thơ cũng quan hệ gắn bó đến việc tạo nên giọng điệu riêng. Hình ảnh trong thơ làm cho thế giới trữ tình vốn vô hình, vô ảnh được hữu hình hóa. Về âm thanh, nhịp điệu ta thấy con người ở trạng thái tình cảm nào, sẽ tự nhiên cất lên giọng điệu tương tự và nhịp điệu góp phần diễn tả cái giọng điệu ấy. Trong tác phẩm, nhịp điệu xuất hiện trong hai tư thế là xương cốt vận hành của giọng điệu, là tiết chế để giọng điệu thể hiện một cách trung thực lập trường, thái độ, cảm xúc nhà thơ. Nhịp điệu trong thơ xuất hiện trên cơ sở nhịp điệu của cuộc sống, mang bản sắc riêng của từng nhà thơ. Trong thơ, ngắt nhịp hoàn toàn phụ thuộc vào bản chất của ngôn ngữ thơ chứ không phụ thuộc vào quãng cách như trong âm nhạc. Ngữ điệu trong thơ là âm thanh biểu thị ở giọng lên cao hay xuống thấp, lời chậm và nhanh, giọng mạnh và yếu, ngắt hơi
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất