Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Trung học phổ thông giáo trình tâm lý học phát triển...

Tài liệu giáo trình tâm lý học phát triển

.DOC
168
328
134

Mô tả:

giáo trình tâm lý học phát triển
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ  GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH QUÂN NHÂN (Dùng cho đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn) NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN HÀ NỘI - 2014 NHÀ XUẤT BẢN MONG BẠN ĐỌC GÓP Ý KIẾN, PHÊ BÌNH BAN BIÊN SOẠN Đại tá, PGS, TS CAO XUÂN TRUNG (Chủ biên) - Chương 1, 3 Thượng tá, TS NGUYỄN VĂN SƠN - Chương 2, 8 Thượng tá, Th.S ĐẶNG DUY THÁI - Chương 7 Đại úy, Th.S LƯU TRUNG TÌNH - Chương 4, 6 Đại úy, Th.S PHẠM ĐÌNH DUYÊN - Chương 5 2 MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU 5 Chương 1: ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 6 CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH QUÂN NHÂN 1.1. 1.2. 1.3. Chương 2: Sơ lược lịch sử hình thành, phát triển của Tâm lý học phát triển và Tâm lý học phát triển nhân cách quân nhân Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học phát triển và Tâm lý học phát triển nhân cách quân nhân Các phương pháp nghiên cứu của Tâm lý học phát triển nhân cách quân nhân NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN 6 12 15 22 CÁCH QUÂN NHÂN 2.1. 2.2. 2.3. 2.4. Chương 3: Quan niệm về phát triển nhân cách quân nhân Cơ chế và quy luật phát triển nhân cách quân nhân Các yếu tố quy định sự phát triển nhân cách quân nhân Phân chia các giai đoạn phát triển nhân cách quân nhân 22 25 28 HOẠT ĐỘNG QUÂN SỰ VÀ TƯƠNG TÁC 36 32 XÃ HỘI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH QUÂN NHÂN 3.1. 3.2. Chương 4: Hoạt động quân sự đối với sự hình thành, phát triển nhân cách quân nhân Tương tác xã hội và sự phát triển nhân cách quân nhân 36 SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH HẠ SĨ QUAN, 59 49 BINH SĨ 4.1. 4.2. 4.3. Những nhân tố quy định sự phát triển nhân cách hạ sĩ quan, binh sĩ Đặc điểm phát triển nhân cách hạ sĩ quan, binh sĩ Xây dựng, phát triển nhân cách hạ sĩ quan, binh sĩ đáp ứng yêu cầu hoạt động quân sự 3 59 65 75 Chương 5: 5.1. 5.2. 5.3. Chương 6: 6.1. 6.2. 6.3. Chương 7: 7.1. 7.2. 7.3. Chương 8: SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SĨ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI TRONG CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN SỰ 80 Những nhân tố quy định sự phát triển nhân cách học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội Đặc điểm phát triển nhân cách học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội trong các nhà trường quân sự Xây dựng, phát triển nhân cách học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội trong các nhà trường quân sự 80 SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SĨ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI 102 Những nhân tố quy định sự phát triển nhân cách sĩ quan cấp phân đội Đặc điểm phát triển nhân cách sĩ quan cấp phân đội Phát triển, hoàn thiện nhân cách sĩ quan cấp phân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới 102 SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SĨ QUAN TRUNG, CAO CẤP 123 Những nhân tố quy định sự phát triển nhân cách sĩ quan trung, cao cấp Đặc điểm phát triển nhân cách sĩ quan trung, cao cấp Hoàn thiện nhân cách sĩ quan trung, cao cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới 123 SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH NGƯỜI GIÁO VIÊN 146 83 94 106 117 130 139 NHÀ TRƯỜNG QUÂN SỰ 8.1. Hoạt động sư phạm và sự chi phối, ảnh hưởng đến phát triển nhân cách người giáo viên nhà trường quân sự 8.2. Sự hình thành, phát triển nhân cách người giáo viên nhà trường quân sự 8.3. Con đường, biện pháp hình thành, phát triển nhân cách người giáo viên nhà trường quân sự TÀI LIỆU THAM KHẢO 146 154 161 166 4 LỜI NÓI ĐẦU Tâm lý học phát triển là một chuyên ngành của khoa học tâm lý, đi sâu nghiên cứu nguồn gốc, động lực, cơ chế và các quy luật của sự phát triển tâm lý cá nhân; các điều kiện, các yếu tố tác động, chi phối quá trình và nội dung của sự phát triển tâm lý cá nhân qua các giai đoạn lứa tuổi. Ở nước ta, tâm lý học phát triển đã trở thành môn học bắt buộc trong các nhà trường sư phạm. Những năm gần đây, trên cơ sở tiếp thu các thành tựu nghiên cứu của tâm lý học phát triển trong và ngoài nước, trong quân đội đã có nhiều công trình nghiên cứu về phát triển nhân cách quân nhân qua các giai đoạn lứa tuổi gắn với chức trách, nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chưa được tập hợp, bổ sung, phát triển thành giáo trình, tạo thuận lợi cho giảng dạy, học tập trong các nhà trường quân đội. Để phản ánh kịp thời những phát triển mới của chuyên ngành và đáp ứng yêu cầu dạy học trong đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn trong các nhà trường quân đội. Tổng cục Chính trị chỉ đạo biên soạn giáo trình “Tâm lý học phát triển nhân cách quân nhân” (Dùng cho đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn). Giáo trình được biên soạn gồm 8 chương đề cập đến những vấn đề cơ bản về sự phát sinh, phát triển tâm lý nói chung và sự phát triển nhân cách quân nhân từ hạ sĩ quan - binh sĩ, học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội, sĩ quan cấp phân đội, sĩ quan trung, cao cấp trong quân đội và nhân cách người giáo viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Giáo trình là công trình của tập thể tác giả thuộc Khoa Tâm lý học quân sự, Trường Sĩ quan Chính trị biên soạn, do Đại tá, PGS, TS Cao Xuân Trung chủ biên. Quá trình biên soạn, giáo trình có kế thừa, phát triển các tài liệu, giáo trình của các tác giả trong và ngoài quân đội. Tuy đã có nhiều cố gắng, song khó tránh khỏi những hạn chế nhất định. Tập thể tác giả, cơ quan chỉ đạo, tổ chức và biên tập xuất bản rất mong được sự đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, bạn đọc trong và ngoài quân đội. TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ 5 Chương 1 ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH QUÂN NHÂN 1.1. Sơ lược lịch sử hình thành, phát triển của Tâm lý học phát triển và Tâm lý học phát triển nhân cách quân nhân 1.1.1. Sơ lược lịch sử hình thành, phát triển của Tâm lí học phát triển Tâm lí học phát triển thực sự ra đời vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Tuy nhiên những tư tưởng và việc nghiên cứu về sự phát triển tâm lý con người đã xuất hiện từ thời cổ đại ở cả phương Đông và phương Tây. Thời cổ đại và phong kiến, vấn đề bản tính của trẻ em và giáo dục trẻ em đã được các nhà tư tưởng đặt ra và tìm cách giải quyết. Tuy nhiên, do hạn chế lịch sử nên hầu hết các quan điểm trong thời kỳ này đều cho rằng, trẻ em ngay từ khi sinh ra đã có sẵn bản tính tốt hoặc xấu; trẻ em là “một người lớn thu nhỏ” và quá trình, phát triển chỉ là sự bộc lộ cái bản tính có sẵn ra bên ngoài tùy theo các giai đoạn lứa tuổi. Từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX ở phương Tây xuất hiện hai khuynh hướng giải quyết vấn đề bản tính của trẻ em. Khuynh hướng thứ nhất, cho rằng, trẻ em thụ động trước tác động của môi trường; mọi tri thức con người có được không phải do bẩm sinh mà là kết quả của quá trình nhận thức. Mọi quá trình nhận thức đều phải xuất phát từ các cơ quan cảm tính. Không có cái gì trong lý tính mà trước đó lại không có trong cảm tính. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là quan điểm của các nhà triết học Anh như Thomas Hobbes và John Locke1. Trong quan niệm về phát triển tâm lý ở trẻ em John Locke đưa ra nguyên lý: “Tabularasa – tấm bảng sạch”- khi mới sinh ra, tâm hồn trẻ em giống như một tờ giấy trắng; mọi cái hay, cái dở có 1 Thomas Hobbers (1588 - 1679) và John Locke (1632 - 1704) đại biểu điển hình của triết học duy vật duy cảm Anh thế kỷ XVII - XVIII - người cho rằng mọi hiểu biết của con người đều bắt nguồn từ nhận thức cảm tính, kinh nghiệm 6 trong tâm lý con người là kết quả của quá trình nhận thức từ các tác động của mội trường bên ngoài. Quan điểm về trẻ em và nguyên lý “tấm bảng sạch” của John Locke là cơ sở triết học của các xu hướng tâm lý học nhấn mạnh quá mức vai trò của môi trường xã hội đối với sự phát triển tâm lý trẻ em. Mà tiêu biểu là các nhà Tâm lý học xã hội Pháp và Tâm lý học hành vi ở Mỹ. Khuynh hướng thứ hai, quan niệm trẻ em tích cực trước tác động của môi trường. Đại biểu của khuynh hướng này là nhà triết học khai sáng Pháp J.J. Rousseu1. Ông cho rằng trẻ em sinh ra đã có những khuynh hướng tự nhiên và tích cực. Trẻ em không thụ động tiếp nhận các chỉ dẫn của người lớn mà tham gia một cách tích cực chủ động vào việc hình thành trí tuệ và nhân cách của mình, là một người thám hiểm bận rộn, biết phân tích và có chủ định. Mọi sự can thiệp của người lớn vào sự phát triển tự nhiên của trẻ đều có hại. Vì vậy, ông đề nghị nên có một nền giáo dục xã hội theo nguyên tắc tự nhiên và tự do cho trẻ. Đến cuối thế kỷ XIX (1879), Tâm lý học trở thành một khoa học độc lập, các tri thức tâm lý học được ứng dụng mạnh mẽ vào thực tiễn cuộc sống. Lĩnh vực đầu tiên mà tâm lý học hướng đến là lĩnh vực dạy học, giáo dục. Tuy nhiên, để vận dụng tri thức tâm lý học vào dạy học và giáo dục thì vấn đề phát triển tâm lý trở thành nội dung trung tâm. Trước yêu cầu trên, nhiều nhà tâm lý học đi sâu nghiên cứu làm rõ quan niệm về sự phát triển tâm lý. Đặc biệt trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nhà tâm lý học, giáo dục học lỗi lạc như K.Đ. Usinxki, I.M. Sêchênôv, L.X. Vưgôtxki, X.L. Rubinstêin, A.N. Lêônchiev, J. Piager, H.Walon… đã có công lớn xây dựng tâm lý học phát triển thành một chuyên ngành của khoa học tâm lý. Ngày nay, Tâm lí học phát triển bao gồm hai lĩnh vực có quan hệ với nhau: Tâm lí học phát sinh (nghiên cứu quá trình, cơ chế và quy luật hình thành, phát triển các chức năng tâm lí cá nhân trong suốt cuộc đời; nghiên cứu các yếu tố tác động tới quá trình phát sinh và phát triển đó) và Tâm lí học lứa 1 Jean Jacques Rousseu (1712 – 1778) là nhà văn, nhà triết học lớn của Pháp thế kỷ XVIII. 7 tuổi (nghiên cứu đặc trưng phát triển tâm lí của cá nhân trong các giai đoạn lứa tuổi từ bào thai đến tuổi già). Trong tâm lí học lứa tuổi có nhiều chuyên ngành: Tâm lí học bào thai; Tâm lí học tuổi mầm non (từ sơ sinh đến 6 tuổi); Tâm lí học tuổi nhi đồng; Tâm lí học tuổi thiếu niên; Tâm lí học tuổi thanh niên; Tâm lí học người trưởng thành, Tâm lí học người già. Ngoài các chuyên ngành trên, gần đây xuất hiện một số chuyên ngành Tâm lí học trẻ em đặc biệt: Tâm lí học trẻ em năng khiếu, Tâm lí học trẻ em chậm phát triển trí tuệ; Tâm lí học trẻ em khiếm thính, khiếm thị; Tâm lí học trẻ em có hành vi lệch chuẩn… 1.1.2. Sơ lược lịch sử các nghiên cứu về Tâm lý học phát triển nhân cách quân nhân Nghiên cứu về nhân cách quân và phát triển nhân cách quân nhân là một hướng quan trọng trong các nghiên cứu của Tâm lý học quân sự, Tâm lý học sư phạm quân sự và Tâm lý học lãnh đạo - quản lý bộ đội. Trong các tài liệu tâm lý học quân sự của quân đội Liên Xô trước đây có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu về sự phát triển nhân cách quân nhân ở các lứa tuổi khác nhau trong đó có các tác giả tiêu biểu như: N.Ph. Đôbrưnin, K.N. Coocnhilov với những công trình nghiên cứu hướng vào hoàn thiện hệ thống giáo dục, huấn luyện để phát triển nhân cách quân nhân; B.M. Tevlov đã nghiên cứu và xuất bản công trình “Trí tuệ của người cầm súng”. Trong các thập niên 50 đến 70 của thế kỷ XX, tâm lý học quân sự Liên Xô đã có nhiều công trình nghiên cứu những đặc điểm tâm lý và những vấn đề đặt ra trong giáo dục, huấn luyện cán bộ, chiến sĩ. Các công trình này được tập hợp thành công trong cuốn sách: “Tóm tắt những vấn đề tâm lý học của việc huấn luyện và giáo dục các chiến sĩ Xô Viết” của G.B. Bucov. Sau khi Liên Xô sụp đổ (1991), tâm lý học Nga tiếp tục nghiên cứu giải quyết những vấn đề nảy sinh do nhu cầu thực tiễn quân sự đặt ra như nghiên cứu những vấn đề về tâm lý trong chiến tranh công nghệ cao, trong phòng chống khủng bố… Những nghiên cứu trên đều có đề cập dưới các khía cạnh khác nhau về sự phát triển nhân cách quân nhân. 8 Trong quân đội ta những nghiên cứu theo hướng trên đã được triển khai từ những năm 70 của thế kỷ XX. Trong đó, có những công trình nghiên cứu về những vấn đề chung của sự phát triển nhân cách quân nhân của các tác giả như: PGS Hoàng Linh, GS Nguyễn Ngọc Phú; Nguyễn Hải Khoát, PGS Hoàng Đình Châu. Nghiên cứu sự phát triển nhân cách quân nhân qua các giai đoạn lứa tuổi của các giáo sư, phó giáo sư như: Nguyễn Ngọc Phú, Hoàng Đình Châu, Ngô Minh Tuấn, Đinh Hùng Tuấn, Đỗ Mạnh Tôn, Nguyễn Đình Gấm, Đỗ Duy Môn, Cao Xuân Trung… Tuy nhiên, những nghiên cứu trên hiện đang nằm trong các giáo trình khác nhau và chưa được trình bày hệ thống với tư cách là một giáo trình chuyên sâu về Tâm lý học phát triển nhân cách quân nhân. 1.1.3. Các quan điểm khác nhau về sự phát triển tâm lý Phát triển tâm lý là vấn đề trung tâm của tâm lý học phát triển nói chung, tâm lý học phát triển nhân cách quân nhân nói riêng. Đây cũng là vấn đề, luôn diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt gữa các trường phái nghiên cứu khác nhau về sự phát triển tâm lý. Trong đó nổi lên các quan điểm cơ bản sau: * Tâm lý học phương Tây nghiên cứu về sự phát triển tâm lý người Nghiên cứu về sự phát triển tâm lý người, trong tâm lý học phương Tây đã xuất hiện 3 hướng nghiên cứu khác nhau. Hướng thứ nhất, nhấn mạnh các điều kiện bên trong. Đại biểu cho hướng này là quan điểm của các nhà Phân tâm học; Tâm lý học nhân văn và các nghiên cứu nhấn mạnh yếu tố sinh vật, thể tạng. Theo hướng này thì sự hình thành, phát triển tâm lý được quy định bởi các điều kiện bên trong như cấu trúc sinh vật, di truyền, các bản năng “dưới tầng sâu” hoặc do các yếu tố thuần tâm lý quy định. Hướng thứ hai, nhấn mạnh các điều kiện bên ngoài. Đại biểu cho xu hướng này bao gồm trường phái "phát sinh xã hội" của các nhà tâm lý học Pháp và các nhà Tâm lý học hành vi. Dựa trên cơ sở triết học C.A.Helvétius nhà triết học Pháp thế kỷ XVIII các nhà Tâm lý học theo trường phái "phát sinh xã hội " tiêu biểu như: 9 E.Durkheim (1856 - 1917), Canvac, P.Janet (1889 -1947)... đã cho rằng, sự phát triển tâm lý ở trẻ là kết quả của các tác động trực tiếp từ môi trường tự nhiên và xã hội. Tuy vậy, bản thân xã hội lại được E.Durkheim hiểu một cách duy tâm như là cái có sẵn ban đầu, nó là tập hợp các "biểu tượng tập thể" tách rời với các quan hệ sản xuất và xã hội hiện thực của con người. Các nhà Tâm lý học hành vi đại diện là J.Watson, Thoocdai, Skinner, W. Mischel, A.Bandura... lại cho điều kiện bên ngoài là: những "kích thích", "tổ hợp kích thích" tạo phản ứng; là "điều kiện operant"; là tình huống, hoàn cảnh (stuation) của hành vi học tập xã hội. v.v..Trong quan niệm của các nhà Tâm lý học hành vi, tâm lý con người chỉ là tổ hợp những phản ứng đáp lại kích thích từ môi trường bên ngoài (J. Watson), trong đó, điều kiện xã hội giữ vai trò độc tôn. Theo xu hướng này các nghiên cứu đã tuyệt đối hoá các điều kiện bên ngoài, quá đề cao vai trò yếu tố xã hội và coi giáo dục có thể thay thế các yếu tố sinh vật trong sự hình thành phát triển tâm lý. Hướng thứ ba, nhấn mạnh cả điều kiện bên trong và điều kiện bên ngoài. Đại biểu cho hướng này là W.Stern và một số các nhà tâm lý học tiêu biểu như H.D. Schmidt; G. A. Kelly; S. R. Maddi.... Với mục đích loại bỏ tính chất phiến diện của hai hướng nghiên cứu trên W.Stern (1871-1938) nhà tâm lý học Đức đã xây dựng nên thuyết hội tụ. Lý thuyết này được xây dựng trên cơ sở những thành tựu đạt được trong nghiên cứu tâm lý học trí tuệ của W.Stern. Theo Ông, mối quan hệ tác động qua lại giữa môi trường (bên ngoài) và di truyền (bên trong) quy định quá trình phát triển tâm lý. Trong đó, yếu tố di truyền giữ vai trò quyết định còn môi trường xã hội chỉ làm điều kiện để biến những đặc điểm tâm lý vốn đã định sẵn trong di truyền thành hiện thực. Thực tế cho thấy, hướng nghiên cứu này đã đánh đồng các điều kiện sinh học và xã hội, không giải quyết vấn đề hiện thực của tính quyết định sự phát triển tâm lý và thực chất đã coi một cách máy móc chính cái sinh vật và cái xã hội như là các yếu tố độc lập với nhau, đưa ra cơ chế sai lầm về sự ảnh hưởng của chúng đối với sự phát triển tâm lý con người. 10 * Quan điểm của Tâm lý học Mác xít về sự phát triển tâm lý người. Năm 1925, Tâm lý học Mác xít ra đời, đó là nền tâm lý học được xây dựng dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đặc biệt là những luận điểm của C.Mác về con người, hoạt động có đối tượng của con người, tính tích cực của ý thức con người. Dựa trên luận điểm nổi tiếng của C. Mác: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mỗi quan hệ xã hội" 1. Bằng các công trình nghiên cứu lý luận và thực nghiệm, Tâm lý học Mác xít khẳng định, nhân cách mang bản chất xã hội - lịch sử. Con người sinh ra chưa phải là một nhân cách. Nhân cách là một cấu tạo tâm lý mới, được hình thành trong quá trình cá nhân gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, đồng thời có những mối quan hệ cụ thể của mình. Sự hình thành, phát triển tâm lý người là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Quá trình đó luôn có những biến đổi về chất và là quá trình giải quyết các mâu thuẫn nội tại trong mỗi cá nhân. Với cách giải quyết trên, Tâm lý học Mác xít đã khắc phục cách xem xét cô lập tách rời các điều kiện quy định sự hình thành, phát triển tâm lý người trong các hướng nghiên cứu của tâm lý học phương Tây và đưa ra quan niệm: Phát triển tâm lý là một quá trình bao gồm sự phát sinh, hình thành, phát triển của những yếu tố, những quá trình, những thuộc tính, những trạng thái tâm lý của mỗi cá thể từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa bị phân hóa đến bị phân hóa theo những quy luật có liên quan, tác động phụ thuộc lẫn nhau tạo thành những đặc điểm tâm lý khác nhau theo giai đoạn lứa tuổi. Đó là một hoạt động có tính hệ thống được sắp xếp có tính thứ bậc và ngày càng tinh tế, tạo ra những đặc điểm đặc trưng cho mỗi thời kỳ, mỗi lứa tuổi khác nhau, bảo đảm cho con người sống, hoạt động và phát triển với tư cách là một chủ thể có ý thức của xã hội. 1 C.Mác và Ph. Ăng ghen, Tuyển tập, T.1, Nxb Sự thật, H.1980, tr.257. 11 Với quan niệm trên, Tâm lý học Mác xít cũng chỉ ra đặc trưng của sự phát triển tâm lý người là: đi từ thay đổi các hành động bên ngoài dẫn đến sự thay đổi cấu trúc tâm lý bên trong; quá trình phát triển tâm lí bao hàm sự tăng trưởng; phát triển là quá trình chủ thể tạo ra các cầu trúc mới bằng cách cải tổ lại cấu trúc đã có; phát triển là quá trình cá thể hoá, chủ thể hoá và là quá trình tạo ra bản sắc riêng của mỗi cá nhân. Bàn về sự phát triển nhân cách, Tâm lý học Mác xít chỉ ra: nhân cách là một cấu tạo tâm lý mới, được hình thành, phát triển thông qua hoạt động tích cực của chủ thể. Nhân cách là sản phẩm của điều kiện xã hội - lịch sử, đồng thời là chủ thể của điều kiện xã hội - lịch sử. Sự hình thành, phát triển nhân cách con người nói chung, của quân nhân nói riêng chịu sự tác động của nhiều yếu tố, bao gồm: yếu tố sinh vật, thể chất; môi trường xã hội - lịch sử; giáo dục và tự giáo dục; hoạt động thực tiễn của mỗi cá nhân. Trong đó, giáo dục đóng vai trò chủ đạo, hoạt động thực tiễn của cá nhân đóng vai trò trực tiếp quyết định. 1.2. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lí học phát triển và Tâm lý học phát triển nhân cách quân nhân 1.2.1. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học phát triển và Tâm lý học phát triển nhân cách quân nhân a) Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học phát triển. Tâm lí học phát triển là một ngành khoa học nghiên cứu nguồn gốc, động lực, cơ chế và các quy luật của sự phát triển tâm lí cá nhân; các yếu tố, các điều kiện tác động chi phối quá trình phát triển tâm lý cá nhân và nội dung sự phát triển tâm lý cá nhân qua các giai đoạn, lứa tuổi. Đối tượng nghiên cứu của tâm lí học phát triển là toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển của cá nhân từ bào thai đến tuổi già nhằm tìm ra nguồn gốc, động lực và các cơ chế, quy luật của sự phát triển tâm lý người. Tâm lý học phát triển tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản sau: - Nghiên cứu nguồn gốc, động lực của sự phát triển tâm lý người - Nghiên cứu các điều kiện tác động đến quá trình phát triển tâm lý người - Nghiên cứu các quy luật và cơ chế hình thành, phát triển tâm lý người 12 - Nghiên cứu nội dung sự phát triển tâm lý người qua các giai đoạn lứa tuổi Trên cơ sở làm rõ các vấn đề trên, Tâm lý học phát triển đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm tạo nên sự phát triển tâm lý người ở các giai đoạn lứa tuổi phù hợp với cơ chế, quy luật của nó nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và hoạt động nghề nghiệp của mỗi cá nhân. b) Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học phát triển nhân cách quân nhân Tâm lí học phát triển nhân cách quân nhân là một chuyên ngành của Tâm lý học phát triển, vận dụng lý luận, phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu của tâm lý học phát triển vào nghiên cứu sự phát triển nhân cách quân nhân ở các lứa tuổi từ khi nhập ngũ, đến khi rời khỏi quân đội, gắn với chức trách, nhiệm vụ đảm nhiệm khác nhau trong quá trình phục vụ quân đội. Đối tượng nghiên cứu của tâm lí học phát triển nhân cách quân nhân là toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển nhân cách quân nhân ở các lứa tuổi gắn với chức trách, nhiệm vụ đảm nhiệm khác nhau trong quá trình phục vụ quân đội. Quân nhân trước khi nhập ngũ đã là một nhân cách xã hội. Tuy nhiên, chưa tham gia hoạt động trong môi trường hoạt động quân sự nên nhân cách quân nhân chưa được hình thành, có chăng chỉ là những hiểu biết chung thông qua sách báo, các hình tượng nghệ thuật trên sân khấu, nghe kể lại từ người khác và thông qua huấn luyện quân sự trong thời gian học tập ở các trường trung học phổ thông. Sự hình thành, phát triển nhân cách quân nhân chỉ thực sự bắt đầu khi họ gia nhập vào quân đội, được học tập, rèn luyện trong môi trường hoạt động quân sự, gắn với thực hiện các chức trách, nhiệm vụ được giao. Là một chuyên ngành của Tâm lý học phát triển, đối tượng của Tâm lý học phát triển nhân cách quân nhân ngoài việc nghiên cứu những vấn đề chung của Tâm lý học phát triển còn tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản sau: 13 Nghiên cứu làm rõ đặc điểm hoạt động quân sự và sự tác động của nó tới sự phát triển nhân cách quân nhân trong quá trình phục vụ quân đội Nội dung sự phát triển nhân cách quân nhân qua các giai đoạn lứa tuổi gắn với chức trách, nhiệm vụ được đảm nhiệm trong quá trình phục vụ quân đội. Trên cơ sở làm rõ các vấn đề trên, Tâm lý học phát triển nhân cách quân nhân đề xuất những kiến nghị, giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy sự phát triển nhân cách quân nhân ở các giai đoạn lứa tuổi phù hợp với cơ chế, quy luật của nó đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng quân đội và hoạt động theo chức trách, nhiệm vụ được giao. 1.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học phát triển nhân cách quân nhân a) Nghiên cứu lí luận Nhiệm vụ hàng đầu của Tâm lí học phát triển nhân cách quân nhân là xây dựng hệ thống lí luận về sự phát triển của quân nhân. Nhiệm vụ nghiên cứu lí luận được thực hiện qua hai con đường: - Nghiên cứu và vận dụng các thành tựu lí luận, phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu của tâm lý học, tâm lí học phát triển và các khoa học khác vào nghiên cứu sự phát triển nhân cách quân nhân. - Khái quát các kết quả nghiên cứu thực tiễn và thực nghiệm khoa học thành các luận điểm lí luận về sự phát triển nhân cách quân nhân. b) Nghiên cứu thực nghiệm và ứng dụng Đây là nhiệm vụ chủ yếu của Tâm lí học phát triển nhân cách quân nhân nhằm nghiên cứu các lĩnh vực phát triển nhân cách quân nhân từ khi nhập ngũ đến khi xuất ngũ. Nhà tâm lí học tổ chức nghiên cứu nhằm phát hiện các phương diện khác nhau của quá trình phát triển nhân cách cá nhân người quân nhân trong quá trình phục vụ quân đội. Trong đó tập trung làm rõ các vấn đề cơ bản: - Các điều kiện tác động và chi phối quá trình phát triển tâm lý, nhân cách quân nhân. - Các quy luật và cơ chế hình thành, phát triển nhân cách quân nhân 14 - Nội dung sự phát triển nhân cách quân nhân qua các giai đoạn lứa tuổi, gắn với chức trách, nhiệm vụ được đảm nhiệm. Trên cơ sở kết quả thu được từ các công trình nghiên cứu thực nghiệm ứng dụng vào quá trình giáo dục, rèn luyện quân nhân nhằm tạo nên sự phát triển nhân cách đáp ứng yêu cầu thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao của các đối tượng quân nhân trong môi trường hoạt động quân sự. c) Góp phần vào cuộc đấu tranh tư tưởng, chính trị, xã hội Dựa trên cơ sở những thành tựu đạt được trong quá trình nghiên cứu, Tâm lí học phát triển nhân cách quân nhân góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh nhằm khắc phục các tư tưởng, quan niệm, định kiến xã hội sai trái về bản chất con người nói chung, của người quân nhân và sự phát triển nhân cách quân nhân nói riêng. Nhất là, phủ nhận những quan niệm duy tâm, quan điểm sinh vật luận về sự phát triển nhân cách. Đồng thời, trang bị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp thấy rõ nguồn gốc, động lực của sự phát triển tâm lý, các điều kiện phát triển nhân cách quân nhân trên cơ sở đó tích cực đấu tranh với những quan niệm hoặc là tuyệt đối hóa cá nhân, hoặc tuyệt đối hóa vai trò môi trường đối với sự phát triển nhân cách quân nhân. 1.3. Các phương pháp nghiên cứu của Tâm lý học phát triển nhân cách quân nhân Là một chuyên ngành của khoa học tâm lý, vì vậy có thể vận dụng tất cả các phương pháp nghiên cứu của Tâm lý học vào nghiên cứu sự phát triển nhân cách quân nhân. Tuy nhiên, cần chú trọng vận dụng các phương pháp đặc thù của tâm lý học phát triển. Dưới đây là một số phương pháp chủ yếu thường sử dụng trong nghiên cứu sự phát triển tâm lý nói chung, sự phát triển nhân cách quân nhân nói riêng. 1.3.1. Phương pháp quan sát có hệ thống Quan sát có hệ thống là tri giác có chủ định những biểu hiện bề ngoài của tâm lý quân nhân trong những hoàn cảnh sống, hoạt động khác nhau nhằm kiểm tra các giả thuyết về sự phát triển nhân cách quân nhân. 15 Phương pháp quan sát được sử dụng rất rộng rãi vì nó có ưu điểm là dễ tiến hành, các số liệu thu được mang tính khách quan, chân thực, cụ thể, chi tiết. Thông qua quan sát, người nghiên cứu không chỉ thu thập được những sự kiện mà còn vạch ra các lực thúc đẩy của chúng như: ý nghĩ, tình cảm, động cơ, thái độ, tâm thế và các hiện tượng tâm lý khác không thể trực tiếp tri giác được. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là ít nhiều thụ động, kéo dài, khó đáp ứng được những yêu cầu thu thập những số liệu chính xác để xử lý bằng toán học. Để nâng cao hiệu quả quan sát hệ thống, nhà nghiên cứu phải: xác định mục đích, nội dung cần quan sát; có chương trình, kế hoạch quan sát chi tiết, cụ thể cả về nội dung, thời gian, địa điểm, điều kiện, phương tiện quan sát; có kỹ năng quan sát; kỹ năng phân tích, so sánh, hệ thống hóa kết quả quan sát để rút ra các đặc điểm của sự phát triển nhân cách và đối chiếu với kết quả thu được từ các phương pháp khác để rút ra kết luận có liên quan đến giả thuyết. Quá trình quan sát hệ thống phải am hiểu những vấn đề liên quan đến hiện tượng cần quan sát và đối tượng quan sát; quá trình quan sát phải ghi chép kết quả quan sát đầy đủ, chi tiết; phải quan sát nhiều lần với một thời gian nhất định mới rút ra kết luận. 1.3.2. Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn Trò chuyện là tổ chức trao đổi, giao tiếp giữa người đi nghiên cứu và các quân nhân là đối tượng nghiên cứu để thu thập thông tin cần thiết về sự phát triển nhân cách quân nhân. Đây là một hình thức đặc thù của phương pháp quan sát nhưng vì được sử dụng rộng rãi nên được coi là một phương pháp độc lập. Phỏng vấn là một dạng trò chuyện có chủ đề, trong đó nhà nghiên cứu đặt ra cho đối tượng nghiên cứu một số câu hỏi có liên quan đến một hay một số nội dung cần trao đổi, các câu hỏi được thông báo trước và người nghiên cứu căn cứ các phản ứng (bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ) của đối tượng trong quá trình trả lời để rút ra kết luận khoa học. Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn có những ưu điểm rất lớn là có thể thông qua trò chuyện để hiểu đúng nguyên nhân các biểu hiện tâm lý của đối 16 tượng; có thể khêu gợi để đối tượng bộc lộ những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, chính kiến, quan điểm, niềm tin của bản thân. Tuy nhiên, nếu người nghiên cứu không có phương pháp, cách thức phù hợp thì khó thu được những cứ liệu khách quan, chính xác. Để nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp trò chuyện, nhà nghiên cứu cần thực hiện tốt một số yêu cầu cơ bản sau: xác định rõ mục đích, yêu cầu; cần tạo bầu không khí tự nhiên, chân thành, cởi mở, tin cậy lẫn nhau, tránh gây ấn tượng về một sự dò xét, soi mói; không biến cuộc trò chuyện thành một cuộc thẩm vấn; chú ý lắng nghe, quan sát cử chỉ, dáng điệu, vẻ mặt của đối tượng nghiên cứu; biết dẫn dắt đối tượng đi đến những câu trả lời, khách quan, chân thực; hạn chế việc ghi chép, hoặc tỏ thái độ khó chịu, không đồng tình. Đối với phương pháp phỏng vấn cần phải được tổ chức chặt chẽ hơn, người nghiên có có thể ghi chép, ghi âm câu trả lời của đối tượng nghiên cứu. Trong quá trình trò chuyện, phỏng vấn các đối tượng nghiên cứu cần hỏi cùng một loại câu hỏi như nhau, theo cùng một trình tự để qua đó so sánh các câu trả lời của tất cả những người tham dự để rút ra kết luận khách quan về sự phát triển nhân cách quân nhân. 1.3.3. Phương pháp thực nghiệm Là phương pháp nhà nghiên cứu chủ động tạo ra các tình huống trong những điều kiện đã được khống chế để gây ra ở đối tượng những biểu hiện về quan hệ nhân quả, tính quy luật, cơ cấu, cơ chế bộc lộ của các phẩm chất nhân cách cần nghiên cứu. Nhờ chủ động tạo ra các tình huống, các điều kiện theo chương trình định sẵn, nhà nghiên cứu có thể lặp lại thực nghiệm nhiều lần, trên nhiều đối tượng khác nhau để chứng minh một kết luận, khẳng định về nguyên nhân cũng như tham gia phát hiện quy luật nảy sinh, vận động của các hiện tượng tâm lý ở con người. Có hai loại thực nghiệm là: thực nghiệm trong phòng thí nghiệm và thực nghiệm tự nhiên. 17 Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm là loại thực nghiệm dựa vào máy móc, thiết bị chuyên dùng (hoặc không dùng máy móc) được tiến hành trong phòng thí nghiệm. Nhà nghiên cứu dựa theo nguyên tắc mô hình hóa tâm lý của loại hiện tượng cần nghiên cứu, chủ động tạo ra các tình huống để các hoạt động tâm lý biểu hiện ra một phần hoặc toàn bộ. Nhờ vậy, có thể ghi chép và đo lường chính xác những phẩm chất tâm lý bộc lộ ra trong thực nghiệm như: độ nhạy cảm giác quan; thời gian phản ứng; khối lượng, tốc độ di chuyển của chú ý; phẩm chất trí nhớ; hoặc toàn bộ hoạt động như: kỹ xảo, kỹ năng hành động trên chiến trường; kỹ xảo ngắm các mục tiêu hay phân tích mục tiêu trên màn hiện sóng .v.v… Ưu điểm của phương pháp này là có thể tiến hành nghiên cứu tập trung vào một biểu hiện tâm lý nào đó; có thể đo đạc khá chính xác nhờ vào hệ thống thiết bị chuyên dụng. Nhược điểm của phương pháp này là phải tổ chức công phu, tỉ mỷ; việc thiết kế các tình huống không thể diễn ra như trong điều kiện sống thật; về mặt tâm lý của đối tượng thực nghiệm thường có sự biến đổi so với bình thường ở trạng thái sẵn sàng đối phó. Vì thế, kết quả thu được có thể bị giả tạo. Thực nghiệm tự nhiên là loại thực nghiệm mà tác động của nhà nghiên cứu được lồng vào trong cuộc sống và hoạt động bình thường; người được thực nghiệm có khi không biết mình là đối tượng nghiên cứu. Ưu điểm của phương pháp này là gần với điều kiện hoạt động, chiến đấu thật; đối tượng thực nghiệm nhiều khi không biết mình là đối tượng nghiên cứu. Vì vậy, các biểu hiện tâm lý diễn ra tự nhiên, chân thực. Đồng thời, nhờ có kỹ thuật hiện đại có thể đưa vào trong thực nghiệm tự nhiên những cách thức đo lường chính xác như thực nghiệm trong phòng thí nghiệm. Nhược điểm của của phương pháp này là khó tạo ra các tình huống và dễ bị chi phối bởi nhiều các nguyên nhân khách quan không như mong muốn. 18 Thực hiện phương pháp này đòi hỏi người thực nghiệm phải xác định rõ mục đích nghiên cứu, nắm vững đặc điểm môi trường, điều kiện hoạt động để thiết kế các tác động khoa học nhằm đem lại kết quả khách quan, trung thực. 1.3.4. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi Là cách thức nghiên cứu nhằm thu thập thông tin về đối tương nghiên cứu bằng một hệ thống câu hỏi in sẵn trên phiếu mẫu và quân nhân được hỏi, viết trả lời ngay trên phiếu. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi có ưu điểm là thu thập được ý kiến của một số lượng người rất lớn trong một thời gian ngắn, đi sâu vào được các mối quan hệ phức tạp, nhiều mặt trong đời sống tâm lý của đối tượng nghiên cứu. Nhưng hạn chế của phương pháp này là kết quả thu được vẫn mang tính chủ quan của người trả lời, không làm rõ được nội dung lập luận và sự khác biệt cá nhân trong các câu trả lời. Muốn thực hiện tốt phương pháp này, nhà nghiên cứu phải nắm vững kỹ thuật lập phiếu hỏi, phân chia thang bậc đánh giá, bảo đảm tối đa mức độ tin cậy, chính xác của các thông tin thu được; thuận tiện cho người trả lời và tổng hợp kết quả nghiên cứu. Vì vậy, khi xây dựng phiếu hỏi nhà nghiên cứu cần thực hiện tốt một số yêu cầu cơ bản sau: câu hỏi phải rõ ràng, không được gây ra cách hiểu mập mờ hoặc nhiều nghĩa; kết hợp được các câu hỏi thẳng với câu hỏi đường vòng, câu hỏi kiểm tra; số lượng câu hỏi trong phiếu không nên quá nhiều. 1.3.5. Phương pháp phân tích kết quả hoạt động Là phương pháp nghiên cứu tâm lý dựa vào kết quả học tập, công tác, hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ được giao của từng quân nhân nhân để phân tích, rút ra kết luận về vấn đề nghiên cứu. Phương pháp này có ưu điểm là các kết luận đưa ra mang tính thuyết phục cao vì được bảo đảm bởi các bằng chứng, các sự vật, hiện tượng cụ thể, số lượng, chất lượng rõ ràng. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu cần lưu ý rằng, tâm lý con người được biểu hiện một cách gián tiếp thông qua hoạt động, nhiều lúc thông qua kết quả khó phát hiện được chiều sâu của tâm lý, tư tưởng bộ đội. Vì 19 vậy, nếu xem xét thiếu cẩn thận, tỷ mỉ và không phối hợp với các phương pháp khác, nhà nghiên cứu dễ bị nhầm lẫn giữa hiện tượng với bản chất. 1.3.6. Phương pháp trắc nghiệm Trắc nghiệm được hiểu là phép thử đã được chuẩn hóa, trở thành công cụ để nhà nghiên cứu đo lường các khía cạnh của sự phát triển tâm lý. Có nhiều loại trắc nghiệm khác nhau như trắc nghiệm trí nhớ, giao tiếp, trí tuệ, hứng thú… Tuy nhiên, để đánh giá mức độ khách quan, chính xác, tin cậy của trắc nghiệm phải căn cứ vào những tiêu chuẩn cơ bản sau: - Tính hiệu quả hay độ ứng nghiệm (Validity), được thể hiện trên hai phương diện: Thứ nhất, trắc nghiệm phải đo được yếu tố tâm lý định đo. Thứ hai, phải đo được chính xác khả năng của yếu tố đó đúng như hiệu suất của nó trong thực tiễn. - Độ tin cậy hay tính trung thành (Reability). Một trắc nghiệm có độ tin cậy là khi đo hai lần trên một đối tượng, với khoảng cách thời gian nhất định sẽ cho kết quả gần như nhau. - Độ phân biệt (Difference). Một trắc nghiệm tốt là trắc nghiệm có thể đo được những sự khác biệt nhỏ nhất giữa các yếu tố tâm lý của nghiệm thể và giữa các nghiệm thể trong nhóm. - Tính quy chuẩn (Standardize) là trắc nghiệm phải mang tính phổ biến và được tiêu chuẩn hóa để có thể sử dụng cho một số lượng đông các nghiệm thể. Cấu trúc của một trắc nghiệm: thường có hai bộ phận là văn bản trắc nghiệm và bản hướng dẫn sử dụng. Bản trắc nghiệm đầy đủ bao gồm nội dung tâm lí của trắc nghiệm và các hình thức thể hiện nội dung đó. Trong đó, dung tâm lý của trắc nghiệm là các yếu tố tâm lý mà nhà soạn thảo trắc nghiệm muốn tìm hiểu còn hình thức thể hiện của trắc nghiệm là hệ thống bài tập được cấu trúc theo các nội dung tâm lý cần nghiên cứu. Những bài tập này thường thể hiện theo ba hình thức là ngôn ngữ, hình ảnh phi ngôn ngữ và hành động. Bản hướng dẫn cách sử dụng trắc nghiệm: Một bản hướng dẫn đầy đủ thường có bốn nội dung: một là, trình bày xuất xứ của trắc nghiệm, cơ sở lý 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan