Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Giáo án điện tử Giáo trình luật tố tụng hình sự việt nam hoàng thị minh sơn...

Tài liệu Giáo trình luật tố tụng hình sự việt nam hoàng thị minh sơn

.PDF
563
239
144

Mô tả:

GIÁO TRÌNH LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1 394-2018/CXBIPH/43-188/CAND 2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI GIÁO TRÌNH LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM (Tái bản lần thứ 14 có sửa đổi, bổ sung) NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN HÀ NỘI - 2018 3 Chủ biên PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN Tập thể tác giả Chương I Chương II Chương III Chương IV Chương V Chương VI Chương VII Chương VIII Chương IX Chương X Chương XI Chương XII Chương XIII 4 PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN TS. PHAN THỊ THANH MAI TS. PHAN THỊ THANH MAI TS. PHAN THỊ THANH MAI PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ TS. VŨ GIA LÂM PGS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN TS. NGUYỄN HẢI NINH PGS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN TS. VŨ GIA LÂM TS. VŨ GIA LÂM TS. NGUYỄN HẢI NINH PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN TS. MAI THANH HIẾU ThS. HOÀNG VĂN HẠNH TS. MAI THANH HIẾU ThS. HOÀNG VĂN HẠNH TS. PHAN THỊ THANH MAI ThS. HOÀNG VĂN HẠNH LỜI GIỚI THIỆU Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khoá XIII thông qua tại kì họp thứ 10 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2018. Với mục tiêu xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự thực sự khoa học, tiến bộ có tính khả thi cao, là công cụ pháp lí sắc bén để đấu tranh hữu hiệu với mọi tội phạm, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn; tăng cường trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân đã được Hiến pháp năm 2013 quy định, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 kế thừa những quy định còn phù hợp trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; loại bỏ, sửa đổi những quy định không còn phù hợp; bổ sung, xây dựng nhiều quy định mới phù hợp với những yêu cầu thực tiễn của nước ta. Bộ luật tố tụng hình sự là căn cứ pháp lí quan trọng nhất quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân và hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lí công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lí, bảo vệ quyền con người, quyền công 5 dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm... Việc nắm vững các nội dung cơ bản trên là hết sức cần thiết đối với mỗi cán bộ làm công tác bảo vệ pháp luật, mỗi sinh viên, học viên của Trường Đại học Luật Hà Nội - những người đang nghiên cứu về các ngành luật nói chung và luật tố tụng hình sự nói riêng. Để đáp ứng nhu cầu giảng dạy, học tập và nghiên cứu của giảng viên, sinh viên, học viên, Trường Đại học Luật Hà Nội đã tổ chức biên soạn và chỉnh sửa, bổ sung Giáo trình luật tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở kế thừa các giáo trình đã được xuất bản trước đây. Giáo trình do PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn làm chủ biên và nhóm tác giả bao gồm các phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ đã có nhiều năm làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và hoạt động thực tiễn trong các cơ quan bảo vệ pháp luật tham gia biên soạn. Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam được biên soạn dựa trên cơ sở lí luận chính thống, các quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và những văn bản pháp luật khác về tố tụng hình sự đã được ban hành. Tuy nhiên, do những hạn chế khách quan cũng như chủ quan trong quá trình biên soạn nên Giáo trình không tránh khỏi những điểm thiếu sót. Chúng tôi mong nhận được sự góp ý của các nhà khoa học, các cán bộ giảng dạy và bạn đọc để lần tái bản sau Giáo trình sẽ hoàn chỉnh hơn. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam. TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI 6 PHẦN THỨ NHẤT NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM I. LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ - MỘT NGÀNH LUẬT TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM 1. Khái niệm luật tố tụng hình sự Luật tố tụng hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật, tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm là vấn đề quan trọng trong xã hội. Để giải quyết vấn đề này một cách kiên quyết, kịp thời, có hiệu quả, Quốc hội đã thông qua nhiều văn bản pháp luật quan trọng, trong đó Bộ luật hình sự (BLHS) quy định hành vi nào là nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm và phải chịu hình phạt. Khi có hành vi phạm tội xảy ra, việc phát hiện, xác định tội phạm và người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong đấu tranh chống tội phạm. Về vấn đề này V.I. Lênin đã chỉ rõ: "Tác dụng ngăn ngừa của hình phạt... hoàn toàn không phải ở chỗ hình phạt đó phải nặng mà ở chỗ đã phạm tội thì không thoát khỏi bị trừng phạt. Điều quan trọng không phải ở chỗ đã phạm tội thì phải trừng phạt 7 nặng mà là ở chỗ không tội phạm nào không bị phát hiện".(1) Để bảo đảm phát hiện chính xác và xử lí công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội đồng thời góp phần bảo vệ công lí, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, pháp luật cần phải quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự. Do vậy, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân và hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự. Khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan có thẩm quyền tiến hành kiểm tra, xác minh nếu xác định có dấu hiệu của tội phạm hoặc khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì quyết định khởi tố vụ án hình sự theo thẩm quyền; tiến hành các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ để chứng minh tội phạm và người phạm tội, lập hồ sơ vụ án hình sự, ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố chuyển sang viện kiểm sát, nếu có đủ chứng cứ để xác định có hành vi phạm tội xảy ra và người đã thực hiện hành vi phạm tội đó. Nếu xét thấy việc khởi tố vụ án không có căn cứ hoặc đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm... thì cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra. Nếu bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác có chứng nhận của hội đồng (1).Xem: V.I. Lênin toàn tập, Tập 4, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 508. 8 giám định pháp y;(3) chưa xác định được bị can hay không biết bị can đang ở đâu thì cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra. Khi nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, tuỳ từng trường hợp viện kiểm sát phải ra một trong các quyết định như trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ vụ án, đình chỉ vụ án hay quyết định truy tố bị can trước toà án bằng bản cáo trạng hoặc bằng quyết định truy tố (nếu vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn). Khi nhận được hồ sơ do viện kiểm sát chuyển đến, toà án nghiên cứu hồ sơ và ra quyết định cần thiết để giải quyết vụ án hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Bản án của tòa án quyết định bị cáo có tội hay không có tội, hình phạt và biện pháp tư pháp... Quá trình từ khi khởi tố vụ án hình sự đến khi xét xử là một quá trình phức tạp, bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, trong đó xét xử là hoạt động trung tâm và mang tính quyết định. Điều 13 BLTTHS năm 2015 quy định: "Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội". Như vậy, xét xử là một hình thức hoạt động nhà nước đặc biệt do toà án thực hiện, nhằm xem xét và giải quyết các vụ án theo quy định của pháp luật. Để việc xét xử được tiến hành đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, vụ án hình sự phải được khởi tố, điều tra, truy tố trước khi xét xử. Sau khi xét xử, toà án ra bản án tuyên bố bị cáo có tội hoặc không có tội và các quyết định khác. Bản án và quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và được các cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng. Cá nhân và tổ chức hữu quan trong phạm vi trách nhiệm của mình, phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án và quyết định của toà án. Như vậy, tố tụng hình sự không chỉ bao 9 gồm hoạt động xét xử vụ án mà còn bao gồm cả những hoạt động trước khi xét xử (như khởi tố, điều tra, truy tố) và những hoạt động sau khi xét xử (như thi hành án). Mặt khác, để phát hiện, xử lí tội phạm và người phạm tội, luật tố tụng hình sự còn quy định sự tham gia tố tụng của những người có liên quan đến vụ án, của cá nhân, cơ quan và tổ chức khác. Tố tụng hình sự là trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự). Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án); người tiến hành tố tụng (thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra, điều tra viên, cán bộ điều tra; viện trưởng, phó viện trưởng viện kiểm sát, kiểm sát viên, kiểm tra viên; chánh án, phó chánh án toà án, thẩm phán, hội thẩm và thư kí toà án, kiểm tra viên); cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (các cơ quan của bộ đội biên phòng, các cơ quan của hải quan, các cơ quan của kiểm lâm, các cơ quan của lực lượng cảnh sát biển, các cơ quan của kiểm ngư, các cơ quan của công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, các cơ quan khác trong quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;(1) người tham gia tố tụng (người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người chứng kiến, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội, người (1).Xem: Khoản 2 Điều 35 BLTTHS năm 2015. 10 đại diện khác theo quy định của BLTTHS), của cá nhân, cơ quan và tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của luật tố tụng hình sự. Như đã phân tích ở trên, quá trình giải quyết vụ án phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Mỗi giai đoạn thực hiện nhiệm vụ nhất định của tố tụng hình sự. Giai đoạn tố tụng hình sự là những bước trong trình tự tố tụng có nhiệm vụ riêng, mang đặc thù về phạm vi chủ thể, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng. Theo chúng tôi, Luật tố tụng hình sự Việt Nam chia quá trình tố tụng thành các giai đoạn sau:(1) - Khởi tố vụ án hình sự: Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay không để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự; quyết định không khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định khác theo quy định của pháp luật. - Điều tra vụ án hình sự: Trong giai đoạn điều tra, cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật, tiến hành thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ làm rõ đối tượng chứng minh để ra kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc đình chỉ điều tra; quyết định tạm đình chỉ điều tra và các quyết định khác theo quy định của pháp luật. - Truy tố: Trong giai đoạn truy tố, viện kiểm sát tiến hành các hoạt động cần thiết để truy tố bị can trước toà án bằng bản cáo trạng hoặc ra những quyết định tố tụng khác để giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. - Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự: Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, toà án cấp sơ thẩm (cấp xét xử thứ nhất) tiến (1). Có nhiều quan điểm khác nhau về sự phân chia các giai đoạn tố tụng hình sự. Ví dụ: Có quan điểm cho rằng khởi tố và điều tra là một giai đoạn. Trong giáo trình này, căn cứ vào tinh thần của các quy định trong BLTTHS, tố tụng hình sự được chia làm 7 giai đoạn. 11 hành giải quyết và xử lí vụ án bằng việc ra bản án hoặc các quyết định tố tụng khác theo quy định của pháp luật. - Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự: Trong giai đoạn này, toà án cấp trên trực tiếp (cấp xét xử thứ hai) của tòa án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.(1) - Thi hành án hình sự: Trong giai đoạn này, cơ quan thi hành án hình sự và cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành án tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện bản án và quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật.(2) - Giai đoạn đặc biệt: Đây là giai đoạn xét lại bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Trong giai đoạn này, toà án xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án (giám đốc thẩm)(3) hoặc có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà toà án không biết được khi ra bản án, quyết định đó (tái thẩm).(4) Ngoài thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, giai đoạn này còn có thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.(5) Sự phân chia các giai đoạn này gắn liền với trách nhiệm của từng cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Mỗi giai đoạn tuy độc lập nhưng vẫn nằm trong mối quan hệ khăng khít với nhau và tạo thành hoạt động thống nhất. Giai đoạn trước là tiền đề của (1). Có quan điểm cho rằng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm là một giai đoạn. (2). Hiện nay, có quan điểm cho rằng thi hành án không phải là một giai đoạn của tố tụng hình sự nhưng trong BLTTHS năm 2015 vẫn quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam vẫn xem thi hành án là một giai đoạn của tố tụng hình sự. (3). Xem: Điều 370 BLTTHS năm 2015. (4).Xem: Điều 397 BLTTHS năm 2015. (5).Xem: Chương 27 BLTTHS năm 2015. 12 giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước. Kết thúc một giai đoạn phải có kết luận dưới hình thức văn bản tố tụng để giải quyết vụ án. 2. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng hình sự Luật tố tụng hình sự là ngành luật độc lập có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng. Đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng hình sự là những quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể khác nhau trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, giữa cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng phát sinh mối quan hệ nhất định. Ví dụ: Để thu thập chứng cứ, cơ quan điều tra phải tiến hành các hoạt động khởi tố bị can và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng... từ đó, phát sinh mối quan hệ giữa cơ quan điều tra với bị can, với người làm chứng... Khi tiến hành các hoạt động khác cũng phát sinh các mối quan hệ tương tự như trên và luật tố tụng hình sự điều chỉnh các mối quan hệ đó. Phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng hình sự là những cách thức dùng để tác động đến các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng hình sự được xác định căn cứ vào tính chất đặc thù của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Luật tố tụng hình sự Việt Nam có hai phương pháp điều chỉnh đặc trưng, đó là: Phương pháp quyền uy và phương pháp phối hợp - chế ước. Phương pháp quyền uy là phương pháp điều chỉnh đặc trưng của luật tố tụng hình sự. Quyền uy thể hiện ở quan hệ giữa cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng. Các quyết định của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án, cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều 13 tra có tính chất bắt buộc đối với các cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân. Quyền uy không có nghĩa là cơ quan có thẩm quyền muốn làm gì thì làm mà các cơ quan này phải thực hiện quyền lực của mình trong khuôn khổ của pháp luật. Phương pháp quyền uy còn thể hiện ở việc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng... Phương pháp phối hợp - chế ước điều chỉnh mối quan hệ giữa cơ quan điều tra, viện kiểm sát và toà án... Các cơ quan này có nhiệm vụ phối hợp với nhau tiến hành các hoạt động của mình theo quy định của BLTTHS. Cơ quan này làm sai thì cơ quan khác có quyền phát hiện, tự mình sửa chữa hoặc đề nghị sửa chữa những sai lầm đó. Mức độ chế ước được thể hiện trong quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể tham gia giải quyết vụ án hình sự. 3. Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tố tụng được các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự điều chỉnh trong đó, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện. Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự có các đặc điểm sau: - Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mang tính quyền lực nhà nước, phát sinh từ khi cơ quan có thẩm quyền phát hiện hoặc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Một trong các chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự luôn là cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. - Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự liên quan mật thiết với quan hệ pháp luật hình sự. Khi một người thực hiện hành vi phạm tội thì xuất hiện quan hệ pháp luật hình sự giữa người đó với Nhà nước. Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự được xác lập để giải quyết quan hệ pháp luật hình sự. 14 - Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự liên quan chặt chẽ với các hoạt động tố tụng. Hoạt động tố tụng hình sự làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Việc phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật tố tụng hình sự làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt hoạt động tố tụng. Thành phần của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự bao gồm khách thể, chủ thể và nội dung. Trong một quan hệ pháp luật nhất định, việc thực hiện quyền chủ quan và nghĩa vụ pháp lí của những người tham gia quan hệ bao giờ cũng nhằm đạt được mục đích nhất định. Khách thể của quan hệ pháp luật là lợi ích mà các bên nhằm đạt được khi thiết lập với nhau một quan hệ pháp luật cụ thể. Khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là việc giải quyết đúng đắn vụ án. Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự gồm: Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng cũng như cá nhân, cơ quan, tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Nội dung của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là quyền và nghĩa vụ pháp lí của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Luật tố tụng hình sự quy định các chủ thể có tư cách pháp lí khác nhau có quyền và nghĩa vụ tố tụng khác nhau. 4. Khái quát lịch sử phát triển pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam a. Giai đoạn trước năm 1945 Luật tố tụng hình sự nước ta trải qua quá trình phát triển lâu dài, nhiều sử liệu cho phép khẳng định sự tồn tại của luật tố tụng hình sự trong chế độ phong kiến. Tuy nhiên, luật tố tụng hình sự với tư cách là ngành luật độc lập như hiện nay thì chưa có ở giai đoạn lịch sử đó. Các quy định của luật tố tụng hình sự được ban 15 hành lẫn trong các quy định của luật hình sự, đất đai, hôn nhân và gia đình. Các triều đại phong kiến nước ta đã sử dụng triệt để luật tố tụng hình sự để bảo vệ lợi ích của mình. Hình thư triều Lý, Quốc triều hình luật, Hoàng Việt luật lệ... đều chứa đựng các quy định về tố tụng như: “Những người làm chứng trong việc kiện tụng nếu xét ra ngày thường đôi bên kiện tụng hay có thù oán thì không cho phép ra làm chứng. Nếu những người ấy giấu giếm ra làm chứng thì bị ghép vào tội không nói đúng sự thực. Hình quan, ngục quan biết điều đó mà dung túng việc đó đều bị tội”.(1) Hay khi lấy khẩu cung người phạm tội, quan tra án phải xem xét kĩ, tìm ra sự thực để cho người phạm tội phải nhận tội; không được hỏi quá rộng tìm đến người ngoài để tìm chứng cứ bậy; nếu trái điều này thì xử tội phạt. Ngoài ra, Quốc triều hình luật còn quy định về thủ tục xét xử, thời hạn xét xử và thủ tục thi hành án. Điều 658 Quốc triều hình luật quy định: “Những tù bị giam, kẻ nào đáng giam mà không giam, đáng gông cùm mà không gông cùm; hay cho bỏ cùm, nếu tù phạm tội biếm thì người coi tù bị phạt 60 trượng; nếu kẻ phạm tội đồ trở lên thì sẽ xử tăng dần một bậc. Những tù phạm không đáng giam mà giam, không đáng gông cùm mà gông cùm thì người coi tù bị phạt 70 trượng”. Trong Hoàng Việt luật lệ cũng chứa đựng các quy phạm luật tố tụng hình sự. Điều này chứng tỏ triều đình nhà Nguyễn cũng coi trọng hình thức tổ chức kiện tụng, xét xử. Trong thời kì thuộc địa, pháp luật nước ta chịu sự ảnh hưởng của pháp luật phong kiến và pháp luật tư sản của Pháp. Chính vì lẽ đó đã có sự phân định các ngành luật. Luật tố tụng hình sự được pháp điển hoá và được thực hiện cho đến năm 1945. Ở Nam kì, Bộ luật hình sự tố tụng của Pháp được áp dụng đối với những vụ án mà bị can, bị cáo là người Pháp. Nếu bị can, bị cáo là người (1).Xem: Điều 714 Quốc triều hình luật. 16 Việt Nam thì toà án cũng áp dụng Bộ luật này đồng thời áp dụng bổ sung một số quy định trong các sắc lệnh của Tổng thống Pháp.(1) Tại Bắc kì trong thời kì này áp dụng Bộ luật hình sự tố tụng được ban hành ngày 01/11/1918 và tại Trung kì áp dụng Bộ luật hình sự tố tụng được ban hành vào năm 1935.(2) b. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 Luật tố tụng hình sự Việt Nam hình thành và phát triển gắn liền với những giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam. Trước Cách mạng tháng Tám đã có những quy định về tố tụng hình sự. Ví dụ: Chỉ thị ngày 16/4/1945 của Tổng bộ Việt Minh quy định về lề lối làm việc của tiểu ban tư pháp và thẩm quyền xét xử của các tiểu ban này. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, để bảo đảm cho việc xử lí tội phạm được kịp thời, Nhà nước đã ban hành Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 quy định việc thành lập toà án quân sự và được bổ sung bằng Sắc lệnh số 21 ngày 14/02/1946. Trong đó có quy định: "Toà án quân sự có thẩm quyền xét xử các tội phạm phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà". Trong khi tiến hành xét xử, các toà án quân sự đã quán triệt chính sách trấn áp kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục và cải tạo. Ban đầu, việc xét xử những vụ án hình sự thường do Uỷ ban nhân dân đảm nhiệm. Sau đó theo Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946, các vụ án này do toà án thường xét xử với sự tham gia của phụ thẩm nhân dân. Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950 đổi tên toà án thường thành toà án nhân dân v.v.. Sau khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, ở miền Bắc việc xây dựng hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, trong đó có pháp luật tố tụng hình sự được quan tâm. Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật quan trọng về tự do dân chủ như Luật số 103 SL/L005 (1).Xem: Vũ Quốc Thông, Pháp chế sử Việt Nam, Sài Gòn, 1973, tr. 463. (2).Xem: TS. Trần Quang Tiệp, Lịch sử luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 48, 49. 17 ngày 20/5/1957 bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm về nhà ở, đồ vật, thư tín của công dân. Năm 1958, Quốc hội quyết định thành lập Toà án nhân dân tối cao và hệ thống các toà án địa phương, Viện công tố trung ương cùng hệ thống viện công tố các cấp. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức toà án nhân dân năm 1960 và Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 1960 được ban hành. Chế độ bầu cử thẩm phán thay thế chế độ chính phủ bổ nhiệm thẩm phán. c. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1988 Ở miền Nam sau ngày giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc lệnh số 01 SL/76 ngày 15/3/1976 về tổ chức toà án nhân dân. Khi Việt Nam thống nhất về mặt nhà nước thì hệ thống toà án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân trong cả nước được tổ chức, hoạt động theo Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân và Luật tổ chức toà án nhân dân ban hành năm 1960. Năm 1980, Quốc hội thông qua Hiến pháp mới. Trên cơ sở của Hiến pháp năm 1980, Luật tổ chức toà án nhân dân và Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 1981 thay thế Luật tổ chức toà án nhân dân và Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 1960. Các văn bản pháp luật trên đã góp phần khắc phục những thiếu sót, hạn chế trong việc giải quyết vụ án hình sự. d. Giai đoạn từ năm 1989 đến nay Trên tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, từng bước hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với những kết quả đã đạt được, thực tế cũng phát sinh nhiều vấn đề phức tạp trong quá trình tố tụng ảnh hưởng đến việc điều tra, truy tố và xét 18 xử. Các văn bản quy phạm pháp luật tố tụng hình sự đơn hành không thể hiện được toàn diện, đầy đủ chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Chính vì vậy, việc ban hành BLTTHS là vấn đề mang tính khách quan và cấp thiết, có ý nghĩa góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới của đất nước.(1) Kế thừa và phát triển pháp luật tố tụng hình sự nước ta từ Cách mạng tháng Tám đến nay với tinh thần đổi mới trên mọi mặt của đời sống xã hội, ngày 28/6/1988 tại kì họp thứ ba, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII đã thông qua BLTTHS. Bộ luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1989. Để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, BLTTHS quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự nhằm xử lí công minh, kịp thời tội phạm và người phạm tội. Trên tinh thần lấy dân làm gốc, đồng thời đáp ứng yêu cầu bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lí kiên quyết và triệt để mọi hành vi phạm tội, BLTTHS năm 1988 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều (lần thứ nhất)(2) tại kì họp thứ bảy Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII và thông qua vào ngày 30/6/1990. Với những sửa đổi lần này, Bộ luật quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng, đề cao vai trò của các tổ chức xã (1).Xem: Trần Quang Tiệp, Lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 146. (2). BLTTHS đã được bổ sung thêm ba điều mới là Điều 42a quy định về người bảo vệ quyền lợi của đương sự; Điều 168a quy định về thời hạn hoãn phiên toà và Điều 215a quy định về việc toà án cấp phúc thẩm áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn và sửa đổi, bổ sung 35 điều trong tổng số 286 điều luật. 19 hội và công dân trong tố tụng hình sự, kết hợp sức mạnh của pháp chế xã hội chủ nghĩa với sức mạnh của quần chúng nhân dân trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Sau một thời gian thi hành, căn cứ vào thực tiễn tố tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự và Hiến pháp năm 1992, để khắc phục những vướng mắc và thiếu sót trong quy định của BLTTHS đối với việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX tại kì họp thứ hai đã quyết định sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS (lần thứ hai) vào ngày 22/12/1992 cho phù hợp với tình hình mới và nguyện vọng của nhân dân, đồng thời phù hợp với Hiến pháp năm 1992. (1) Với sự ra đời của BLHS (được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1999 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2000), nhiều quy định của BLTTHS hiện hành liên quan không còn phù hợp nữa. Do vậy, ngày 09/6/2000 Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS (lần thứ ba)(2) nhằm thi hành BLHS năm 1999 cũng như phù hợp với tiến trình dân chủ và đổi mới của đất nước. BLTTHS lần này chỉ tập trung vào một số những quy định nhằm thực hiện BLHS năm 1999; giải quyết một số vấn đề bức xúc cần khắc phục trong quá trình tố tụng nhằm nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Việc (1). BLTTHS đã được bổ sung thêm ba điều mới là: Điều 143a quy định về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Điều 143b quy định về đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; Điều 160a quy định về thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm và sửa đổi bổ sung 5 điều luật. (2). BLTTHS đã được bổ sung thêm hai điều mới là Điều 10a quy định về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và Điều 234a quy định về thi hành hình phạt trục xuất. Bỏ các điều khoản sau: Các khoản 3, 4 Điều 145 quy định về thẩm quyền xét xử của toà án các cấp; Điều 160a quy định về thành phần xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm; điểm a khoản 1 Điều 226 quy định về những bản án và quyết định được thi hành. Sửa đổi, bổ sung 21 điều luật và sửa đổi một số điều khoản của BLHS năm 1985 thành điều khoản tương ứng của BLHS năm 1999 đợc viện dẫn trong BLTTHS. Sau ba lần sửa đổi, BLTTHS năm 1988 gồm 293 điều. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

thumb
Văn hóa anh mỹ...
200
20326
146