Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Giáo án điện tử Giáo trình luật thương mại việt nam. tập 2 nguyễn viết tý...

Tài liệu Giáo trình luật thương mại việt nam. tập 2 nguyễn viết tý

.PDF
392
1462
107

Mô tả:

GIÁO TRÌNH LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TẬP II 1 Giáo trình này đã được Hội đồng nghiệm thu giáo trình Trường Đại học Luật Hà Nội (thành lập theo Quyết định số 1281/QĐĐHLHN ngày 05 tháng 5 năm 2016 của Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội) đồng ý thông qua ngày 29 tháng 7 năm 2016 và được Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội cho phép xuất bản theo Quyết định số 249/QĐ-ĐHLHN ngày 15 tháng 02 năm 2017. MÃ SỐ: TPG/K - 18 - 02 1385-2018/CXBIPH/01-79/TP 2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI Giáo trình LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TẬP II (Tái bản lần thứ nhất, có sửa đổi, bổ sung) NHÀ XUẤT BẢN TƯ PHÁP HÀ NỘI - 2018 3 Đồng chủ biên PGS.TS. NGUYỄN VIẾT TÝ TS. NGUYỄN THỊ DUNG Tập thể tác giả 1. PGS.TS. NGUYỄN THỊ VÂN ANH 2. PGS.TS. VŨ THỊ LAN ANH 3. TS. TRẦN THỊ BẢO ÁNH 4. TS. NGUYỄN THỊ DUNG 5. TS. VŨ PHƯƠNG ĐÔNG 6. PGS.TS. TRẦN THỊ THU PHƯƠNG 7. PGS.TS. NGUYỄN VIẾT TÝ 8. TS. NGUYỄN QUÝ TRỌNG 9. TS. VŨ ĐẶNG HẢI YẾN 10. TS. NGUYỄN THỊ YẾN 4 Chương 16 Chương 21 Chương 15, 20 Chương 17 Chương 18 Chương 14 (Mục III) Chương 14 (mục I, II) Chương 22 Chương 19 Chương 23 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BLDS LTM TNHH TTTM Bộ luật Dân sự Luật Thương mại Trách nhiệm hữu hạn Trọng tài thương mại 5 6 LỜI GIỚI THIỆU Trong quá trình đổi mới quản lí nhà nước về kinh tế, Luật Thương mại là lĩnh vực pháp luật có những thay đổi lớn theo xu thế mở rộng quyền tự do kinh doanh và hội nhập kinh tế quốc tế. Bắt nhịp với những thay đổi này, trong các cơ sở đào tạo luật, môn học Luật Thương mại (tiền thân là môn học Luật Kinh tế) cũng có nhiều thay đổi về kết cấu và nội dung chương trình. Nhằm hướng tới mục tiêu phù hợp xu hướng phát triển về lí luận và thực tiễn của pháp luật thương mại, phù hợp với nội dung và chương trình đào tạo của nhà trường, Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội đã được biên soạn mới. Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam là học liệu chính thức sử dụng trong giảng dạy, học tập môn học Luật Thương mại và một số chuyên đề tự chọn thuộc chương trình đào tạo cử nhân luật, cử nhân chuyên ngành luật kinh tế, luật thương mại quốc tế và các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Đối với các cơ sở đào tạo khác, Giáo trình Luật Thương mại cũng có thể được sử dụng làm học liệu cho các môn học có nội dung tương tự như Luật Kinh tế, Luật Kinh doanh. Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam gồm 2 tập với tổng số 23 chương, được kết cấu theo 5 phần lớn, đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, đào tạo cơ bản về địa vị pháp lí của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, về hợp đồng và hoạt động thương mại, giải quyết tranh chấp thương mại ngoài Toà án: Phần thứ nhất: Những vấn đề chung về Luật Thương mại Việt Nam. 7 Phần thứ hai: Địa vị pháp lí của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế. Phần thứ ba: Quy chế pháp lí về thành lập doanh nghiệp, tổ chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Phần thứ tư: Hoạt động thương mại và hợp đồng trong hoạt động thương mại. Phần thứ năm: Giải quyết tranh chấp thương mại ngoài Toà án. Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam Tập I có 13 chương, cung cấp những kiến thức chung về môn học Luật Thương mại, về địa vị pháp lí của các loại chủ thể kinh doanh và quy chế pháp lí về thành lập, tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam Tập II có 10 chương, cung cấp những kiến thức lí luận và thực tiễn về hợp đồng và hoạt động thương mại, chế tài thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại ngoài Toà án. Tập I và Tập II bao gồm nội dung cơ bản và nội dung chọn lọc để phù hợp với kết cấu chương trình đào tạo của mỗi ngành học đang áp dụng tại Trường Đại học Luật Hà Nội, bao gồm ngành Luật học, ngành Luật Kinh tế và ngành Luật Thương mại quốc tế... Được hoàn thành có sự kế thừa các giáo trình đã xuất bản, tập thể tác giả đã tiếp tục phát triển kiến thức về lí luận, thực tiễn, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đào tạo cử nhân luật theo học chế tín chỉ. Trong lần tái bản này, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của độc giả để Giáo trình được tiếp tục hoàn chỉnh trong những lần xuất bản sau. Trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 6 năm 2018 TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI 8 Phần thứ tư HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI VÀ HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI Chương 14 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI I. QUAN NIỆM VỀ HỢP ĐỒNG TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI Hợp đồng là hình thức pháp lí thích hợp nhất thể hiện bản chất của các quan hệ tài sản. Quan hệ kinh tế và quan hệ dân sự có chung hình thức pháp lí là hợp đồng. Hợp đồng dù thể hiện dưới hình thức nào, bởi ngôn ngữ nào cũng phản ánh bản chất là sự thỏa thuận, sự thống nhất ý chí của các bên nhằm làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lí. Ở Việt Nam, trong mỗi thời kì lịch sử khác nhau, hợp đồng trong lĩnh vực kinh tế hay lĩnh vực thương mại có một bản chất pháp lí riêng của nó. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hợp đồng kinh tế có bản chất pháp lí hoàn toàn khác hợp đồng dân sự (theo nghĩa truyền thống) về mục đích, về chủ thể, về hình thức cũng như về nội dung của hợp đồng. Trong thời kì này, ở Việt Nam hầu như chỉ tồn tại hợp đồng kinh tế với tư cách là hình thức phản ánh quan hệ kinh tế trong nền kinh tế. Các văn bản đầu tiên về hợp đồng kinh tế là Nghị định số 004/TTg ngày 04/01/1960 của Thủ 9 tướng Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và cơ quan nhà nước, Nghị định số 54/CP ngày 10/3/1975 của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế và đặc biệt là Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế được ban hành năm 1989. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 đã phản ánh đầy đủ bản chất của hợp đồng kinh tế, đồng thời quy định cụ thể về thủ tục kí kết, thực hiện thay đổi, đình chỉ, hủy bỏ, thanh lí hợp đồng kinh tế. Ngoài ra, trong Pháp lệnh này còn quy định một số nội dung khác về hợp đồng kinh tế như: hợp đồng kinh tế vô hiệu, trách nhiệm vật chất do vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế… Trong những năm từ 1986 đến 1990, cùng với việc đổi mới cơ chế quản lí kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện các hợp đồng dân sự (đúng theo nghĩa truyền thống). Để điều chỉnh quan hệ hợp đồng dân sự, năm 1991, Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh Hợp đồng dân sự và sau đó là BLDS năm 1995. Bộ luật này đã xác định khái niệm hợp đồng dân sự (xem Điều 394 BLDS năm 1995) với một nội hàm tương đối rộng, bao gồm cả những đặc điểm của khái niệm hợp đồng kinh tế theo Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989. Tuy nhiên, trong Nghị quyết ngày 28/10/1995 của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành BLDS năm 1995 vẫn thừa nhận hiệu lực của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989. Do đó, từ năm 1991 đến khi BLDS năm 2005 có hiệu lực, ở Việt Nam vẫn tồn tại 2 loại hợp đồng - hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự - được điều chỉnh bằng những quy định pháp luật khác nhau về hợp đồng. Cụ thể là, hợp đồng dân sự được quy định trong BLDS còn hợp đồng kinh tế lại được quy định trong Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế. Chỉ đến khi BLDS năm 2005 và LTM năm 2005 có hiệu lực, hợp đồng (bao gồm hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự) mới được điều chỉnh bằng một hệ thống văn bản pháp luật thống nhất về hợp 10 đồng dân sự.1 Trong BLDS năm 2005 cũng như LTM năm 2005 và các văn bản pháp luật thương mại sau đó không còn ghi nhận khái niệm hợp đồng kinh tế. Mặc dù, khái niệm hợp đồng kinh tế không còn được ghi nhận trong các văn bản pháp luật hiện hành và trên thực tế khái niệm này không còn được sử dụng để chỉ các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực thương mại (trước đây gọi là lĩnh vực kinh tế). Nhưng điều đó không có nghĩa là hợp đồng trong lĩnh vực thương mại không còn tồn tại. Bởi lẽ, khi còn các hoạt động trong lĩnh vực thương mại được coi như một loại hành vi dân sự đặc thù thì vẫn có những quy định riêng điều chỉnh các hợp đồng với tư cách là hình thức pháp lí của các hoạt động thương mại. (Các hợp đồng này được gọi chung là hợp đồng thương mại hay hợp đồng trong lĩnh vực thương mại). Xét dưới góc độ biện chứng, hợp đồng dân sự là hình thức pháp lí của hành vi dân sự, hợp đồng trong thương mại là hình thức pháp lí của hoạt động thương mại. Xuất phát từ quan điểm: “Hành vi thương mại là một biểu hiện của hành vi pháp lí dân sự,…”,2 hành vi thương mại là hành vi dân sự đặc thù và với logic đó, hợp đồng trong lĩnh vực thương mại là loại hợp đồng dân sự đặc thù. Là loại hợp đồng dân sự, hợp đồng trong lĩnh vực thương mại có những điểm giống hợp đồng dân sự về bản chất, tức là phản ánh bản chất là sự thỏa thuận, sự thống nhất ý chí của các bên nhằm làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lí, đều phản ánh các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá tiền tệ, đều có chủ thể là pháp nhân, cá nhân… Bên cạnh đó, hợp đồng trong lĩnh vực thương mại cũng có những đặc điểm riêng của nó, 1 Tham khảo: Đinh Thị Mai Phương, Thống nhất luật hợp đồng ở Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005. 2 Đào Trí Úc, “Vai trò của luật dân sự ở nước ta hiện nay”, Đề tài cấp bộ: Những vấn đề lí luận về Bộ luật dân sự ở Việt Nam), Hà Nội, 1997, tr. 20. 11 mà trên cơ sở đó, về cơ bản có thể phân biệt hợp đồng trong lĩnh vực thương mại với hợp đồng dân sự nói chung. Cụ thể: Thứ nhất, về chủ thể, hợp đồng trong lĩnh vực thương mại chủ yếu được thiết lập giữa các chủ thể là thương nhân. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp và cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên, có đăng kí kinh doanh. Thương nhân là chủ thể của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài (trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế). Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại trong những trường hợp pháp luật quy định cụ thể. Ví dụ, hoạt động của bên chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích lợi nhuận trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá phải tuân theo LTM khi chủ thể này lựa chọn áp dụng LTM1 hay ví dụ khác: Trong quan hệ ủy thác mua bán hàng hoá, bên ủy thác có thể là thương nhân hoặc không phải là thương nhân.2 Thứ hai, về hình thức, hợp đồng trong lĩnh vực thương mại có thể được thiết lập bằng hình thức lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp trong hoạt động thương mại và những yêu cầu chặt chẽ trong nội dung của hợp đồng mà pháp luật quy định nhiều hợp đồng thương mại cụ thể phải được kí kết dưới hình thức văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lí tương đương văn bản. Ví dụ, hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hoá, hợp đồng đại lí thương mại, hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường sắt, hợp đồng nhượng quyền thương mại v.v.. Thứ ba, về đối tượng hợp đồng, tương tự như đối tượng của 1 2 Khoản 3 Điều 1 LTM năm 2005. Điều 157 LTM năm 2005. 12 hợp đồng dân sự, hợp đồng trong lĩnh vực thương mại có đối tượng là hàng hoá hoặc dịch vụ (công việc). Bên cạnh đó, trong lĩnh vực thương mại có một số loại hợp đồng có đối tượng chưa được biết đến trong hợp đồng dân sự truyền thống, đó là các hợp đồng có tính chất tổ chức như hợp đồng thành lập công ti hay hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp đồng BCC), hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư (hợp đồng PPP)... Đối tượng của các loại hợp đồng này không phải là hàng hoá hoặc dịch vụ mà là một hoạt động mang tính tổ chức để hình thành nên các doanh nghiệp hoặc để thực hiện hoạt động thương mại. Trên thực tế, đối tượng hợp đồng trong lĩnh vực thương mại thường có số lượng lớn và do đó, nhìn chung, giá trị của hợp đồng thương mại thường lớn hơn giá trị của hợp đồng dân sự. Điều này dẫn đến sự khác nhau trong nội dung của hợp đồng dân sự và nội dung của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại. Chẳng hạn, một người nào đó mua của thương nhân kinh doanh vật liệu xây dựng vài cân xi măng về sửa chữa nhỏ trong gia đình. Ở đây đối tượng hợp đồng rất nhỏ nên nội dung của hợp đồng này rất đơn giản, việc giao nhận và thanh toán được thực hiện theo kiểu “tiền trao, cháo múc”. Còn trường hợp một công ti xây lắp kí hợp đồng mua của một công ti xi măng 1000 tấn xi măng để xây dựng một công trình nào đó thì việc thỏa thuận cũng như thực hiện các điều khoản trong nội dung của hợp đồng phức tạp hơn nhiều từ việc xác định số lượng, chất của đối tượng cho đến giao nhận, thanh toán v.v.. Thậm chí, để thực hiện hợp đồng với đối tượng lớn như vậy, có thể làm phát sinh các hợp đồng mới như hợp đồng bốc xếp hàng hoá hay hợp đồng vận chuyển hàng hoá v.v.. Tóm lại, hiện nay, hợp đồng trong lĩnh vực thương mại là hợp đồng dân sự đặc thù. Hợp đồng dân sự và hợp đồng trong lĩnh vực thương mại có mối quan hệ biện chứng với nhau. Đây là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, trong đó, hợp đồng dân sự là cái chung và hợp đồng thương mại là cái riêng. Với tư cách là cái 13 chung và cái riêng, hợp đồng dân sự và hợp đồng trong lĩnh vực thương mại đều tồn tại khách quan và độc lập tương đối với nhau; những thuộc tính vốn có của hợp đồng dân sự được biểu hiện cụ thể trong hợp đồng trong lĩnh vực thương mại, đồng thời hợp đồng trong lĩnh vực thương mại cũng có những đặc thù riêng của nó. II. PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI 1. Nội dung của pháp luật điều chỉnh hợp đồng trong lĩnh vực thương mại Pháp luật điều chỉnh hợp đồng trong lĩnh vực thương mại được hiểu là tổng thể quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình kí kết và thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực thương mại. Nội dung của pháp luật điều chỉnh hợp đồng trong lĩnh vực thương mại bao gồm: (i) Những quy định về bản chất, chủ thể của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại; (ii) Những quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực thương mại; (iii) Những quy định về thay đổi, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng trong lĩnh vực thương mại; (iv) Những quy định về trách nhiệm vật chất (chế tài thương mại) do vi phạm hợp đồng trong lĩnh vực thương mại; Ngoài ra, trong nội dung của pháp luật điều chỉnh hợp đồng trong lĩnh vực thương mại, còn có những quy định về hợp đồng vô hiệu, về các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng. Ở Việt Nam, trước năm 2005, khi còn tồn tại 2 hệ thống pháp luật về hợp đồng (hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự) độc lập tương đối với nhau thì các nội dung kể trên được pháp luật ghi 14 nhận trong các văn bản về hợp đồng kinh tế mà điển hình là Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989. Khi BLDS năm 2005 có hiệu lực, nội dung của pháp luật điều chỉnh hợp đồng trong lĩnh vực thương mại được quy định trong một hệ thống văn bản pháp luật thống nhất điều chỉnh quan hệ hợp đồng dân sự, trong đó có các văn bản chủ yếu: BLDS năm 2005, BLDS năm 2015, LTM năm 2005 và các văn bản luật chuyên ngành như: Luật Đường sắt năm 2005, Luật Du lịch năm 2005, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006, Luật Hàng hải năm 2015, Luật Kinh doanh bảo hiểm v.v.. Những quy định của BLDS áp dụng đối với hợp đồng trong lĩnh vực thương mại: BLDS năm 2015 với 44 điều trong mục 7 Chương XV đã ghi nhận hầu hết các nội dung của pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng trong lĩnh vực thương mại nói riêng. Cụ thể: + BLDS năm 2015 đã xác định khái niệm hợp đồng, theo đó: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”;1 + Cùng với việc xác định khái niệm hợp đồng làm cơ sở cho việc xác định khái niệm các hợp đồng cụ thể trong lĩnh vực thương mại, BLDS năm 2015 còn có những quy định điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực thương mại, đó là các quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng, về sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, về hợp đồng vô hiệu và trách nhiệm vật chất do vi phạm hợp đồng v.v..2 + BLDS năm 2015 cũng đã quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng giao dịch dân sự, các biện pháp thực hiện nghĩa vụ dân sự cũng như trách nhiệm dân sự.3 Đây cũng là một nội dung quan trọng của pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại; 1 Điều 385 BLDS năm 2015. Mục 7 Chương XV Phần thứ 3 BLDS năm 2015. 3 Điều 117 và Mục 3, 4 Chương XV Phần thứ 3 BLDS năm 2015. 2 15 + Ngoài ra, BLDS năm 2015 còn quy định các loại hợp đồng thông dụng.1 Những quy định về các loại hợp đồng thông dụng này có thể được áp dụng trong trường hợp pháp luật chuyên ngành về các hợp đồng cụ thể trong lĩnh vực thương mại không quy định. Tóm lại, BLDS năm 2015 là văn bản pháp luật quan trọng quy định tương đối đầy đủ về hợp đồng nói chung và hợp đồng trong lĩnh vực thương mại nói riêng. Các quy định của BLDS năm 2015 trực tiếp điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực thương mại trong trường hợp các văn bản pháp luật chuyên ngành không quy định. Những quy định pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại trong LTM năm 2005 và các luật chuyên ngành: Ở Việt Nam, những quy định của BLDS được áp dụng chung cho tất cả các loại hợp đồng. Bên cạnh đó, pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại còn được quy định trong LTM năm 2005 và các luật chuyên ngành khác như: Luật Đường sắt năm 2005, Luật Du lịch năm 2005, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006, Luật Hàng hải năm 2015, Luật Kinh doanh bảo hiểm v.v.. Đặc điểm chung nhất của LTM và các luật chuyên ngành đó là: không quy định cụ thể về các hợp đồng mà chủ yếu quy định về các bên chủ thể, quyền và nghĩa vụ của các bên trong từng hoạt động thương mại. Đảm bảo tính thống nhất của pháp luật hợp đồng, khi quy định về các loại hợp đồng cụ thể trong lĩnh vực thương mại, LTM năm 2005 và các luật chuyên ngành khác không lặp lại những quy định chung về hợp đồng đã được ghi nhận trong BLDS. Quy định về từng loại hợp đồng cụ thể trong lĩnh vực thương mại, LTM và các luật chuyên ngành tập trung quy định về tính chất, chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ trong từng quan hệ 1 Mục 1 - 13 Chương XVI Phần thứ 3 BLDS năm 2015. 16 hợp đồng cụ thể. Khi xác định tính chất của các hợp đồng cụ thể trong lĩnh vực thương mại, các luật chuyên ngành thường đưa ra khái niệm về hợp đồng cụ thể đó.1 Riêng LTM năm 2005 không xác định khái niệm về các hợp đồng trong lĩnh vực thương mại, mà chỉ dừng lại ở việc đặt tên cho từng loại hợp đồng tương ứng từng hoạt động thương mại, ví dụ: Tương ứng với hoạt động mua bán hàng hoá có hợp đồng mua bán hàng hoá; tương ứng với hoạt động đại diện cho thương nhân có hợp đồng đại diện cho thương nhân hay tương ứng với hoạt động ủy thác mua bán hàng hoá có hợp đồng ủy thác mua bán hàng hoá. Tuy nhiên, tính chất của từng hoạt động thương mại (gồm mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ thương mại) lại được LTM năm 2005 ghi nhận đầy đủ. Những tính chất của từng hoạt động thương mại cụ thể đó cũng chính là tính chất hay đặc điểm của các hợp đồng tương ứng. Bởi lẽ, về thực chất hợp đồng trong lĩnh vực thương mại là hình thức pháp lí của hoạt động thương mại. Việc xác định chủ thể tham gia từng quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực thương mại cũng được LTM năm 2005 và các luật chuyên ngành quy định thông qua việc xác định tư cách pháp lí của thương nhân (doanh nghiệp) khi thực hiện một hoạt động thương mại cụ thể. Ví dụ: theo Điều 167 LTM năm 2005: “1. Bên giao đại lí là thương nhân giao hàng hoá cho đại lí bán… 2. Bên đại lí là thương nhân nhận hàng hoá để làm đại lí bán…”. Như vậy, chỉ có thương nhân mới được thực hiện đại lí thương mại và chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đại lí thương mại phải là thương nhân. Hình thức của từng hợp đồng trong lĩnh vực thương mại được 1 Điều 92 Luật Đường sắt năm 2005; Điều 54 Luật Du lịch năm 2005; Điều 128 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006. 17 LTM năm 2005 và các luật chuyên ngành quy định cụ thể đối với từng loại hợp đồng. Ví dụ: (i) Hợp đồng mua bán hàng hoá được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể; đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó; mua bán hàng hoá quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lí tương đương.1 (ii) Hợp đồng đại diện cho thương nhân và hợp đồng ủy thác mua bán hàng hoá phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lí tương đương.2 (iii) Hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường không cũng phải được xác lập bằng văn bản, vận đơn hàng không.3 Quyền và nghĩa vụ của các bên trong từng quan hệ hợp đồng cụ thể được LTM năm 2005 quy định trong nội dung của từng hoạt động thương mại cụ thể.4 Các quyền, nghĩa vụ được pháp luật quy định đối với mỗi hoạt động thương mại có ý nghĩa quan trọng trong việc kí kết và thực hiện các hợp đồng trong lĩnh vực thương mại. Các quyền và nghĩa vụ đó có thể là cơ sở để các thỏa thuận thành quyền và nghĩa vụ cụ thể trong hợp đồng nhằm đảm bảo các thỏa thuận trong hợp đồng không trái với quy định của pháp luật. Ngoài ra, khi thực hiện hợp đồng, nếu không có thỏa thuận khác thì các bên phải tuân thủ các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định. Tóm lại, ngoài những quy định chung cho tất cả các hợp đồng trong BLDS, nội dung của pháp luật về từng hợp đồng trong lĩnh vực thương mại còn được quy định trong LTM năm 2005 và các luật chuyên ngành. Ngoài ra, các quy định điều chỉnh quan hệ hợp 1 Điều 24, Điều 27 LTM năm 2005. Điều 142, Điều 159 LTM năm 2005. 3 Điều 128, Điều 129 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006. 4 Các Điều 95, 96, 150, 155… LTM năm 2005. 2 18 đồng trong lĩnh vực thương mại còn được ghi nhận trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương mà Việt Nam tham gia với tư cách thành viên. Chẳng hạn như: Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO (GATS), Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (FTA), Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (CISG) v.v.. Những quy định trong các điều ước quốc tế trực tiếp hoặc gián tiếp điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực thương mại nói chung và hợp đồng thương mại quốc tế nói riêng. 2. Áp dụng pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại Hợp đồng trong lĩnh vực thương mại được điều chỉnh bằng pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại. Các quy phạm pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại có thể thuộc nhiều nguồn luật khác nhau, trong đó cơ bản phải kể đến là các văn bản pháp luật quốc gia, điều ước quốc tế, tập quán thương mại. Vấn đề đặt ra ở đây là việc áp dụng các nguồn luật trên đối với hợp đồng trong lĩnh vực thương mại nói chung cũng như đối với từng hợp đồng cụ thể trong lĩnh vực thương mại. Ở Việt Nam, việc áp dụng pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại dựa trên các nguyên tắc được quy định trong BLDS năm 2015, LTM năm 2005 và các văn bản luật chuyên ngành. Trong đó, quy định các nguyên tắc về áp dụng BLDS năm 2015, LTM năm 2005 và các luật chuyên ngành, áp dụng Điều ước quốc tế, tập quán thương mại, thói quen thương mại.1 1 Điều 4, 5 BLDS năm 2015; Điều 4, 5 LTM năm 2005; Điều 2 Luật Đường sắt năm 2005; Điều 2, 3 Luật Du lịch năm 2005; Điều 3, 4 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006; Điều 2, 3 Luật Hàng hải năm 2005; Điều 2 Luật Kinh doanh bảo hiểm v.v.. 19 - Áp dụng các văn bản luật quốc gia Các văn bản pháp luật quốc gia là nguồn luật cơ bản và chủ yếu nhất điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực thương mại. Các văn bản pháp luật hiện hành về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại ở Việt Nam bao gồm BLDS năm 2015, LTM năm 2005, các luật chuyên ngành1 và các văn bản hướng dẫn thi hành các luật đó. Theo các nguyên tắc áp dụng pháp luật được quy định trong các văn bản kể trên, khi kí kết và thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực thương mại, trước hết áp dụng văn bản pháp luật chuyên ngành, nếu trong văn bản pháp luật chuyên ngành không quy định thì áp dụng LTM năm 2005 và trong trường hợp LTM năm 2005 cũng như luật chuyên ngành đó không quy định thì áp dụng những quy định của BLDS về vấn đề đó. Với phạm vi áp dụng của BLDS, các quy định về hợp đồng dân sự được áp dụng chung cho hợp đồng nói chung trong các lĩnh vực dân sự, lao động, thương mại và đầu tư kinh doanh. Như vậy, BLDS là văn bản gốc điều chỉnh mọi quan hệ hợp đồng, trong đó có hợp đồng trong thương mại. Ví dụ: Khi kí kết và thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hoá đường sắt, văn bản đầu tiên được áp dụng đó là Luật Đường sắt năm 2005, nhưng trong Luật Đường sắt lại không có quy định về chế tài, do đó, phải áp dụng những quy định về chế tài trong thương mại theo LTM. Tuy nhiên, LTM, Luật Đường sắt đều không có những nội dung liên quan đến hợp đồng vận chuyển vô hiệu thì văn bản được áp dụng ở đây sẽ là BLDS. Đối với các hợp đồng thương mại quốc tế, pháp luật quốc gia có thể được áp dụng theo những điều kiện nhất định. Thông thường pháp luật quốc gia được áp dụng trong các trường hợp sau: (i) Các bên trong hợp đồng thỏa thuận lựa chọn áp dụng; (ii) 1 Ví dụ: Luật Đường sắt năm 2005, Luật Du lịch năm 2005, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006, Luật Hàng hải năm 2015, Luật Kinh doanh bảo hiểm v.v.. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

thumb
Văn hóa anh mỹ...
200
20326
146