GIÁO TRÌNH
LUẬT THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM
TẬP I
1
Giáo trình này đã được Hội đồng nghiệm thu giáo trình Trường
Đại học Luật Hà Nội (thành lập theo Quyết định số 1280/QĐĐHLHN ngày 05 tháng 5 năm 2016 của Hiệu trưởng Trường Đại
học Luật Hà Nội) đồng ý thông qua ngày 29 tháng 7 năm 2016 và
được Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội cho phép xuất bản
theo Quyết định số 249/QĐ-ĐHLHN ngày 15 tháng 02 năm 2017.
MÃ SỐ: TPG/K - 18 - 01
762-2018/CXBIPH/04-52/TP
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
Giáo trình
LUẬT THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM
TẬP I
(Tái bản lần thứ nhất, có sửa đổi, bổ sung)
NHÀ XUẤT BẢN TƯ PHÁP
HÀ NỘI - 2018
3
Đồng chủ biên
PGS.TS. NGUYỄN VIẾT TÝ
TS. NGUYỄN THỊ DUNG
Tập thể tác giả
1. PGS.TS. NGUYỄN THỊ VÂN ANH
2. TS. TRẦN THỊ BẢO ÁNH
3. TS. BÙI NGỌC CƢỜNG
4. TS. NGUYỄN THỊ DUNG
5. PGS.TS. TRẦN NGỌC DŨNG
6. TS. VŨ PHƢƠNG ĐÔNG
7. PGS.TS. NGUYỄN VIẾT TÝ
8. TS. NGUYỄN QUÝ TRỌNG
9. TS. NGUYỄN THỊ YẾN
4
Chƣơng 8
Chƣơng 3
Chƣơng 4, 6
Chƣơng 1, 11, 12
Chƣơng 10
Chƣơng 9
Chƣơng 2, 13
Chƣơng 7
Chƣơng 5
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CTCP
Công ti cổ phần
DNNN
Doanh nghiệp nhà nƣớc
DNTN
Doanh nghiệp tƣ nhân
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
UBND
Ủy ban nhân dân
5
6
LỜI GIỚI THIỆU
Trong quá trình đổi mới quản lí nhà nước về kinh tế, Luật
Thương mại là lĩnh vực pháp luật có những thay đổi lớn theo xu thế
mở rộng quyền tự do kinh doanh và hội nhập kinh tế quốc tế. Bắt
nhịp với những thay đổi này, trong các cơ sở đào tạo luật, môn học
Luật Thương mại (tiền thân là môn học Luật Kinh tế) cũng có nhiều
thay đổi về kết cấu và nội dung chương trình. Nhằm hướng tới mục
tiêu phù hợp xu hướng phát triển về lí luận và thực tiễn của pháp
luật thương mại, phù hợp với nội dung và chương trình đào tạo của
nhà trường, Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam của Trường Đại
học Luật Hà Nội đã được biên soạn mới.
Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam là học liệu chính thức sử
dụng trong giảng dạy, học tập môn học Luật Thương mại và một số
chuyên đề tự chọn thuộc chương trình đào tạo cử nhân luật, cử nhân
chuyên ngành luật kinh tế, luật thương mại quốc tế và các lớp bồi
dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh tại Trường Đại học Luật Hà
Nội. Đối với các cơ sở đào tạo khác, Giáo trình Luật Thương mại
cũng có thể được sử dụng làm học liệu cho các môn học có nội dung
tương tự như Luật Kinh tế, Luật Kinh doanh.
Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam gồm 2 tập với tổng số 23
chương, được kết cấu theo 5 phần lớn, đáp ứng nhu cầu nghiên cứu,
đào tạo cơ bản về địa vị pháp lí của các loại hình doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường, về hợp đồng và hoạt động thương mại,
giải quyết tranh chấp thương mại ngoài Toà án:
Phần thứ nhất: Những vấn đề chung về Luật Thương mại Việt Nam.
Phần thứ hai: Địa vị pháp lí của các chủ thể kinh doanh trong
nền kinh tế.
7
Phần thứ ba: Quy chế pháp lí về thành lập doanh nghiệp, tổ
chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Phần thứ tư: Hoạt động thương mại và hợp đồng trong hoạt
động thương mại.
Phần thứ năm: Giải quyết tranh chấp thương mại ngoài Toà án.
Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam Tập I có 13 chương, cung
cấp những kiến thức chung về môn học Luật Thương mại, về địa vị
pháp lí của các loại chủ thể kinh doanh và quy chế pháp lí về thành
lập, tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Giáo
trình Luật Thương mại Việt Nam Tập II có 10 chương, cung cấp
những kiến thức lí luận và thực tiễn về hợp đồng và hoạt động thương
mại, chế tài thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại ngoài
Toà án. Tập I và Tập II bao gồm nội dung cơ bản và nội dung chọn
lọc để phù hợp với kết cấu chương trình đào tạo của mỗi ngành học
đang áp dụng tại Trường Đại học Luật Hà Nội, bao gồm ngành Luật
học, ngành Luật Kinh tế và ngành Luật Thương mại quốc tế...
Được hoàn thành có sự kế thừa các giáo trình đã xuất bản, tập
thể tác giả đã tiếp tục phát triển kiến thức về lí luận, thực tiễn,
nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đào tạo cử nhân luật
theo học chế tín chỉ. Trong lần tái bản này, chúng tôi rất mong
nhận được ý kiến đóng góp của độc giả để Giáo trình được tiếp tục
hoàn chỉnh trong những lần xuất bản sau.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 3 năm 2018
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
8
Phần thứ nhất
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ LUẬT THƢƠNG MẠI VIỆT NAM
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ LUẬT THƢƠNG MẠI VIỆT NAM
I. KHÁI LƢỢC SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI
Nền kinh tế hàng hoá hình thành, phát triển đã làm cho mua
bán hàng hoá trở thành một hoạt động mang tính chuyên nghiệp
và sản xuất hàng hoá không còn là con đƣờng duy nhất dẫn đến
lợi nhuận. Việc thực hiện luân chuyển, phân phối hàng hoá từ
ngƣời sản xuất đến ngƣời tiêu dùng, từ thị trƣờng này sang thị
trƣờng khác đã trở thành cơ hội lợi nhuận tốt cho những ngƣời
thực hiện nó. Lúc này, tầng lớp thƣơng nhân đã dần hình thành
trong xã hội và mua bán hàng hoá đƣợc họ coi là một nghề
nghiệp chính - “Nghề thƣơng mại”.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tầng lớp
thƣơng nhân ngày càng đông và lớn mạnh. Từ thời cổ đại, ngƣời
Phê-ni-xi ở Trung Cận Đông cũng đã nổi tiếng về hoạt động
thƣơng mại... Nửa đầu thiên niên kỉ thứ II trƣớc công nguyên đã
hình thành đông đảo tầng lớp thƣơng nhân giầu có, chuyên buôn
bán hàng hoá giữa nƣớc này với nƣớc khác.1 Quan hệ kinh tế
1
PGS.TS. Nguyễn Bá Diến, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2006, tr. 48.
9
giữa các thƣơng nhân hình thành, đƣợc điều chỉnh bởi tập quán,
thông lệ, thói quen và nhiều quy tắc xử sự khác... Khi tập quán,
thói quen, thông lệ không đủ để tạo ra quy tắc ứng xử giữa họ,
những quy định pháp luật thƣơng mại đầu tiên đƣợc ban hành,
không chỉ để điều chỉnh hoạt động thƣơng mại của thƣơng nhân
mà còn xác định quy chế pháp lí hay địa vị pháp lí của thƣơng
nhân. Nhiều luật lệ, tập quán thƣơng mại và hàng hải quốc tế,
điển hình là Bộ luật Hamurabi (gồm 283 điều khoản) ra đời
khoảng năm 1694 trƣớc công nguyên, quy định về bảo vệ an toàn
cho các thƣơng nhân nƣớc ngoài, quy định về hùn vốn, về gian
dối trong buôn bán, về thuê mƣớn thuyền, tầu xe, nhân công, quy
định về buôn bán nô lệ;1 quy định việc vận chuyển hàng hoá và
cả phƣơng thức giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng.2 Ở
giai đoạn phát triển của thời kì Trung cổ, luật giữa các thƣơng
nhân - law merchant đã trở thành một chế định khá hoàn chỉnh,
tập hợp các quy tắc và quy phạm (thành văn và tập quán) nhằm
điều chỉnh hàng loạt các vấn đề trong thƣơng mại nhƣ: Tính hợp
pháp của hợp đồng, nội dung của hợp đồng, các biện pháp chế tài
do vi phạm hợp đồng, các phƣơng thức giải quyết tranh chấp,
quan hệ đại lí và uỷ thác, séc, hối phiếu, vận đơn và vận chuyển
hàng hoá, các công ti đối nhân và liên doanh, bảo hộ nhãn hiệu
hàng hoá và bằng sáng chế, các quyền của thƣơng nhân3... Có thể
coi đây là những quy định pháp luật đầu tiên, đƣợc hình thành từ
nhu cầu điều chỉnh hoạt động thƣơng mại của thƣơng nhân.
1
Alnamach, Những nền văn minh thế giới, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội,
1996, tr. 1009.
2
PGS.TS. Nguyễn Bá Diến, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2006, tr. 49.
3
Carolyn Hotchkiss, International Law for Business, Mc Grow Hill, 1994, tr. 10, 11;
PGS.TS. Nguyễn Bá Diến, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2006, tr. 50.
10
Sự hình thành và phát triển không ngừng của những quy định
pháp luật ghi nhận địa vị của thƣơng nhân và hoạt động thƣơng
mại của họ đã trở thành nhân tố quan trọng, góp phần thúc đẩy
phát triển đa dạng các loại hình tổ chức kinh doanh và các hoạt
động kinh doanh trong nền kinh tế thế giới và ở mỗi quốc gia.
Những quy định pháp luật thƣơng mại đầu tiên chủ yếu là những
quy định điều chỉnh hành vi mua bán hàng hoá, bởi khi mới hình
thành, khái niệm thƣơng mại chỉ gắn liền với mua bán hàng hoá
và những hành vi có liên quan đến mua bán hàng hoá diễn ra (chủ
yếu) giữa các thƣơng nhân.
Pháp luật thƣơng mại với tƣ cách là một lĩnh vực pháp luật
tƣơng đối độc lập trong pháp luật dân sự đƣợc hình thành dần dần
ở châu Âu, bắt đầu bởi sự phát triển nhanh chóng của lực lƣợng
sản xuất và theo đó là đòi hỏi thay đổi các quan hệ sản xuất đang
tồn tại. Từ thế kỉ XVI, ngành công nghiệp ở châu Âu, đặc biệt là
ở Anh, phát triển mạnh đã thúc đẩy thƣơng mại hàng hải phát
triển. Luật của các thƣơng nhân (Law Merchant) từng bƣớc đƣợc
nội luật hoá vào pháp luật quốc gia của nhiều nƣớc, đã trở thành
một bộ phận cấu thành quan trọng của pháp luật Anh và nhiều
quốc gia châu Âu, góp phần bảo vệ quyền lợi của thƣơng nhân.1
Nhiều học thuyết nổi tiếng về thƣơng mại hình thành nhƣ chủ
nghĩa trọng thƣơng, chủ nghĩa tự do thƣơng mại, đã trở thành cơ
sở lí luận của chính sách và pháp luật thƣơng mại của nhiều quốc gia.
Thế kỉ XIX, nhiều bộ luật thƣơng mại đƣợc ban hành, điển
hình là Bộ luật Thƣơng mại Pháp đƣợc ban hành năm 1807. Tiếp
đó, Đức và các nƣớc nói tiếng Đức cũng ban hành luật này.
Trong hệ thống pháp luật Anh - Mỹ, Luật Thƣơng mại thƣờng
1
Carolyn Hotchkiss, International Law for Business, Mc Grow Hill, 1994, tr. 10, 11;
PGS.TS. Nguyễn Bá Diến, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2006, tr. 51.
11
đƣợc nói đến với một phạm trù rộng hơn, gọi là Luật Kinh doanh.1
Từ nửa sau thế kỉ XIX, tƣ tƣởng tự do hoá thƣơng mại và
điều chỉnh pháp luật đối với các hành vi thƣơng mại ở châu Âu
đã ảnh hƣởng đến Việt Nam và châu Á. Tại Việt Nam, dƣới thời
thuộc Pháp, trào lƣu canh tân đất nƣớc khuyến khích phát triển kĩ
nghệ và thƣơng mại đã bắt đầu có ảnh hƣởng đến hệ thống pháp
luật thời đó. Bộ Dân luật thi hành tại các toà Nam án Bắc Kỳ ban
hành năm 1931 đã quy định nhiều hình thức hùn vốn lập hội (hội
buôn - công ti), bao gồm hội ngƣời và hội vốn. Bộ luật Thƣơng
mại áp dụng tại Trung phần đƣợc ban hành năm 1942, Luật
Thƣơng mại của chính quyền Việt Nam cộng hoà đƣợc ban hành
năm 1972 cũng có nhiều quy định về công ti kinh doanh. Từ sau
khi thống nhất đất nƣớc, pháp luật thƣơng mại Việt Nam cũng
luôn đƣợc xây dựng và phát triển với tính chất là một lĩnh vực
pháp luật tƣơng đối độc lập với pháp luật dân sự, minh chứng
bằng sự hiện diện của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989,
Luật Công ti năm 1990, Luật Doanh nghiệp tƣ nhân năm 1990,
Luật Doanh nghiệp năm 1999, 2005, 2014, Luật Thƣơng mại năm
2005... Các văn bản này đã song hành cùng với Pháp lệnh Hợp
đồng dân sự năm 1991, Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005, 2015.
Nhƣ vậy, có thể nói, sự hình thành, phát triển của nền sản
xuất hàng hoá và sự xuất hiện của tầng lớp thƣơng nhân là lí do
hình thành pháp luật thƣơng mại. Nghiên cứu của nhiều học giả
(đã dẫn) cho thấy, các quy định đầu tiên điều chỉnh hoạt động
thƣơng mại và xác định quy chế thƣơng nhân ra đời rất sớm, xuất
phát từ nhu cầu giao lƣu thƣơng mại quốc tế và có nguồn gốc từ
các chế định, các quy tắc và quy phạm (thành văn và tập quán)
khá hoàn chỉnh đƣợc nội luật hoá trong pháp luật của quốc gia.
Ở mức độ khái quát, có thể hiểu, pháp luật thương mại là những
1
TS. Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam, Nxb. Đại học
Quốc gia, 1998, tr. 10.
12
quy định pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm
quy định quy chế thương nhân và điều chỉnh hoạt động thương
mại của họ.
Trong thời đại ngày nay, khái niệm “thƣơng mại” đƣợc hiểu
theo nghĩa rộng, có nội hàm đồng nghĩa với khái niệm “kinh
doanh”. Quan hệ thƣơng mại đƣợc hình thành giữa các thƣơng
nhân cùng quốc tịch, lãnh thổ hoặc có sự khác biệt về quốc tịch,
lãnh thổ. Điều này dẫn đến sự phát triển của pháp luật thƣơng mại
về phạm vi, đối tƣợng điều chỉnh cũng nhƣ hình thức chứa đựng
quy phạm pháp luật, theo đó, điều ƣớc quốc tế đã và đang trở
thành nguồn quan trọng của pháp luật thƣơng mại. Luật mẫu về
trọng tài thƣơng mại quốc tế của UNCITRAL thông qua ngày
21/6/1985 coi thƣơng mại “bao gồm nhưng không giới hạn bởi
các giao dịch để cung cấp hay trao đổi hàng hoá, dịch vụ, các
hợp đồng phân phối, chi nhánh hoặc đại diện thương mại, đại lí,
cho thuê, gia công, tư vấn, sở hữu công nghiệp, đầu tư, tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm, khai thác, tô nhượng, liên doanh hoặc các
hình thức khác của hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh”.1 Luật
Thƣơng mại của Việt Nam cũng hiểu khái niệm thƣơng mại
tƣơng tự nhƣ vậy khi quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung
ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi khác”.2
Sự phát triển theo hƣớng mở rộng phạm vi và đối tƣợng điều
chỉnh của pháp luật thƣơng mại thể hiện ở các khía cạnh cơ bản:
- Trong pháp luật thƣơng mại, có sự mở rộng về nội hàm của
khái niệm “thƣơng mại”, theo đó, từ điểm khởi đầu “thƣơng mại”
chỉ bao hàm ý nghĩa là hành vi mua bán hàng hoá nhằm mục đích
1
Điều 1 Luật mẫu về trọng tài thƣơng mại quốc tế của UNCITRAL thông qua
ngày 21/6/1985 (phần chú giải), nguồn: http://www.vietlaw.biz
2
Luật Thƣơng mại năm 2005.
13
sinh lợi, đến nay, pháp luật thƣơng mại quốc gia và quốc tế đều
có xu hƣớng tiếp cận thƣơng mại là tất cả những hành vi có mục
đích sinh lợi và những hành vi đó có thể diễn ra trong các quan hệ
mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tƣ, sở hữu trí tuệ,
nhƣợng quyền thƣơng mại..., có hoặc không có yếu tố nƣớc ngoài;
- Về quy chế thƣơng nhân: Trong pháp luật thƣơng mại, ngày
càng có sự mở rộng đa dạng về các loại hình tổ chức kinh doanh,
theo đó, pháp luật quy định nhiều loại hình thƣơng nhân, nhiều
hình thức hiện diện thƣơng mại, đáp ứng nhu cầu hoạt động
thƣơng mại của các tổ chức, cá nhân trong nƣớc và nƣớc ngoài;
- Về nguồn luật: Nguồn luật điều chỉnh địa vị pháp lí của
thƣơng nhân và hoạt động thƣơng mại của họ cũng phát triển đa
dạng với các quy định của luật quốc gia, luật quốc tế, tập quán
thƣơng mại, án lệ... Các cam kết của Việt Nam trong WTO, các
hiệp định thƣơng mại song phƣơng, các hiệp định thƣơng mại tự
do thế hệ mới... đã và đang có hiệu lực đối với các quan hệ
thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài và tác động đến các quan hệ
pháp luật thƣơng mại trong nƣớc thông qua những chính sách,
pháp luật quốc gia đƣợc sửa đổi nhằm đảm bảo tính tƣơng thích
với các điều ƣớc quốc tế.
II. KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG CỦA LUẬT THƢƠNG MẠI
1. Khái niệm Luật Thƣơng mại (Luật Thƣơng mại Việt Nam)
Từ góc độ khoa học pháp lí và góc độ đào tạo luật, ở Việt
Nam, khái niệm “Luật Thƣơng mại Việt Nam” là khái niệm khá
mới, hình thành trong những năm gần đây, do tác động của điều
kiện kinh tế thị trƣờng và hội nhập quốc tế. Trong đào tạo luật
học, “Luật Thƣơng mại Việt Nam” là môn học có nội dung
nghiên cứu chủ yếu là các quy định pháp luật quốc nội, nghiên
cứu về quan hệ thƣơng mại nội địa và địa vị pháp lí của thƣơng
nhân thành lập tại Việt Nam.
14
Ở thập niên 70, 80, khái niệm “Luật Kinh tế” (không phải
khái niệm Luật Thƣơng mại) đƣợc sử dụng phổ biến. Luật Kinh
tế khi đó, đƣợc hiểu là một bộ phận của pháp luật kinh tế..., là
ngành luật độc lập có phạm vi, đối tƣợng và phƣơng pháp điều
chỉnh riêng, trong đó, pháp luật kinh tế bao gồm các văn bản
pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau (Luật Kinh tế, Luật
Đất đai, Luật Lao động, Luật Tài chính - Ngân hàng...) điều chỉnh
những quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình hoạt động sản xuất,
kinh doanh của các đơn vị kinh tế và quan hệ quản lí kinh tế của
nhà nƣớc với tƣ cách vừa là một tổ chức chính trị, vừa là chủ sở
hữu tƣ liệu sản xuất trong xã hội. Luật Kinh tế ra đời trong cơ chế
kế hoạch hoá tập trung, có đối tƣợng điều chỉnh là các quan hệ
kinh tế giữa các tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa, các cơ quan
quản lí kinh tế trong sản xuất, kinh doanh, sở hữu, tổ chức và kế
hoạch hoá.1 Trong các cơ sở đào tạo luật, “Luật Kinh tế” trở
thành một môn học quan trọng, “là kết quả của công tác nghiên
cứu khoa học pháp lí và thực tiễn quản lí sản xuất kinh doanh
bằng pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan của thực tiễn
sản xuất kinh doanh”.2
Ở Việt Nam, những ý tƣởng đầu tiên về sử dụng khái niệm
“Luật Thƣơng mại”, “Luật Kinh doanh” để thay thế cho khái
niệm “Luật Kinh tế” xuất hiện khi diễn ra những thay đổi về kinh
tế, về cơ chế quản lí kinh tế và dẫn đến những thay đổi căn bản
trong điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ kinh tế giữa các tổ
chức, cá nhân. Khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng, chủ
thể của Luật Kinh tế không còn là các tổ chức kinh tế xã hội chủ
1
PGS.TS. Hoàng Thế Liên & TS. Bùi Ngọc Cƣờng, “Chƣơng 1 - Những vấn đề lí
luận cơ bản về Luật Kinh tế ở Việt Nam”, Giáo trình Luật Kinh tế của Trƣờng
Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội, 2004, tr. 15, 16, 18.
2
PGS.TS. Hoàng Thế Liên & TS. Bùi Ngọc Cƣờng, “Chƣơng 1 - Những vấn đề lí
luận cơ bản về Luật Kinh tế ở Việt Nam”, Giáo trình Luật Kinh tế của Trƣờng
Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội, 2004, tr. 35.
15
nghĩa (tổ chức kinh tế nhà nƣớc, tổ chức kinh tế tập thể) với tƣ
cách là các đơn vị thực hiện hoạt động sản xuất theo kế hoạch
đƣợc giao. Nền kinh tế không còn vận hành theo cơ chế kế hoạch
hoá tập trung mà vận hành theo cơ chế thị trƣờng, có sự quản lí
của nhà nƣớc, với nền tảng là sự công nhận quyền tự do sở hữu,
quyền tự do kinh doanh, đồng thời chịu nhiều tác động tất yếu
của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những thay đổi này dẫn
đến yêu cầu đổi mới trong khoa học luật kinh tế, theo đó, sự tồn
tại của khái niệm “Luật Kinh tế” (với nội hàm nhƣ đã phân tích)
trở nên không còn phù hợp. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển
của nền kinh tế thị trƣờng và xu thế tăng cƣờng hội nhập kinh tế
quốc tế, phạm vi quyền tự do kinh doanh cũng không ngừng đƣợc
mở rộng, từ chỗ “tự do kinh doanh theo quy định pháp luật”1 đến
“tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không
cấm”2..., vai trò can thiệp, kiểm soát từ phía nhà nƣớc cũng thu
hẹp rất nhiều theo xu hƣớng tôn trọng và đảm bảo thực hiện
những hành vi không trái pháp luật của ngƣời kinh doanh (thƣơng
nhân). Xu hƣớng này làm cho yếu tố “luật tƣ” đƣợc thể hiện rất
rõ nét và khái niệm “Luật Thƣơng mại” dần đƣợc sử dụng phổ
biến, với ý nghĩa là lĩnh vực pháp luật điều chỉnh hoạt động
thƣơng mại, hoạt động đầu tƣ kinh doanh của thƣơng nhân. Khái
niệm “Luật Thƣơng mại” đã đƣợc thay thế cho khái niệm “Luật
Kinh tế”, mặc dù nhiều vấn đề “lí luận về vấn đề này còn có những
quan điểm khác nhau và cơ cấu của nó cũng chƣa ổn định”.3
Trong khoa học pháp lí, mặc dù còn nhiều cách hiểu khác
nhau, song có thể định nghĩa: Luật Thương mại là lĩnh vực pháp
1
Điều 57 Hiến pháp năm 1992.
Điều 33 Hiến pháp năm 2013.
3
PGS.TS. Hoàng Thế Liên & TS. Bùi Ngọc Cƣờng, “Chƣơng 1 - Những vấn đề lí
luận cơ bản về Luật Kinh tế ở Việt Nam”, Giáo trình Luật Kinh tế của Trƣờng
Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội, 2004, tr. 37.
2
16
luật bao gồm tổng thể các quy định pháp luật do nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận nhằm quy định quy chế thương nhân, điều
chỉnh hoạt động thương mại của thương nhân và vấn đề giải
quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại của họ.
“Động lực của toàn cầu hoá chính là sự bùng nổ thƣơng mại hàng
hoá và dịch vụ”,1 dẫn đến sự hình thành một khối lƣợng đồ sộ các
văn bản pháp luật quốc gia, các điều ƣớc quốc tế... điều chỉnh các
quan hệ thƣơng mại trong nƣớc và quốc tế. Quy chế thƣơng nhân
đƣợc xác lập bởi Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tƣ, Luật Phá sản...
Hoạt động thƣơng mại của thƣơng nhân đƣợc điều chỉnh bởi văn
bản: Luật Thƣơng mại (ở Việt Nam, Luật Thƣơng mại đƣợc ban
hành năm 1997 và 2005), Bộ luật Dân sự, Luật Kinh doanh bảo
hiểm, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Trọng tài thƣơng mại, Bộ
luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Hàng hải, các luật thuế, các tập quán
thƣơng mại quốc tế... Tổng thể các nguồn luật này là cơ sở pháp
lí cho thƣơng nhân gia nhập thị trƣờng, tổ chức hoạt động và rút
khỏi thị trƣờng, là cơ sở pháp lí cho thƣơng nhân tiến hành các
hoạt động thƣơng mại vì mục đích sinh lợi. Tuy nhiên, trong khoa
học luật thƣơng mại, với sự phát triển không ngừng của các quan
hệ thƣơng mại và các văn bản pháp luật điều chỉnh chúng, nhiều
lĩnh vực pháp luật thƣơng mại hình thành mang tính chuyên sâu
(chuyên ngành) nhƣ Luật Thƣơng mại quốc tế gồm các quy định
pháp luật điều chỉnh quan hệ thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài,
Luật Tài chính - Ngân hàng điều chỉnh các hoạt động thƣơng mại
trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và thƣơng nhân kinh doanh
các dịch vụ này...
Nhƣ vậy, ở góc độ nghiên cứu và đào tạo luật học, việc nhận
diện khái niệm “Luật Thƣơng mại” có những lƣu ý cơ bản nhƣ sau:
1
PGS.TS. Nguyễn Bá Diến, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2006, tr. 17.
17
Một là, Luật Thƣơng mại là một lĩnh vực pháp luật gồm tổng
thể các quy định pháp luật do nhà nƣớc ban hành hoặc thừa nhận
nhằm điều chỉnh quy chế thƣơng nhân và hoạt động thƣơng mại
của thƣơng nhân cũng nhƣ cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thƣơng mại giữa họ. Đây là lĩnh vực pháp luật có
tính độc lập tƣơng đối, có sự giao thoa với pháp luật dân sự, vì
thực tế, Bộ luật Dân sự vẫn đƣợc sử dụng ở một mức độ nhất
định để điều chỉnh các hoạt động thƣơng mại có mục đích sinh
lợi, Bộ luật Tố tụng dân sự đƣợc sử dụng để giải quyết tranh chấp
thƣơng mại giữa các thƣơng nhân tại Toà án.
Hai là, ở Việt Nam, có sự khác biệt giữa khái niệm Luật
Thƣơng mại - với tính chất là một lĩnh vực pháp luật hay một
môn học với khái niệm Luật Thƣơng mại - với tính chất là một
văn bản luật do Quốc hội ban hành (ví dụ: Luật Thƣơng mại năm
1997 và Luật Thƣơng mại năm 2005). Theo đó, văn bản Luật
Thƣơng mại do Quốc hội ban hành chỉ là một bộ phận nhỏ thuộc
lĩnh vực pháp luật thƣơng mại và môn học Luật Thƣơng mại
đƣợc giảng dạy trong các cơ sở đào tạo luật.
Ba là, Luật Thƣơng mại Việt Nam đã và đang đƣợc tiếp nhận
với phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu là các quy định
pháp luật quốc gia và các quan hệ thƣơng mại nội địa. Luật
Thƣơng mại quốc tế, Luật Tài chính - Ngân hàng... đều thuộc lĩnh
vực pháp luật thƣơng mại do chứa đựng các quy định pháp luật
điều chỉnh hoạt động thƣơng mại nhằm mục đích sinh lợi và quy
định quy chế thƣơng nhân. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lí và
đào tạo luật, Luật Thƣơng mại quốc tế với đặc trƣng là điều chỉnh
các quan hệ thƣơng mại có yếu tố nƣớc ngoài, Luật Tài chính Ngân hàng có đặc trƣng chủ yếu là điều chỉnh các quan hệ
thƣơng mại hình thành trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng đã
đƣợc nghiên cứu, giảng dạy với tính chất là môn học riêng. Do
vậy, ở góc độ đào tạo, những năm gần đây, khái niệm “Luật
18
Thƣơng mại quốc tế” đã đƣợc sử dụng trong sự phân biệt với khái
niệm “Luật Thƣơng mại Việt Nam” và với nội dung bao gồm các
quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ thƣơng mại có yếu tố nƣớc
ngoài.
2. Nội dung của Luật Thƣơng mại Việt Nam
a) Luật Thương mại quy định quy chế thương nhân
Thƣơng nhân là chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh. Luật
Thƣơng mại xác lập quy chế thƣơng nhân thông qua các văn bản
pháp luật cụ thể về doanh nghiệp và các hình thức tổ chức kinh
doanh khác.
Pháp luật mỗi quốc gia đều có quy định điều kiện, thủ tục để
tổ chức, cá nhân kinh doanh trở thành thƣơng nhân. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế, nhiều loại hình thƣơng nhân khác nhau
hình thành, theo đó, có thể xuất hiện nhiều sự liên kết phức tạp về
vốn góp, về quản lí, về tính chất chịu trách nhiệm tài sản, về công
nghệ... Sự tồn tại và hoạt động của thƣơng nhân cần có sự công
nhận, bảo hộ từ phía nhà nƣớc và pháp luật là công cụ quan trọng
để thực hiện điều này. Quy chế thƣơng nhân đƣợc xác lập với các
nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Luật Thương mại quy định các loại hình thương nhân
Thƣơng nhân là tổ chức, cá nhân hoạt động thƣơng mại và
hiện diện bằng nhiều hình thức khác nhau, phụ thuộc vào quy
định của mỗi quốc gia, ví dụ nhƣ: Công ti TNHH, CTCP, công ti
hợp danh, DNTN... Mỗi loại hình thƣơng nhân cụ thể muốn đƣợc
thành lập và hoạt động trong nền kinh tế, trƣớc hết, cần có quy
định pháp luật quốc gia về loại hình đó, tức là cần có cơ sở pháp
lí để một loại hình thƣơng nhân cụ thể thành lập và hoạt động hợp
pháp, có sự bảo hộ từ phía nhà nƣớc.
Ở Việt Nam, công ti TNHH, CTCP, DNTN, công ti hợp danh,
19
hợp tác xã, hộ kinh doanh chỉ đƣợc thành lập và đƣợc biết đến
sau khi Quốc hội ban hành Luật Công ti năm 1990 và Luật Doanh
nghiệp tƣ nhân năm 1990. Công ti TNHH một thành viên, công ti
hợp danh chỉ đƣợc thành lập sau khi Luật Doanh nghiệp đƣợc ban
hành vào năm 1999 và công ti TNHH một thành viên do một cá
nhân làm chủ chỉ đƣợc thành lập sau khi Luật Doanh nghiệp năm
2005 đƣợc ban hành và có hiệu lực pháp luật. Sự hiện diện của
thƣơng nhân nƣớc ngoài tại Việt Nam đƣợc bắt đầu trên cơ sở
quy định của Luật Đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam năm 1987 với
các hình thức cụ thể là doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp
100% vốn nƣớc ngoài. Các hình thức thƣơng nhân này thành lập
và hoạt động với tên gọi doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp
100% vốn nƣớc ngoài trong một thời gian dài, cho đến khi pháp
luật về đầu tƣ tại Việt Nam đƣợc nhất thể hoá với sự ra đời của
Luật Đầu tƣ năm 2005. Hiện nay, phụ thuộc vào cấu trúc vốn đầu
tƣ và tính chất liên kết, doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trong nƣớc
hay có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, đều hiện diện với tên gọi nhƣ nhau
là công ti TNHH, CTCP, DNTN v.v..
Thứ hai, Luật Thương mại quy định về điều kiện và thủ tục
gia nhập thị trường của nhà đầu tư
Nhà đầu tƣ có quyền tự do thành lập doanh nghiệp để đầu tƣ
kinh doanh trong những ngành nghề pháp luật không cấm. Để
đảm bảo trật tự và lợi ích xã hội, nhà nƣớc kiểm soát việc thực hiện
quyền này thông qua các quy định về điều kiện và thủ tục gia nhập
thị trƣờng. Bằng các quy định của Luật Thƣơng mại, nhà nƣớc
kiểm soát các yếu tố về vốn đầu tƣ, ngành nghề kinh doanh,
ngƣời góp vốn thành lập, ngƣời đại diện theo pháp luật, nơi đặt
trụ sở chính... Các quy định về điều kiện và thủ tục gia nhập thị
trƣờng cũng cho phép xác định tƣ cách pháp lí hợp pháp của
thƣơng nhân cùng với trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lí trong
hoạt động thƣơng mại của họ.
20
- Xem thêm -