Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Giáo án điện tử Giáo trình luật so sánh ; nguyễn quốc hoàn...

Tài liệu Giáo trình luật so sánh ; nguyễn quốc hoàn

.PDF
552
154
127

Mô tả:

41-2017/CXBIPH/147-01/CAND 2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI Giáo trình (Tái bản lần thứ 12 có sửa đổi, bổ sung) NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN HÀ NỘI - 2017 3 Chủ biên TS. NGUYỄN QUỐC HOÀN Tập thể tác giả TS. NGUYỄN QUỐC HOÀN Chương I, Chương VII (Mục I, II, III, V) TS. PHẠM TRÍ HÙNG Chương V GS.TS. THÁI VĨNH THẮNG Chương II, Chương IV ThS. LÊ MINH TIẾN TS. NGUYỄN QUỐC HOÀN Chương VII (Mục IV) PGS.TS. NGUYỄN THỊ ÁNH VÂN Chương III, Chương VI 4 LỜI NÓI ĐẦU Luật so sánh là môn học còn khá mới trong chương trình đào tạo luật ở Việt Nam. Môn học này đang nhận được sự quan tâm sâu sắc của các luật gia, các nhà nghiên cứu pháp luật ở Việt Nam. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam tiến hành đổi mới và hội nhập ngày càng toàn diện với thế giới về nhiều lĩnh vực, việc tìm hiểu, so sánh hệ thống pháp luật của các nước trong khu vực và trên thế giới có ý nghĩa quan trọng trong khoa học cũng như trong thực tiễn xây dựng và thực thi pháp luật. Đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, giảng dạy và học tập của sinh viên luật trong các cơ sở đào tạo pháp luật, nhu cầu tìm hiểu và ứng dụng luật so sánh trong khoa học và thực tiễn pháp lí ở Việt Nam, Trung tâm luật so sánh thuộc Trường Đại học Luật Hà Nội đã tổ chức biên soạn giáo trình luật so sánh nhằm góp phần bổ sung nguồn tài liệu nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn luật so sánh. Nội dung của giáo trình này được biên soạn trên cơ sở chương trình khung đào tạo đại học ngành luật đã được Bộ giáo dục và đào tạo ban hành. Bên cạnh đó, trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo những tài liệu của môn học luật so sánh đang được sử dụng ở nhiều cơ sở đào tạo luật trên thế giới và trong khu vực, tập thể tác giả cố gắng biên soạn cuốn giáo trình này phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh ở Việt Nam hiện nay. 5 Giáo trình luật so sánh bao gồm ba phần: Phần một: Những vấn đề chung về luật so sánh; Phần hai: Các dòng họ pháp luật cơ bản trên thế giới; Phần ba: Hệ thống pháp luật của một số quốc gia ở châu Á. Mặc dù vậy, cũng cần phải nói rằng các vấn đề lí luận thuộc lĩnh vực luật so sánh từ tên gọi, bản chất, đối tượng đến phương pháp… vẫn là các vấn đề đang được tranh luận sôi nổi của các học giả ở rất nhiều nước trên thế giới. Thậm chí, những tranh luận đó vẫn chưa dừng lại ở cả những quốc gia có nền luật học phát triển. Hơn nữa, tìm kiếm được những thông tin chính xác về pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới để trình bày một cách có hệ thống từ góc độ luật so sánh trong giáo trình không phải là vấn đề đơn giản, nhất là thông tin về các hệ thống pháp luật mà ngôn ngữ sử dụng trong hệ thống pháp luật đó không thông dụng. Vì vậy, giáo trình này khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Chúng tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp để trong những lần xuất bản tiếp theo giáo trình luật so sánh sẽ hoàn thiện hơn. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI 6 PHẦN MỘT NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT SO SÁNH CHƢƠNG I NHẬP MÔN LUẬT SO SÁNH I. KHÁI NIỆM LUẬT SO SÁNH “Luật so sánh” là thuật ngữ gây nhiều tranh luận trong khoa học pháp lí trên thế giới. Nhiều học giả trong các công trình của mình đã luận bàn về việc sử dụng thuật ngữ “luật so sánh” trƣớc khi trình bày những vấn đề khác liên quan đến nội dung của nó. Trong các ngôn ngữ khác nhau, thuật ngữ đƣợc sử dụng để chỉ lĩnh vực học thuật này cũng không hoàn toàn thống nhất về mặt ngữ nghĩa. Thuật ngữ “comparative law” trong tiếng Anh và “droit comparé” trong tiếng Pháp đều có nghĩa là luật so sánh. Tuy nhiên, thuật ngữ “Rechtsvergleichung” trong tiếng Đức lại có nghĩa là so sánh luật. Trong tiếng Việt, việc sử dụng thuật ngữ “luật so sánh” và “so sánh luật” để nói đến lĩnh vực học thuật này cũng đƣợc đề cập trong một số công trình nghiên cứu.(1) Trong khoa học pháp lí, bên cạnh thuật ngữ “luật so sánh” có (1).Xem: Đỗ Văn Đại, “Suy nghĩ về nghiên cứu so sánh pháp luật”, Tạp chí luật học, số 11/2007, tr. 16. 7 nhiều thuật ngữ khác cũng đƣợc các học giả sử dụng để nói đến lĩnh vực học thuật này nhƣ: “lập pháp so sánh”, “luật học so sánh”,(1) “so sánh luật”. Trong đó, thuật ngữ “luật học so sánh” và thuật ngữ “luật so sánh” luôn là trung tâm của sự tranh luận. Có ý kiến cho rằng không nên đồng nhất hai thuật ngữ “luật học so sánh” và “luật so sánh” vì thuật ngữ “luật học so sánh” có nội dung tổng hợp hơn, rộng lớn hơn rất nhiều so với thuật ngữ “luật so sánh”.(2) Thậm chí, có học giả đã cố gắng chỉ ra những nội dung cụ thể của “luật so sánh” và “luật học so sánh” để phân biệt hai thuật ngữ này.(3) Cũng có học giả cho rằng việc sử dụng thuật ngữ “luật so sánh” có thể đem đến nghi ngờ về sự tồn tại của ngành luật mới(4) - ngành luật so sánh, giống nhƣ sự tồn tại của các ngành luật khác nhƣ luật hình sự, luật dân sự, luật hôn nhân và gia đình... Hơn nữa, những luật gia này cho rằng việc sử dụng thuật ngữ “luật so sánh” không phản ánh đƣợc đúng bản chất và nội dung của luật so sánh. Tuy vậy, đa số các học giả lại chấp nhận việc sử dụng hai thuật ngữ này có thể thay thế cho nhau. Trong khoa học cũng nhƣ trong thực tiễn, việc sử dụng thuật ngữ để chỉ phạm trù hay sự vật, hiện tƣợng nào đó chỉ là sự quy ƣớc mang tính chất tƣơng đối mặc dù trong rất nhiều trƣờng hợp, tên gọi của các sự vật, hiện tƣợng thƣờng đƣợc gắn với hình thức hoặc nội dung hay bản chất của chúng. (1).Xem: H. C. Gutteridge, Comparative Law - An introduction to the comparative method of legal study and research, Cambridge University Press, 1971, tr. 2; Dennis Patterson, A companion to Philosophy of Law and Legal Theory, Blackwell Publishers, tr. 184. (2).Xem: PGS.TS. Võ Khánh Vinh, Giáo trình luật học so sánh, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2002, tr. 6. (3).Xem: Wiliam Ewald, Comparative jurisprudence (i): what was it like to try a rat?, University of Pennsylvania Law Review, June 1995, tr. 1891. (4).Xem: PGS.TS. Võ Khánh Vinh, sđd, tr. 6. 8 Thuật ngữ “luật so sánh” đã đƣợc sử dụng từ rất lâu và đến nay vẫn là thuật ngữ đƣợc sử dụng phổ biến nhất, dù rằng các học giả còn đang tranh luận về bản chất và các vấn đề có liên quan đến nội dung của lĩnh vực học thuật này. Thậm chí, ngay cả khi thừa nhận thuật ngữ “luật so sánh” có thể dẫn đến sự hoài nghi về lĩnh vực pháp luật thực định, thuật ngữ này vẫn đƣợc sử dụng một cách chính thức trong các tài liệu viết bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau; đƣợc sử dụng để đặt tên cho môn học ở các cơ sở đào tạo khác nhau trên thế giới và là tên của nhiều tổ chức có hoạt động gắn với lĩnh vực học thuật này. Tra cứu các dữ liệu sử dụng tiếng Anh trên mạng Internet trong thời gian gần đây cho thấy thuật ngữ “Comparative Law” (luật so sánh) càng ngày càng có tần suất sử dụng nhiều hơn thuật ngữ “Comparative Jurisprudence” (luật học so sánh).(1) Điều này cho thấy tính phổ biến và thông dụng của thuật ngữ “luật so sánh”. Có nhiều định nghĩa khác nhau về luật so sánh. Tuy nhiên, các định nghĩa về luật so sánh đƣợc các học giả sử dụng thƣờng không tập trung giải quyết vấn đề bản chất mà chỉ tập trung vào đối tƣợng hoặc là chức năng của nó.(2) Hai học giả ngƣời Đức là Zweigert và Kotz trong công trình “Giới thiệu về luật so sánh” mô tả “Luật so sánh là hoạt động trí tuệ mà pháp luật là đối tượng và so sánh là quá trình của hoạt động”. Cùng với việc xác định đối tƣợng so (1). Tra cứu trên mạng Internet bằng công cụ tìm kiếm Google tháng 11/2007, thuật ngữ “Comparative law” xuất hiện khoảng 1.540.000 lần trong các tài liệu, trong khi đó thuật ngữ “Comparative Jurisprudence” đƣợc sử dụng khoảng 36.300 lần trong các tài liệu. Đến tháng 3/2009, cũng với công cụ tìm kiếm của Google, thuật ngữ “Comparative law” xuất hiện khoảng 2.100.000 lần trong các tài liệu, thuật ngữ “Comparative Jurisprudence” chỉ còn xuất hiện 18.000 lần. (2).Xem: H. C. Gutteridge, Comparative Law - An introduction to the comparative method of legal study and research, Cambridge University Press, 1971, tr. 3 9 sánh là các hệ thống pháp luật khác nhau, hai học giả này đã khẳng định: “luật so sánh là so sánh các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới”.(1) Peter de Cruz - tác giả của cuốn sách “Luật so sánh trong thế giới thay đổi” định nghĩa luật so sánh là “nghiên cứu có hệ thống các truyền thống pháp luật và các quy phạm pháp luật nào đó trên cơ sở so sánh”(2) dựa trên lập luận rằng luật so sánh thƣờng tập trung vào các truyền thống pháp luật lớn trên thế giới và để đƣợc coi là công trình luật so sánh, công trình đó đòi hỏi phải là sự so sánh hai hoặc nhiều hệ thống pháp luật hoặc truyền thống pháp luật hoặc so sánh các chế định, các ngành luật của hai hay nhiều hệ thống pháp luật.(3) Khác với các định nghĩa nêu trên, Michael Bogdan xác định “luật so sánh bao gồm: So sánh các hệ thống pháp luật khác nhau đ xác đ nh nh ng đi tương đồng và khác biệt gi ch ng; Nghiên cứu nh ng đi tương đồng và khác biệt đã được xác đ nh, ch ng hạn, giải thích nguồn gốc củ ch ng, đánh giá nh ng giải pháp được sử dụng trong các hệ thống pháp luật khác nhau, phân nhóm các hệ thống pháp luật thành các dòng họ pháp luật hoặc tì iế nh ng đi cốt l i chung của các hệ thống pháp luật; và Là r nh ng vấn đề ng tính phương pháp luận nảy sinh có liên qu n đến các nhiệm vụ trên, bao gồm cả nh ng vấn đề có tính phương pháp luận liên qu n đến việc nghiên cứu pháp luật nước ngoài”.(4) Mặc dù những định nghĩa trên không hoàn toàn đồng nhất (1).Xem: Konrad Zweigert and Hein Kotz, Introduction to Comparative Law, Clarendon Press – Oxford, 1998, tr. 2. (2 ).Xem: Peter de Cruz, Comparative in a changing world, Cavendish Publishing Limited, 1999, tr. 3. (3).Xem: Peter de Cruz, sđd, tr. 3. (4).Xem: Michael Bogdan, Comparative Law, Kluwer Norstedts Juridik Tano, 1994, tr. 18. 10 nhƣng chúng có thể giúp cho chúng ta đi đến một số nhận định cơ bản sau: Trước hết, có thể khẳng định rằng luật so sánh không phải là ngành luật hay lĩnh vực pháp luật thực định. Nói cách khác, luật so sánh không phải là “hệ thống các quy phạm pháp luật có đặc tính chung đ điều chỉnh các quan hệ xã hội cùng loại trong một lĩnh vực nhất đ nh củ đời sống xã hội”(1) theo quan niệm truyền thống về “ngành luật” của khoa học lí luận về pháp luật. Ở mức độ khái quát hơn, cũng có thể nói rằng luật so sánh không phải là lĩnh vực pháp luật thực định nhƣ các lĩnh vực luật hiến pháp, luật hành chính, luật hình sự, luật dân sự… mặc dù thuật ngữ “luật so sánh” có thể dẫn đến việc hình dung về sự tồn tại của một hệ thống quy phạm pháp luật tạo nên ngành luật hoặc lĩnh vực pháp luật theo cách tƣ duy truyền thống. Thứ hai, so sánh các quy phạm, các chế định pháp luật hay các giải pháp pháp lí cho một vấn đề nào đó trong c ng hệ thống pháp luật không thuộc về nội dung của luật so sánh. Việc so sánh các quy phạm, các chế định pháp luật hoặc các giải pháp pháp lí thuộc các lĩnh vực pháp luật thực định trong hệ thống pháp luật của nƣớc mình là công việc mà các luật gia thƣờng xuyên thực hiện khi nghiên cứu, giải thích và áp dụng pháp luật. Khác với việc so sánh các đối tƣợng trong c ng hệ thống pháp luật nhƣ vậy, các quy phạm, chế định hay các giải pháp pháp luật đƣợc so sánh trong luật so sánh không thuộc cùng hệ thống pháp luật. Do đó, việc so sánh các quy định về tội phạm với các quy định về vi (1).Xem: Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lí luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Tƣ pháp, 2006, tr. 403. 11 phạm hành chính trong hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam hoặc so sánh các quy định về các tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành với các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam trƣớc đây không thuộc nội dung của luật so sánh. Hơn nữa, cũng cần phải lƣu rằng trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy pháp luật của quốc gia, một số học giả, luật gia vẫn thƣờng viện dẫn các quy định của pháp luật nƣớc ngoài và so sánh quy định của pháp luật nƣớc mình; hoặc khi nghiên cứu, giảng dạy về pháp luật nƣớc ngoài, họ thƣờng so sánh các quy định của pháp luật nƣớc ngoài với pháp luật nƣớc mình. Tuy nhiên, nếu chỉ là những so sánh mang tính chất bột phát, ngẫu nhiên, thiếu tính hệ thống thì khó có thể xem các so sánh đó là nội dung của luật so sánh.(1) Thứ ba, luật so sánh không đồng nhất với nghiên cứu pháp luật nƣớc ngoài. Trong quá trình nghiên cứu luật so sánh, các nhà nghiên cứu, các luật gia thƣờng so sánh các hệ thống pháp luật của nƣớc ngoài với hệ thống pháp luật của nƣớc mình hoặc so sánh pháp luật của các nƣớc ngoài với nhau. Để làm đƣợc điều đó, các luật gia, các nhà nghiên cứu phải tìm hiểu, nghiên cứu về các hệ thống pháp luật nƣớc ngoài một cách toàn diện. Vì vậy, những hiểu biết chính xác về pháp luật của nƣớc ngoài là đòi hỏi không thể thiếu đƣợc để có thể tiến hành việc so sánh luật. Tuy nhiên, nếu chỉ trình bày những hiểu biết về hệ thống pháp luật của nƣớc ngoài mà không đặt nó trong sự so sánh với các hệ thống pháp luật khác, không xác định những điểm tƣơng đồng và khác biệt của nó với các hệ thống pháp luật khác thì đó không phải là công (1).Xem: Michael Borgdan, sđd, tr. 21. 12 trình so sánh luật. Trong thực tiễn, các luật sƣ thƣờng phải tìm hiểu pháp luật nƣớc ngoài để bảo vệ quyền và lợi ích cho khách hàng của mình; các học giả cũng tìm kiếm thông tin về pháp luật nƣớc ngoài để nâng cao hiểu biết pháp luật của mình nhƣng việc nghiên cứu thuần tuý hệ thống pháp luật nƣớc ngoài không có nghĩa đó là so sánh luật. Thứ tư,“ ột trong nh ng nhiệm vụ quan trọng và thú v nhất của luật so sánh là cố gắng giải thích nh ng đi tương đồng và khác biệt”.(1) Điều đó có nghĩa là khi đã xác định đƣợc những điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật hoặc các chế định hay quy phạm pháp luật của các hệ thống pháp luật, ngƣời nghiên cứu thƣờng đặt câu hỏi tại sao các hệ thống pháp luật khác nhau lại có những điểm tƣơng đồng và khác biệt đó. Kết quả của việc giải thích những điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật sẽ giúp cho luật so sánh phát huy đƣợc những giá trị của nó đối với lí luận và thực tiễn pháp luật. Bản chất của luật so sánh là một trong những vấn đề đƣợc tranh luận gay gắt trong giới khoa học pháp lí trên thế giới. Nói cách khác, với câu hỏi “bản chất của luật so sánh là gì?” thì ngay cả thời điểm hiện tại vẫn có những câu trả lời khác nhau. Trong những năm 50, 60 và 70 của thế kỉ trƣớc, nhiều học giả cho rằng luật so sánh là phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc áp dụng đối với lĩnh vực pháp luật.(2) Thậm chí, nhiều nhà khoa học đặt câu hỏi rằng nếu luật so sánh đƣợc thừa nhận là ngành khoa học thì đối tƣợng của nó là gì khi nó chỉ là sự vận dụng phƣơng pháp so sánh (1).Xem: Michael Borgdan, sđd, tr. 68. (2).Xem: Dialil I. Kiekbaev, Electronic Journal of Comparative Law, Vol. 7.3 September 2003 http://www.ejcl.org/73/art73-2.html. 13 để xác định những điểm chung và những điểm đặc thù của các hệ thống pháp luật trên thế giới.(1) Thêm vào đó, một số nhà luật học đã coi luật so sánh chỉ là phƣơng tiện có vai trò quan trọng trong việc giải thích các quy phạm pháp luật của các hệ thống pháp luật khác nhau đồng thời xem xét khả năng có thể làm cho hệ thống pháp luật ở xã hội này thích nghi với xã hội khác. Vì thế, những ngƣời theo quan điểm này đã nhấn mạnh khả năng ứng dụng của luật so sánh với tƣ cách là phƣơng tiện để hiểu biết hơn về pháp luật chứ không phải là môn khoa học pháp lí.(2) Từ những năm 80 của thế kỉ XX trở lại đây, mặc dù vẫn có quan điểm xem luật so sánh là phƣơng pháp nhƣng nhiều học giả cho rằng cần phải nhìn nhận luật so sánh là hệ thống tri thức.(3) Các kết quả nghiên cứu của luật so sánh nên đƣợc xem không phải chỉ là một phần của phƣơng pháp so sánh mà còn đƣợc xem nhƣ là việc hình thành hệ thống tri thức độc lập(4) và vì thế cần phải công nhận nó nhƣ là môn khoa học độc lập. Thêm vào đó, để lập luận rằng luật so sánh nên đƣợc xem nhƣ là môn khoa học độc lập, các nhà luật học đã viện dẫn sự tồn tại của các khoa học xã hội và nhân văn khác khi sử dụng phƣơng pháp so sánh một cách rộng rãi và kết quả là đã dẫn đến sự ra đời của các khoa học so sánh mới(5) nhƣ chính trị so sánh, xã hội học so sánh... Hơn nữa, một số nhà luật học còn khẳng định rằng “phƣơng pháp so sánh luật” và “luật so sánh” là những khái niệm độc lập. Theo cách lập luận này, nếu “phƣơng pháp so sánh luật” nói đến (1).Xem: Dialil I. Kiekbaev, sđd. (2).Xem: Dialil I. Kiekbaev, sđd. (3).Xem: Peter de Cruz, sđd, tr. 226. (4).Xem: Peter de Cruz, sđd, tr. 5. (5).Xem: Dialil I. Kiekbaev, sđd. 14 phƣơng tiện để nghiên cứu các hiện tƣợng pháp lí xã hội thì “luật so sánh” là lĩnh vực khoa học có đối tƣợng nghiên cứu là các hệ thống pháp luật đƣơng đại.(1) Một lí do khác để các nhà luật học ủng hộ quan điểm nhìn nhận luật so sánh là môn khoa học độc lập xuất phát từ vai trò của luật so sánh trong việc phân tích và giải quyết những vấn đề mới của luật học nói chung. Theo đó, phƣơng pháp so sánh là phƣơng pháp cơ bản đặc thù của việc nghiên cứu các hiện tƣợng pháp luật. Luật so sánh không chỉ dừng lại ở việc so sánh các hệ thống pháp luật mà còn nghiên cứu mối quan hệ giữa các hệ thống pháp luật này, giải thích nguồn gốc của những điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật đó nhằm mục đích cải tổ hệ thống pháp luật quốc gia cũng nhƣ làm hài hoà và đi đến nhất thể hoá pháp luật của các quốc gia. Cũng có kiến dung hoà hai quan điểm trên và cho rằng luật so sánh vừa là phƣơng pháp khoa học, vừa là môn khoa học. Theo quan điểm này, luật so sánh là phƣơng pháp bởi vì nó đƣợc sử dụng nhƣ là phƣơng tiện để tập hợp thông tin về các hệ thống pháp luật hoặc các hiện tƣợng pháp luật đƣợc so sánh. Tuy nhiên, cũng hoàn toàn hợp lí khi xem luật so sánh là môn khoa học bởi vì nó tồn tại song song với lí luận chung về pháp luật nhƣng với hệ thống tri thức riêng.(2) Trong lí luận về khoa học hiện nay, chƣa có sự thống nhất về tiêu chí để xác định môn khoa học độc lập.(3) Có quan niệm xác định rằng khoa học độc lập phải có đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu riêng nhƣng cũng có quan niệm cho rằng môn khoa (1).Xem: Dialil I. Kiekbaev, sđd. (2).Xem: Dialil I. Kiekbaev, sđd. (3).Xem: Michael Bogdan, sđd, tr. 24-25. 15 học độc lập phải tạo ra hệ thống những tri thức mới khác với các khoa học đã tồn tại. Dù theo quan niệm nào thì luật so sánh ngày nay không chỉ có đối tƣợng và phƣơng pháp riêng mà kết quả của những nghiên cứu so sánh luật đã hình thành nên những tri thức pháp luật khác với hệ thống tri thức của các khoa học pháp lí truyền thống. Hơn nữa, sự phân chia các khoa học trong lĩnh vực học thuật nào đó cũng chỉ mang tính tƣơng đối. Các khoa học nghiên cứu về nhà nƣớc và pháp luật có thể đƣợc xem đó là khoa học pháp lí. Nhƣng trong cái gọi là “khoa học pháp lí” đó, ngƣời ta lại có thể phân chia nó thành các khoa học pháp lí “thành phần” nhƣ lí luận về pháp luật, luật hiến pháp, luật hành chính, luật hình sự, tội phạm học... Thậm chí, trong sự phát triển của khoa học nói chung và khoa học pháp lí nói riêng, ở thời điểm nào đó, môn khoa học với đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu nhất định có thể đƣợc chia tách thành nhiều khoa học độc lập có mối quan hệ với nhau. Vì thế, việc xác định đƣợc đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu cũng nhƣ những tri thức khác biệt mà luật so sánh tạo ra có thể cho phép chúng ta chấp nhận luật so sánh là khoa học độc lập nhƣ các khoa học đang tồn tại trong hệ thống khoa học pháp lí. Bất chấp những tranh luận gay gắt về bản chất của luật so sánh và cho d chƣa có quan điểm chung thống nhất nhƣng bản thân luật so sánh cũng nhƣ những khái niệm cơ bản, mục đích, chức năng và phƣơng pháp của nó đã thu hút đƣợc sự quan tâm của các nhà luật học trên thế giới và vì thế luật so sánh vẫn đƣợc phát triển ngày càng mạnh mẽ. Ngày nay, luật so sánh đã trở thành môn học đƣợc giảng dạy trong các chƣơng trình đào tạo của các cơ sở đào tạo luật trên thế giới ở các bậc đào tạo. Luật so sánh không chỉ dừng lại ở việc trình bày về các dòng họ pháp luật 16 lớn trên thế giới mà đã có sự hình thành nhiều môn học so sánh trong các lĩnh vực pháp luật chuyên ngành nhƣ luật hiến pháp so sánh, luật hành chính so sánh, luật hợp đồng so sánh... II. ĐỐI TƢỢNG CỦA LUẬT SO SÁNH Khác với các lĩnh vực khoa học pháp lí khác nhƣ luật dân sự, luật hình sự, luật hành chính hay luật hiến pháp tập trung nghiên cứu lĩnh vực pháp luật nhất định của hệ thống pháp luật, luật so sánh không nghiên cứu so sánh các ngành luật, các chế định pháp luật hay các quy phạm pháp luật khác nhau trong cùng hệ thống pháp luật. Cho dù còn tranh luận về bản chất của luật so sánh nhƣng các luật gia đều thừa nhận “việc so sánh các hệ thống pháp luật khác nhau nhằm tìm ra nh ng đi tương đồng và khác biệt củ ch ng”(1) là nội dung cơ bản của các công trình nghiên cứu luật so sánh. Từ đó có thể nhận định rằng các hệ thống pháp luật là đối tƣợng của luật so sánh. Tuy nhiên, vấn đề đối tƣợng của luật so sánh trở nên phức tạp xuất phát từ nội hàm của khái niệm hệ thống pháp luật. “Hệ thống pháp luật” (legal system) là khái niệm có nhiều nội hàm khác nhau tuỳ thuộc vào ngữ cảnh sử dụng thuật ngữ đó. Có hai ngữ cảnh thƣờng đƣợc các học giả sử dụng khi nói đến hệ thống pháp luật. Thứ nhất, thuật ngữ “hệ thống pháp luật” đƣợc sử dụng gắn với pháp luật của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ nào đó. Chẳng hạn, thuật ngữ hệ thống pháp luật đƣợc sử dụng để nói đến hệ thống pháp luật của Mỹ với hàm ý là quốc gia nhƣng cũng có thể ám chỉ hệ thống pháp luật của từng bang trong nhà nƣớc liên (1).Xem: Michael Bogdan, sđd, tr. 18. 17 bang Mỹ. Hoặc khi nói đến pháp luật của Trung Quốc hiện nay, thuật ngữ hệ thống pháp luật có thể đƣợc sử dụng để nói đến toàn bộ pháp luật của Trung Quốc nhƣng cũng có thể đƣợc sử dụng để nói đến hệ thống pháp luật của Hồng Kông với tƣ cách là một bộ phận của hệ thống pháp luật Trung Quốc. Với ngữ cảnh đó, hệ thống pháp luật thƣờng đƣợc hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật của quốc gia hay vùng lãnh thổ.(1) Cũng có học giả mở rộng nội hàm của khái niệm hệ thống pháp luật khi đặt nó trong mối quan hệ với quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhất định. Theo đó, hệ thống pháp luật không chỉ là tổng thể các quy phạm pháp luật mà còn bao hàm cả các thiết chế pháp luật của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ.(2) Vì thế, khi trình bày về hệ thống pháp luật nào đó, các học giả, các nhà nghiên cứu không phải chỉ nói đến hệ thống quy phạm pháp luật mà còn nói đến cả các thiết chế pháp luật nhƣ toà án, các cơ quan tài phán… Thậm chí, hệ thống pháp luật còn đƣợc xác định bao gồm: “1) Tất cả các quy tắc xử sự ng tính pháp lí có hiệu lực ở ột nước; 2) Tất cả các quy phạ thiết chế quy đ nh về việc thành lập và hoạt động các thiết chế pháp lí o gồ phương pháp luận củ các thiết chế đó, ch ng hạn các phương pháp giải thích và sự tu n thủ tiền lệ hành chính và án lệ , c ng với 3) Tất cả nh ng người thực hiện việc n hành, giải thích và áp ụng (1).Xem: Joseph Raz, The concept of a legal system - An introduction to the Theory of legal system, Claredon Press - Oxford, 1980, tr. 121; Dr. Frank Maher and Louis Waller, An Introduction to Law, The Law book Company Limited, Australia, 1991, tr. 3; Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lí luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội, 2007, tr. 401. (2).Xem: Winterton, Comparative Law Teaching, American Journal of Comparative Law, Vol 23 (1975), tr. 69, 70. 18 các quy phạ pháp luật, gồ các luật gi ”.(1) Hơn thế nữa, có học giả còn mở rộng khái niệm hệ thống pháp luật đến mức đƣa vào trong nội hàm của nó tất cả những vấn đề có liên quan đến nội dung cũng nhƣ sự vận hành của pháp luật trong xã hội. Theo đó, ngoài các quy phạm pháp luật, hệ thống pháp luật còn bao hàm các yếu tố khác nhƣ phạm vi điều chỉnh của pháp luật (legal extention), mức độ điều chỉnh của pháp luật (legal penetration), văn hoá pháp luật, các thiết chế pháp lí (toà án, cơ quan lập pháp, cơ quan hành chính, cơ sở đào tạo luật, hội luật gia), những ngƣời hành nghề luật và các thủ tục pháp lí.(2) Thứ h i, bên cạnh việc sử dụng “hệ thống pháp luật” để nói đến pháp luật của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, thuật ngữ này còn đƣợc sử dụng để nói đến pháp luật của một nhóm quốc gia hoặc vùng lãnh thổ mà hệ thống pháp luật của chúng có những điểm chung nhất định. René David, trong công trình giới thiệu về các hệ thống pháp luật lớn trên thế giới đã sử dụng thuật ngữ “hệ thống pháp luật” khi nói đến nhóm hệ thống pháp luật của các nƣớc thuộc lục địa châu Âu - hệ thống pháp luật La Mã Giécmanh (The Romano - Germanic system of law). Tƣơng tự nhƣ vậy, nhiều học giả luật so sánh khác cũng sử dụng thuật ngữ hệ thống pháp luật để nói đến pháp luật của nhóm quốc gia hoặc vùng lãnh thổ. Peter de Cruz trong cuốn “Comparative Law in a changing world” (luật so sánh trong thế giới thay đổi) cũng sử dụng thuật ngữ “hệ thống pháp luật” khi nói đến nhóm pháp luật (1).Xem: Thomas Lundmark, Charting the divide between Common law and Civil law, Oxford University press, 2012, tr. 3. ( 2 ).Xem: John Henry Merryman, David S. Clark, John O.haley, The Civil law Tradition: Europe, Latin America and East Asia, The Michie Company, 1994, tr. 52. 19 của phần lớn các nƣớc Tây Âu, các nƣớc Mỹ Latinh, các nƣớc v ng Đông Á và phần lớn các nƣớc châu Phi (Civil law system).(1) Nhiều học giả khác cũng sử dụng thuật ngữ hệ thống pháp luật để nói đến hệ thống pháp luật Anh-Mỹ (Anglo-American system); hệ thống pháp luật XHCN (Socialist legal system). Điều dễ nhận thấy là khi sử dụng thuật ngữ “hệ thống pháp luật” để nói đến pháp luật của nhóm quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nào đó, các học giả không có hàm ý rằng nội dung của thuật ngữ này là hệ thống quy phạm, các chế định pháp luật và các thiết chế pháp lí hoặc bao hàm cả mức độ, phạm vi điều chỉnh pháp luật giống nhƣ “hệ thống pháp luật” của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ. Khi sử dụng khái niệm “hệ thống pháp luật” để nói đến pháp luật của nhóm quốc gia hoặc vùng lãnh thổ, nội hàm của nó đã đƣợc mở rộng hơn rất nhiều. Theo đó, hệ thống pháp luật là “triết học pháp luật và kĩ thuật pháp lí”(2) chung của nhóm quốc gia, vùng lãnh thổ nào đó. Một số học giả, thay vì sử dụng thuật ngữ “hệ thống pháp luật” đã sử dụng thuật ngữ “dòng họ pháp luật” (legal family) để chỉ nhóm hệ thống pháp luật có những điểm chung nhất định. Vì vậy, trong các công trình luật so sánh, chúng ta cũng gặp các thuật ngữ nhƣ “Dòng họ pháp luật La Mã - Giécmanh (Romano-Germanic family) hay dòng họ pháp luật Anh-Mỹ (Anglo-American legal family hoặc Common law), dòng họ pháp luật XHCN (Socialist legal family). René David trong cuốn “Các hệ thống pháp luật trên thế giới đƣơng đại” (Major legal systems in the world today) cũng sử dụng thuật ngữ dòng họ pháp luật thay cho thuật ngữ “hệ thống pháp luật” khi ông nói về dòng họ pháp luật La Mã (1). Peter de Cruz, sđd, tr. 43. (2).Xem: George Winterton, sđd, tr. 69, 70. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

thumb
Văn hóa anh mỹ...
200
20326
146