TRƯÒNGĐÀOTẠO
C Á C CHỨC DANH Tư PHÁP
TẬPI
Phần chuyên đề
ƯVIỆN
ẠOCACCHỨCDANH
rPHÁP
NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
14/929 - CXB
34 (V) 1 — ---- ^---------CAND - 2001
TRƯỜNG ĐÀO TẠO
CÁC CHỨC DANH T ư PHÁP
GIÁO TRÌNH
KỸ NÂNG GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
■
Tập 1 - Phần chuyên đề
\ ịị \
NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN N H Â N D Â N
HÀ NÔI - 2001
CHỦ BIÊN
Nguyễn Thanh Bình
TẬP THỂ TÁC GIẢ
1. Nguyễn Thanh Bình
Chương 1, 2, 3, 5, 6 , 7
2. Nguyễn Thị Mai
Chương 4
3. Đặng Xuân Đào
Chưoìig 5
Chương ỉ
QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH T R O N G
LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH V IỆ T N A M
1. Quyết định hành chính trong Luật hành chính
1.1. Khái niệm
Quyết định hành chính là một phạm trù quan
trọng trohg khoa học pháp lý nói chung và trong nhiều
ngành luật khác nhau; nhưng quan trọng nhất và được
đề cập nhiều hơn cả là trong các ngành khoa học quản
lý, ngành luật hành chính và tô tụng hành chính.
Theo quan niệm chung, quyết định hành chính là
một dạng (loại) cụ thể của quyết định. Khái niệm quyết
định bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng La tinh là "actus"
nghĩa là hành động, hành vi. Như vậy, quyết định hành
chính cũng là những hành vi, hành động thuộc quyền
hành pháp. Theo giáo sư Prosper Well thuộc trường Đại
học luật, kinh tế và khoa học xã hội Paris, quyết định
hành chính (quyết định phải được chấp hành) là sự biểu
thị ý chí của pháp luật'. Còn theo ông Francois Lamie ' Xem “Luật hành chính” - Prosper-Well, NXB Thẽ giới, Hà Nội, 1995,
trang 55.
5
thành viên Hội đồng Nhà nước nước Cộng hoà Pháp,
giảng viên trường Hành chính quốc gia Pháp thì coi
quyết định hành chính là một văn bản pháp lý đơn
phương (khác với hợp đổng hành chính) do một cơ
quan hành chính đưa ra và chúng không bao gồm các
hành vi chính trị (như sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng,
Quyết định giải tán Quốc hội, đệ trình dự án luật lên
Quốc hội...)^.
ở nước ta, quyết định hành chính được quan niệm
khá tập trung và thống nhất và được đề cập đến trong
nhiều tài liệu pháp lý, nhất là sách báo chuyên khảo,
các sách giáo khoa, Luật hành chính... Nhưng theo
nghĩa chung nhất thì quyết định hành chính là kết quả
của sự thể hiện ý chí quyền lực đơn phương của các chủ
thể quản lý hành chính Nhà nước, được biểu hiện dưới
những hình thức nhất định tác động đến các đối tượng
nhất định trong quá trình hành pháp.
Với ý nghĩa như vậy, quyết định hành chính có
thể là một hành động hoặc một quyết định bằng vãn
bản. Các quyết định hành chính có những dấu hiệu sau
đây:
+ Được ban hành, được thực hiện trên cơ sở luật
và để thi hành luật (tính dưới luật);
^ Xem “Một số vấn đé vé tài phán hành chính ờ Cộng hoà Pháp”. NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, trang 50,51,
6
+ Để tác động (quy định, điều chỉnh, bảo vệ...)
các quan hệ xã hội hoặc hành vi xử sự của con người
(đối tượng) trong quá trình hành pháp;
+ Do các chủ thể quản lý hành chính Nhà nước có
thẩm quyền ban hành hoặc thực hiện theo quy định của
pháp luật.
Như vậy, quyết định hành chính theo quan niệm
trên là một dạng cụ thể trong hệ thống các quyết định
hành chínhthànhvăn được biểu hiện trong hệ thống các
văn bản pháp luật của Nhà nước. Hay nói cách khác,
trong hệ thống các văn bản pháp luật được coi là quyết
định hành chính theo nghĩa chung thì quyết định hành
chính trong luật hành chính chỉ là một loại trong các loại
quyết định được trình bày ở phần phân loại dưới đây.
1.2. Phán loại
Trong các hình thức quyết định hành chính, quyết
định hành chính bằng văn bản thông thường có 2 loại:
- Quyết định quy phạm (còn gọi là văn bản quy
phạm pháp luật)
- Quyết định cá biệt (còn gọi là vãn bản áp dụng
pháp luật)
ỉ . 2.ỉ. Quyết định quy phạm
Trong luật hành chính Việt Nam, quyết định quy
phạm hành chính được thể hịện dưới hình thức các văn
bản quy phạm pháp ỉuật hành chính.
7
1.2.1.1. Khái niệm
Văn bản quy phạm pháp luật hành chính là vùn
bản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo
trình tự, thủ tục luật định, trong đó có các quy tắc xử sự
chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN).
Văn bản quy phạm pháp luật hành chính phải hội
đủ các yếu tố sau đây:
- Văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
ban hành theo những hình thức do luật định (theo Điều
1 Chương I và Chưofng II Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật);
- Văn bản được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
ở Trung ương ban hành theo đúng trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định (xem từ chưofng III đến chương VII
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị
định số 101/CP ngày 23/9/1997 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật);
- Văn bản có chứa các quy tắc xử sự chung được
áp dụng nhiều lần, đối với mọi đối tượng hoặc một
nhóm đối tượng, có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc
hoặc từng địa phương.
Quy tắc xử sự chung là những chuẩn mực mà mọi
8
cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tuân theo khi tham gia
quan hệ xã hội được quy tắc đó điều chính;
- Văn bản được cơ quan Nhà nước bảo đảm thi
hành bằng các biện pháp như tuyên truyền, giáo dục,
thuyết phục, các biện pháp về tổ chức, hành chính, kinh
tế hoặc cưỡng chế khi cần thiết.
Như vậy theo quan niệm chung, quyết định hành
chính được sử dụng để thực hiện quyền hành pháp của
các chủ thể quản lý hành chính Nhà nước. Chúng có
khái niệm rộng, được biểu hiện dưới nhiều hình thức và
chủng loại khác nhau và đều tác động đến đối tượng đa
dạng, phức tạp trên nhiều lĩnh vực của quá trình hành
pháp.
1.2.ỉ . 2. Hệ thống văn bản quy phạm luật hành
chính
i. Văn bản do Quốc hội ban hành: Hiến pháp,
Luật, Nghị quyết. Văn bản do Uỷ ban Thưòfng vụ Quốc
hội ban hành: Pháp lệnh, Nghị quyết.
ii. Văn bản do các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền khác ở Trung ưcmg ban hành để thi hành văn bản
quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội;
- Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước;
- Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ; Quyết
định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ;
9
- Quyết định, Chí thị, Thông tư của Bộ trướng,
Thủ trưỏíng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan
thuộc Chính phủ;
- Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao; Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Nghị quyết, Thông tư liên tịch giữa các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền, giữa cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền với tổ chức chính trị - xã hội;
iii.
Văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật
của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và văn bản
của cơ quan Nhà nước cấp trên; văn bản do ư ỷ ban
nhân dân ban hành còn để thi hành Nghị quyết của Hội
đổng nhân dân cùng cấp:
- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân;
- Quyết định, Chỉ thị của ư ỷ ban nhân dân.
1.2.13. Tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống
nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hành
chính
Hiến phăp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có
hiệu lực pháp lý cao nhất.
Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành phải
phù hợp với Hiến pháp, bảo đảm tính thống nhất, thứ bậc
hiệu lực pháp lý của văn bản ưong hệ thống pháp luật.
10
Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà
nước cấp dưới ban hành phải phù hợp với văn bản quy
phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên.
Tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, văn bản liên tịch của các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền, giữa các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền với tổ chức chính tậ - xã hội, văn
bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và u ỷ
ban nhân dân các cấp được thể hiện như sau:
- Nghị quyết, Nghị định do Chính phủ ban hành
phải phù hợp với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của
Quốc hội; Pháp lệnh, Nghị quyết của ư ỷ ban Thưcmg
vụ Quốc hội; Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước.
- Quyết định, Chỉ thị do Thủ tướng Chính phủ ban
hành phải phù hợp với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của
Quốc hội; Pháp ỉệnh, Nghị quyết của ư ỷ ban Thường
vụ Quốc hội; Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước;
Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ.
- Quyết định, Chỉ thị, Thông tư do Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, Luật,
Nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ
ban Thưòmg vụ Quốc hội; Lệnh, Quyết định của Chủ
11
tịch nước; Nghị quyết, Nghị định của Chính phú; Quyết
định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; các văn bản quy
phạm pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ về quản lý ngành, lĩnh vực do Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ phụ trách.
- Nghị quyết, Thông tư liên tịch do các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền ở Trung ương hoặc do cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền ở Trung ưofng với tổ chức
chính trị - xã hội ban hành phải phù hợp với Hiến pháp,
Luật, Nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, Nghị quyết
của ư ỷ ban Thường vụ Quốc hội; Lệnh, Quyết định cúa
Chủ tịch nước; Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ;
Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.
- Nghị quyết do Hội đồng nhân dân; Quyết định,
Chỉ thị do ư ỷ ban nhân dân các cấp ban hành phải phù
hợp với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội;
Pháp lệnh, Nghị quyết của u ỷ ban Thường vụ Quốc
hội; Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước; Nghị quyết,
Nghị định của Chính phủ; Quyết định, Chỉ thị của Thủ
tướng Chính phủ; các văn bản của cơ quan Nhà nước
cấp trên.
Văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ; Nghị quyết, Thông tư liên tịch giữa
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ở Trung ương với
12
nhuu, giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ở Trung
ương với tổ chức chính trị - xã hội; văn bản quy phạm
pháp luật của Hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân các
cấp trái với Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh văn bản của cơ
quan Nhà nước cấp trên phải bị cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền đình chỉ, bãi bỏ theo quy định của pháp
luật hiện hành.
ỉ .2.1.4. Số và kỷ hiệu cùa văn bản quy phạm pháp
luật
Văn bản quy phạm pháp luật khi ban hành được
đánh số thứ tự theo nãm ban hành và có ký hiệu riêng
cho từng loại văn bản. Việc đánh số thứ tự phải bắt đầu
tìr số 01 theo từng loại văn bản của năm ban hành loại
văn bản đó.
Năm ban hành văn bản phải được ghi đầy đủ các số.
Ký hiệu văn bản quy phạm pháp luật do Chính
phú, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, Thủ trưỏfng cơ quan thuộc Chính phủ
ban hành, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch do các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ỏ Trung ương hoặc do
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ỏ Trung ương với tổ
chức chính trị - xã hội ban hành được quy định như sau:
- Nghị quyết, Nghị định do Chính phủ ban hành;
Số..../199.../NQ-CP; S a .!,/l 99. ./ỊSÍĐ-CP;
- Quyết định, Chỉ thị do Thủ tướng Chính phủ ban
13
hành; SỐ..../199..../QĐ-TTg; Số.... /199..../CT-TTg;
- Quyết định, Chỉ thị, Thông tư do Bộ trưởng, Thủ
trưcmg cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ ban hành; SỐ..../199..../QĐ- (tên viết tắt do
cơ quan ban hành văn bản), ví dụ: Quyết định số 01
ngày 20-01-1997 do Bộ Tư pháp ban hành được đánh
số la; Số 01/1997/QĐ-BTP; SỐ..../199.../CT- (tên viết tắt
của cơ quan ban hành văn bản), ví dụ: Chỉ thị số 01
ngày 25-01-1997 do Bộ Tài chính ban hành được đánh
so la: SỐOl/1997/CT-BTC; SỐ..../199.../TT- (tên viết lắt
của cơ quan ban hành văn bản), ví dụ: Thông tư số 01
ngày 25-8-1997 của Bộ Công nghiệp ban hành được
đanh số là: SỐ01/1997AT-BCN;
- Nghị quyết liên tịch, Thông tư liên tịch:
Số...../199..../NQLT- (tên viết tắt của cơ quan, tổ chức
ban hành văn bản), ví dụ: Nghị quyết liên tịch số 05
ngày 18-9-1997 do Tổng liên đoàn Lao động Việt
Nam với Bộ Tài chính ban hành được đánh số là: Số
05/1997/NQLT-TLĐLĐ-BTC; SỐ..../199.../TTLT (tên
viết tắt của cơ quan ban hành văn bản), ví dụ: Thông
tư liên tịch số 01 ngày 15-9-1997 do Bộ Tài chính và
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội ban hành được
đánh số là; Số 01/1997/TTLT-BTC-BLĐTB&XH.
1.2.1.5.
Soạn thảo dự án Luật, Pháp lệnh, dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng
14
Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ
i.
Thành lập Ban soạn thảo
Chính phủ ủy quyền cho cơ quan được phân công
chủ trì soạn thảo thành lập Ban soạn thảo các dự án
Luật, Rháp lệnh do Chính phủ trình Quốc hội, u ỷ ban
thường vụ Quốc hội và dự thảo loại Nghị định được quy
định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật,
trừ trường hợp Chính phủ thành lập Ban soạn thảo (xem
điểm b khoản 2 Điều 56 Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật).
Cơ quan được phân công chủ trì soạn thảo thành
lập Ban soạn thảo đối với những dự thảo Nghị quyết,
Nghị định khác của Chính phủ.
Việc soạn thảo các dự án Luật, Pháp lệnh, dự
thảo Nghị quyết, Nghị định do Ban soạn thảo đảm
nhiệm. Thành phần Ban soạn thảo gồm đại diện có
thẩm quyền của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ hữu quan; Thủ trưởng cơ quan chủ trì
soạn thảo là Trưởng ban. Giúp việc Ban soạn thảo có
tổ biên tập do trướng ban soạn thảo chỉ định. Thành
viên của tổ biên tập gồm các luật gia, các nhà khoa
học và các chuyên gia am hiểu các vấn đề chuyên môn
thuộc nội dung của dự án, dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật.
15
- Khi thấy cần thiết, Thủ tướng Chính phủ có thể
thành lập tổ chuyên gia làm việc dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Thủ tướng để thực hiện nhiệm vụ của Ban soạn
thảo hoặc để tu chỉnh dự thảo Luật, Pháp lệnh, Nghị
quyết, Nghị định của Chính phủ trước khi ký trình hoặc
ký ban hành.
- Cơ quan có thành viên trong Ban soạn thảo có
trách nhiệm góp ý kiến bằng văn bản về nội dung của
dự án, dự thảo có liên quan đến ngành, lĩnh vực do
mình quản lý.
- Việc soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của
Thủ tướng Chính phủ, của Bộ trưỏíng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ
được tiến hành theo quy định của Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật (Điều 65, Điều 66).
Để bảo đảm chất lượng và thời hạn trình dự án
Luật, Pháp lệnh, dự ihảo Nghị quyết, Nghị định. Ban
soạn thảo phải thực hiện đầy đủ các quy định của Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời có
trách nhiệm sau đây:
- Định kỳ thông báo vái Văn phòng Chính phủ,
Bộ Tư pháp về tiến độ và chất lượng soạn thảo dự án
Luật, Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, Nghị định;
- Kịp thời báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ về các vấn đề mới, phức tạp
16
và những ý kiến còn khác nhau;
- Bảo đảm việc soạn thảo vãn bản có chất lượng:
nội dung các điều, khoản của văn bản phải được quy
định cụ thể, rõ ràng để khi văn bản có hiệu lực thì thi
hành được ngay.
Trong trường hợp dự án, dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật cần có văn bản quy định chi tiêi hoặc
hướng dẫn thi hành thì Ban soạn thảo có trách nhiệm
soạn thảo hoặc đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn cơ quan
được Chính phủ phân công soạn thảo các văn bản đó để
trình đồng thời với dự án Luật, Pháp lệnh, dự thảo Nghị
quyết, Nghị định lên Chính phủ.
- Xác định tên các văn bản dự kiến bị bãi bỏ (bãi
bỏ toàn bộ văn bản hoặc một phần nội dung: chương,
mục, điều, khoản, điểm của văn bản).
1.2.2. Quyết định hành chính cá biệt
1.2.2.1. Định nghĩa
Quyết định hành chính cá biệt c’òn gọi là văn bản
áp dụng quy phạm pháp luật hoặc quyết định hành
chính. Theo Luật hành chính Việt Nam, quyết định
hành chính (cá biệt) được định nghĩa như sáu:
Quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản
của cơ quan hành chính Nhà nước hoặc của người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước, được
áp dụng một lần đối với một hoăc một số đối tương cụ ,
; ,•
1 17
lílliVltN
thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành
chính. ^
Với tư cách là một quy phạm định nghĩa, việc đưa
ra một khái niệm như vậy vừa tạo ra một cơ sở pháp lý
có hiệu lực cao (chỉ sau Hiến pháp) vừa thể hiện quan
niệm tập trung thống nhất của Nhà nước về quyết định
hành chính theo luật tố tụng hành chính Việt Nam (cần
lưu ý là luật khiếu nại tố cáo không chỉ là nguồn của
luật hành chính mà còn là nguồn của luật tố tụng hành
chính). Do vậy, khái niệm trên đây vừa có ý nghĩa pháp
lý (tính bắt buộc) vừa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc.
12.2.2. Đặc điểm
Trước hết, theo định nghĩa trên, quyết định hành
chính cá biệt phải là loại quyết định bằng văn bản.
Thông thường, các quyết định băng văn bản này có
hình thức, bố cục do pháp luật quy định theo từng loại
mảu Itiống nhất. Ngoài ra, còn có những quyết định
bằng văn bản nhưng không thuộc phạm vi trên, ví dụ:
một lời phê duyệt có tính quyết định trong một tờ đơn
của cá nhân hoặc tổ chức hay một công văn, một thông
báo trong đó có nội dung quyết định...
’ Xem khoản 10 Điều 2 Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật số 09/1998/QH10;
khoản 3 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một sô' điểu cùa Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
18
Như vậy, quyết định hành chính cá biệt theo luật
hành chính Việt Nam chỉ là các quyết định bằng văn
bán mà không bao hàm các quyết định bằng các hình
thức hoạt động, hành động cụ thể (quyết định không
thành văn).
Thứ hai, quyết định hành chính cá biệt phải do
các cơ quan hành chính Nhà nước hoặc người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước ban
hành.
Thứ ba, quyết định hành chính cá biệt theo Luật
hành chính Việt Nam được ban hành nhiều loại với số
lượng lớn để điều chỉnh hầu hết mọi quan hệ xã hội
thuộc quá trình hành pháp.
Thứ tư, quyết định hành chính cá biệt theo Luật
hành chính Việt Nam phải là những quyết định chỉ được
áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ
thể trong hoạt động quản lý hành chính. Quyết định này
còn được gọi là quyết định áp dụng pháp luật, được ban
hành trên cơ sở quyết định quy phạm của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền, có những trường hợp được ban
hành trên cơ sở quyết định cá biệt của cấp trên.
Đối tượng áp dụng của quyết định là cá nhân
hoặc tổ chức có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan
trực tiếp và được ghi nhận trong nội dung của quyết
định.
•
19
2.
Quyết định hành chính trong Luật tố tụng
hành chính Việt Nam
2.1. Khái niệm
Dưới giác độ của luật tố tụng hành chính và ngânh
khoa học luật tố tụng hành chính, quyết định hảnh
chính có khái niệm khác với khái niệm quyết định hành
chính theo luật hành chính. Ngay cả những nước có luật
hành chính phát triển (Pháp, CHLB Đức...) coi luật tố
tụng hành chính chỉ là một bộ phận của luật hành chính
thì khái niệm quyết định hành chính theo luật tô tọng
hành chính vẫn có sự phân biệt với khái niệm quyết
định hành chính theo luật hành chính.
Nhìn chung trên thế giới, khái niệm quyết định
hành chính theo luật tố tụng hành chính giữa các nước
không đồng nhất với nhau tuỳ thuộc vàọ tính chất nền
tài phán và đặc biệt là đối tượng xét xử của quyền tài
phán mà các nước có quan niệm q^yết định hânh
chính theo luật tố tụng hành chính tương ứng với phạm
vi và đặc tính của đối tượng đó. Chẳng hạn ở Phiáp,
quyết định hành chính thuộc đối tượng xét xử hânh
chính không chỉ là các quyết định hành chính cá biệt
mà còn cả một số quyết định hành chính quy phạm.
Có nước chỉ coi quyết định hành chính trong tố tiụng
hành chính là quyết định hành chính cá biệt (gồm
quyết định bằng văn bản và quyết định bằng hẳnh
20
- Xem thêm -