Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông từ thực tiễn thành phố hà nộ...

Tài liệu Giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông từ thực tiễn thành phố hà nội

.PDF
181
543
144

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THU HƢƠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THU HƢƠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính Mã số : 9380102 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.VŨ CÔNG GIAO Hà Nội - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự định hướng, giúp đỡ của thầy hướng dẫn. Các số liệu, kết quả in trong luận án là khách quan, trung thực. Tác giả luận án Nguyễn Thị Thu Hƣơng MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ....................................................................................... 8 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước ............................................................... 8 1.2. Nghiên cứu về khuôn khổ pháp luật và thực trạng giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông ở Việt Nam nói chung và ở thành phố Hà Nội nói riêng .............................................................................................. 21 1.3. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề tài......................... 27 1.4. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu và những vấn đề luận án tiếp tục giải quyết ................................................................................................... 29 1.5. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết khoa học và hướng tiếp cận của luận án...... 31 Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......................................................................................... 35 2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò giáo dục pháp luật ở trường trung học phổ thông ......................................................................................................... 35 2.2. Các thành tố giáo dục pháp luật ở trường trung học phổ thông .............. 47 2.3. Các yếu tố chính ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông .......................................................................... 59 2.4. Giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông ở một số quốc gia và những giá trị tham khảo cho Việt Nam ................................................ 62 Chƣơng 3: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY ..................................................................................................... 67 3.1. Khái quát bối cảnh kinh tế, xã hội của thành phố Hà Nội và đặc điểm học sinh trung học phổ thông ở Hà Nội hiện nay .................................. 67 3.2. Cơ sở chính trị, pháp lý của hoạt động giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông ở thành phố Hà Nội ................................................ 74 3.3. Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông ở Hà Nội trong những năm gần đây ...................................................... 79 3.4. Một số nhận xét chung về thực trạng và nguyên nhân của thực trạng giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông ở thành phố Hà Nội hiên nay ........................................................................................................... 92 Chƣơng 4: YÊU CẦU VÀ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............. 97 4.1. Yêu cầu tăng cường giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông từ thực tiễn thành phố Hà Nội ............................................................... 97 4.2. Quan điểm về tăng cường giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông từ thực tiễn thành phố Hà Nội ........................................................ 99 4.3. Giải pháp tăng cường giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông từ thực tiễn thành phố Hà Nội ............................................................. 103 KẾT LUẬN .................................................................................................. 136 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ..................................................... 138 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 139 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt ASEAN Chữ viết đầy đủ Association of Southeast Asian Nations GDPL Giáo dục pháp luật NXB Nhà xuất bản THPT Trung học phổ thông TW WTO Trung ương World Trade Organization DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1. Tổng sản phẩm trên địa bàn theo giá hiện hành ............................. 68 Bảng 3.2. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT ở một số thành phố ..................... 70 Bảng 3.3. Thống kê vi phạm pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội ......... 73 Bảng 3.4. Đánh giá của học sinh về nội dung pháp luật trong môn giáo dục công dân ......................................................................................... 84 Bảng 3.5. Các hình thức GDPL ở các trường THPT Hà Nội ......................... 87 Bảng 3.6. Kết quả khảo sát về việc sử dụng tủ sách pháp luật của học sinh . 88 Bảng 3.7. Kết quả khảo sát về phương pháp GDPL ....................................... 89 Bảng 3.8. Kết quả khảo sát đối với học sinh về phương pháp giảng dạy pháp luật của giáo viên trong môn giáo dục công dân ........................ 90 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Việt Nam ngày càng tiến sâu trên con đường hội nhập quốc tế. Giai đoạn sắp tới là thời kỳ nước ta phải thực hiện đầy đủ các cam kết với cộng đồng ASEAN và WTO. Điều đó tạo ra những thời cơ để phát triển đất nước nhưng cũng đặt ra những thử thách lớn. Những vấn đề về cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng vốn còn những tồn tại không nhỏ sẽ là những rào cản trong quá trình hội nhập, đặc biệt là ý thức pháp luật của người dân nói chung, của bộ phận lao động trẻ nói riêng. Để vượt qua rào cản đó, việc trang bị những kiến thức pháp luật cho người dân, nhất là cho những công dân trẻ tuổi ngay từ khi họ còn ngồi trên ghế nhà trường có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong những thập niên gần đây, đồng thời với quá trình hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam rất chú trọng đầu tư giáo dục nói chung và giáo dục pháp luật (GDPL) nói riêng. Điều này thể hiện qua phương hướng, nhiệm vụ xây dựng phát triển văn hoá con người được xác định trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII là: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật” [37]. Chỉ thị 32 TW của Ban Bí thư ngày 09/12/2003 đã chỉ rõ, cần phải coi GDPL “là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong việc tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật …” Thực hiện những phương hướng, chiến lược do Đảng đề ra, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật và triển khai các đề án về GDPL, trong đó đặc biệt Luật phổ biến, GDPL năm 2012. Tuy nhiên, hoạt động GDPL nói chung, GDPL cho học sinh trung học phổ thông (THPT) nói riêng hiện nay 1 còn chưa chưa đồng bộ, chưa đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn. Hậu quả là nhiều học sinh vi phạm pháp luật do thiếu hiểu biết pháp luật. Đặc biệt ở các địa bàn lớn như thủ đô Hà Nội, học sinh phổ thông chịu tác động rất mạnh từ mặt trái của cơ chế thị trường nên tỷ lệ học sinh vi phạm pháp luật có chiều hướng tăng nhanh trong những năm gần đây. Xét từ nhiều phương diện, học sinh THPT là đối tượng chuyển tiếp giữa nhà trường và xã hội, là lực lượng bổ sung ngay vào nguồn nhân lực cho xã hội. Các em có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân sau khi rời ghế nhà trường THPT và bước vào quá trình lập nghiệp, lập thân như mong đợi của gia đình và xã hội. Vì vậy, sẽ tạo ra những vấn đề xã hội lớn nếu học sinh THPT không được chăm lo giáo dục toàn diện, trong đó có GDPL, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Không những vậy, để có kết quả tốt, việc GDPL cho các em học sinh THPT phải tính đến những đặc thù của nhóm đối tượng này, cũng như những yêu cầu đặc thù đặt ra những địa bàn khác nhau. Ở nước ta trong những năm gần đây, vấn đề GDPL nói chung và GDPL trong nhà trường nói riêng đã được nhiều tác giả nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn và đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy vậy, hiện vẫn thiếu những nghiên cứu chuyên sâu về GDPL cho các nhóm học sinh khác nhau mà tiếp cận từ thực tiễn đặc thù của các địa phương. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu sinh quyết định chọn đề tài “Giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông ở thành phố Hà Nội” để thực hiện luận án tiến sĩ luật học của mình, với mong muốn góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận khoa học, qua đó thúc đẩy hoạt động GDPL ở các nhà trường ở nước ta hiện nay. Việc lựa chọn nhóm học sinh THPT là đối tượng nghiên cứu xuất phát từ tính chất “chuyển tiếp” quan trọng của nhóm đối tượng này; còn việc lựa chọn Hà Nội là địa bàn nghiên cứu xuất phát từ thực tế đây là thành phố có mức độ tập trung dân số cao và số lượng học sinh THPT lớn, đồng thời cũng là một địa bàn phát triển nhanh trên tất cả các phương diện kinh tế, xã hội, văn hóa so với các địa phương khác của nước ta. 2 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận án là góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận khoa học nhằm tăng cường GDPL cho học sinh THPT ở thành phố Hà Nội nói riêng và ở Việt Nam nói chung, đáp ứng những yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích đặt ra, luận án cần giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau đây: - Nghiên cứu, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án - Nghiên cứu các vấn đề lý luận về GDPL cho học sinh THPT ở nước ta hiện nay, trong đó làm rõ khái niệm, các yếu tố cấu thành, vai trò, những đặc thù và các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động GDPL cho học sinh THPT. Bên cạnh đó, luận án cũng phân tích, đánh giá kinh nghiệm tốt của một số nước về GDPL cho học sinh THPT mà Việt Nam có thể tham khảo. - Phân tích khuôn khổ chính sách, pháp luật hiện hành về GDPL cho học sinh THPT và đánh giá tính phù hợp của nó trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền, hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. - Phân tích thực trạng hoạt động GDPL cho học sinh THPT ở thành phố Hà Nội trong thời gian qua, đánh giá những kết quả và chỉ ra những tồn tại, hạn chế, đồng thời xác định những nguyên nhân dẫn đến những tồn tại, hạn chế của hoạt động này. - Nhận diện những yêu cầu cấp thiết đang đặt ra đối với hoạt động GDPL cho học sinh THPT ở thành phố Hà Nội hiện nay. Đề xuất các quan điểm, giải pháp tăng cường GDPL cho học sinh THPT ở thành phố Hà Nội nói riêng và ở nước ta nói chung trong thời gian tới. 3 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn của hoạt động GDPL cho học sinh THPT ở thành phố Hà Nội hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về mặt nội dung, luận án chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn của hoạt động GDPL cho học sinh THPT. Việc đề cập đến hoạt động GDPL nói chung và GDPL trong một số ngành, lĩnh vực và đối tượng khác nói riêng chỉ để làm nền tảng cho việc phân tích hoạt động GDPL cho học sinh THPT. Về mặt không gian, luận án tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận pháp lý và thực tiễn của hoạt động GDPL cho học sinh THPT ở thành phố Hà Nội. Những phân tích về hoạt động GDPL ở các quốc gia và địa phương khác chỉ mang tính khái quát nhằm mục đích so sánh, tham chiếu. Bên cạnh đó, do giới hạn về mặt thời gian, luận án chỉ tập trung nghiên cứu về hình thức GDPL cho học sinh THPT trong nhà trường, gắn với chủ thể chính là lực lượng giáo viên, ngoài ra có liên quan đến các tổ chức Đoàn, Hội, câu lạc bộ… trong GDPL cho học sinh THPT. Đây là hình thức GDPL chính thức, quan trọng nhất cho học sinh THPT ở Hà Nội nó riêng, ở nước ta nói chung trong giai đoạn hiện nay. Về mặt thời gian, luận án chỉ khảo sát, đánh giá hoạt động GDPL cho học sinh THPT ở thành phố Hà Nội trong khoảng 10 năm gần đây (2007-2017) 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận Luận án vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật của triết học Mác – Lênin và một số lý thuyết, quan điểm khoa học được thừa nhận rộng rãi trên thế giới có liên quan đến GDPL để làm cơ sở tiếp cận, phân tích, đánh giá, giải quyết các câu hỏi nghiên cứu đặt ra. 4 4.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả kết hợp áp dụng các phương pháp nghiên cứu của một số ngành khoa học xã hội, bao gồm luật học, triết học, giáo dục học và xã hội học… trong quá trình thực hiện luận án, cụ thể như sau: - Các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích để đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và xác định những vấn đề mà luận án cần tiếp tục khảo sát (ở Chương 1). - Phương pháp phân tích kết hợp với tổng hợp, so sánh các công trình nghiên cứu hiện có và các tài liệu khác để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về GDPL cho học sinh THPT ở Việt Nam hiện nay (ở Chương 2). - Các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh các tài liệu, báo cáo có liên quan, kết hợp với các phương pháp quan sát thực tế và khảo sát xã hội học (bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu) để khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động GDPL cho học sinh THPT ở thành phố Hà Nội trong khoảng 10 năm gần đây (ở Chương 3). - Phương pháp tổng hợp kết hợp với phân tích, so sánh để đề xuất các quan điểm, giải pháp tăng cường hoạt động GDPL cho học sinh THPT ở thành phố Hà Nội trong thời gian tới (ở Chương 4). Liên quan đến phương pháp khảo sát xã hội học, do đặc thù của hoạt động giáo dục THPT là rất rộng (ở mọi phường, xã), với nhiều chủ thể tham gia, nên trong khuôn khổ thời gian thực hiện luận án, việc khảo sát được thực hiện với 3 nhóm đối tượng chính là cán bộ quản lý, giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân và học sinh tại một số trường THPT ở một số quận, huyện, thị xã thuộc thành phố Hà Nội, cụ thể là: THPT Yên Hoà, THPT Tây Hồ, THPT Cầu Giấy, THPT Quang Trung, THPT Xuân Đỉnh, THPT Ứng Hoà, THPT Nguyễn Văn Cừ, THPT Thanh Oai, THPT Thạch Thất, THPT Hoài Đức A, THPT dân lập Lômônôxốp, THPT dân lập Trí Đức. 5 5. Những đóng góp mới của luận án Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về GDPL cho học sinh THPT ở thành phố Hà Nội, vì vậy đóng góp mới về mặt khoa học của luận án thể hiện ở chỗ đã bổ sung, củng cố nền tảng lý luận về GDPL cho học sinh THPT ở nước ta bằng những kết quả nghiên cứu mang tính thực nghiệm ở cấp độ cơ sở. Cụ thể, thông qua kết quả nghiên cứu của luận án, có thể khẳng định sự cần thiết của hoạt động GDPL cho học sinh THPT mà vốn còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau, qua đó cung cấp một định hướng rõ ràng cho việc triển khai hoạt động GDPL cho học sinh THPT ở nước ta hiện nay. Đặc biệt, kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy rằng, bên cạnh việc áp dụng những nguyên tắc của GDPL nói chung, GDPL cho học sinh THPT đòi hỏi phải có cách tiếp cận và phương pháp riêng để phù hợp với tính đặc thù của đối tượng giáo dục là nhóm người sắp trưởng thành, gánh vác trách nhiệm công dân sau khi ra trường. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Ý nghĩa lý luận của luận án thể hiện ở hai (2) khía cạnh sau đây: Thứ nhất, cho phép khẳng định cơ sở khoa học và thực tiễn của hoạt động GDPL cho học sinh THPT ở nước ta. Thứ hai, cho phép đánh giá rõ ràng, xác thực hơn về đặc thù của hoạt động GDPL cho học sinh THPT so với GDPL cho các đối tượng khác, từ đó xác định những phương hướng, giải pháp phù hợp cho việc tăng cường hoạt động GDPL cho học sinh THPT ở nước ta trong thời gian tới. Ý nghĩa thực tiễn của luận án thể hiện ở việc kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan, ban ngành ở thành phố Hà Nội cũng như ở cấp trung ương và các địa phương khác trong việc hoàn thiện chính sách, pháp luật và cơ chế nhằm tăng cường hoạt động GDPL cho học sinh THPT trong những năm tới. Ngoài ra, luận án cũng có thể được sử dụng là một nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho việc giảng dạy, nghiên cứu 6 chuyên ngành luật hiến pháp – luật hành chính ở Học viện Khoa học Xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam và các cơ sở đào tạo khác của nước ta. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình của tác giả đã công bố liên quan đến luận án, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án bao gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Chương 2: Những vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông Việt Nam Chương 3: Thực trạng giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông ở thành phố Hà Nội hiện nay Chương 4: Quan điểm, giải pháp tăng cường giáo dục pháp luật cho học sinh trung học phổ thông từ thực tiễn thành phố Hà Nội 7 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc Các nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài đề cập đến một phạm vi rộng các vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động GDPL nói chung, GDPL cho học sinh THPT nói riêng, mà có thể khái quát như sau: 1.1.1.Nghiên cứu về những vấn đề lý luận của đề tài 1.1.1.1. Về khái niệm giáo dục pháp luật Ở Việt Nam, cho đến những năm cuối của thế kỉ XX vẫn chưa có định nghĩa chung về GDPL, mà có khá nhiều quan niệm khác nhau, trong số đó có thể phân thành các nhóm sau: Thứ nhất, coi GDPL là một bộ phận của giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức; Thứ hai, đồng nhất GDPL với tuyên truyền, phổ biến hay giải thích pháp luật; Thứ ba, coi GDPL đồng nghĩa với dạy và học pháp luật ở các nhà trường, còn việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật ở ngoài xã hội không phải là GDPL; Thứ tư, cho rằng không có khái niệm GDPL. Có thể thấy những quan niệm trên đều còn mang tính phiến diện, giản đơn, chưa thấy hết đặc thù của sự tác động hoặc giá trị xã hội của GDPL. Các quan niệm đó làm suy yếu khả năng triển khai tổ chức thực hiện pháp luật, khiến cho hiệu lực, hiệu quả của pháp luật bị giảm sút. Để có khái niệm GDPL phù hợp, cần xuất phát từ khái niệm giáo dục của khoa học sư phạm. Trong khoa học sư phạm, giáo dục được hiểu theo nghĩa rộng và hẹp. Trong cuốn “Nâng cao hiệu quả GDPL trong các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội” (2002) của tác giả Lê Văn Hoè có đưa ra khái niệm GDPL theo nghĩa rộng, đó là tổng thể những tác động ảnh hưởng của nhân tố chủ quan và khách quan đến sự hình thành ý thức, hành vi và kỹ năng xử sự theo các giá trị, chuẩn mực pháp luật của con người [54, tr.10]. Theo cách tiếp cận này, có thể nhận thấy GDPL ở nước ta chịu tác động của các 8 yếu tố mang tính bất lợi như: những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, tình trạng xuống cấp đạo đức của một bộ phận cán bộ, viên chức nhà nước, các tập tục, thói quen lạc hậu cùng với sự biến dạng của những giá trị văn hoá truyền thống. Như vậy, GDPL phải tìm cách khắc phục và loại trừ các tác động nói trên. Mặt khác, có thể tận dụng những tác động tích cực để thúc đẩy GDPL, ví dụ như các truyền thống quý báu của dân tộc, sự ổn định chính trị xã hội của đất nước trong bối cảnh hiện đại. Rõ ràng với cách tiếp cận theo nghĩa rộng, GDPL mang tính triệt để và linh hoạt, vừa sử dụng tối đa tác động và ảnh hưởng của môi trường chủ quan, khách quan, vừa kết hợp chuyển hoá nhằm tạo ra các hình thức GDPL phù hợp với các đối tượng khác nhau. Tuy nhiên, khi tiếp cận theo nghĩa rộng sẽ xuất hiện một số vấn đề phải tính đến như: sự phù hợp với các đối tượng GDPL khác nhau, tính đồng bộ, nhất quán và hiệu quả của GDPL. Ngược lại với cách tiếp cận theo nghĩa rộng, trong cuốn “Bàn về GDPL” (1995) tác giả Trần Ngọc Đường khẳng định, khái niệm GDPL xuất phát từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục và nó là một hoạt động định hướng, có những nét đặc thù so với các dạng giáo dục khác. Khái niệm GDPL theo nghĩa hẹp được hiểu là “hoạt động có định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ tri thức pháp lý tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành” [52, tr.13]. Quan điểm này nhận được sự đồng tình của một số tác giả khác, thể hiện trong các công trình nghiên cứu như cuốn “GDPL cho sinh viên các trường đại học không chuyên luật” (2014) của Phan Hồng Dương [24,Tr.34], “Phương pháp GDPL và giáo dục kỹ năng sống trong trường học” của Nguyễn Khắc Hùng [58, tr.44] , “GDPL trong trường Đại học, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay” (1996) của Đinh Xuân Thảo, [94, tr.11]. 9 Cũng tiếp cận từ góc độ hẹp như trên, trong cuốn “GDPL cho học sinh trong trường trung học phổ thông ở Việt Nam” (2012), tác giả Trần Thị Sáu đã đưa ra khái niệm GDPL cho học sinh trong trường THPT là “quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch tới học sinh thông qua hệ thống phương pháp sư phạm của nhà giáo, tập thể sư phạm các tổ chức chính trị - xã hội trong nhà trường nhằm trang bị tri thức pháp luật, xây dựng ý thức và tình cảm pháp luật đúng đắn, rèn luyện cho các em thói quen, kỹ năng thực hiện hành vi theo những chuẩn mực pháp luật, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” [90, tr.33]. 1.1.1.2. Về mục đích của giáo dục pháp luật Mục đích của GDPL cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam đề cập nhưng có những kiến giải khác nhau. Có quan điểm cho rằng GDPL có mục đích rất rộng, bao gồm từ việc hình thành thái độ đúng đắn với lao động và sở hữu xã hội, bồi dưỡng tình cảm làm chủ, tình đồng chí, chủ nghĩa yêu nước, cho đến hình thành thói quen, tuân theo những quy phạm pháp luật, củng cố pháp chế, thiết lập trật tự pháp luật. Theo cách tiếp cận cụ thể hơn, trong cuốn “GDPL trong trường Đại học, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay” (1996), tác giả Đinh Xuân Thảo xác định rằng mục đích của GDPL là tạo ra khả năng phát triển văn hoá chính trị ở công dân, hình thành trong ý thức công dân các quan điểm, đạo đức chính thống [94, tr.13]. Cũng theo hướng tiếp cận cụ thể như trên, một số tác giả khác như Trần Ngọc Đường, Dương Thị Thanh Mai trong cuốn “Bàn về GDPL” (1995) quan niệm GDPL có mục đích xây dựng nhận thức, tình cảm và hành vi hợp pháp ở người lao động [52, tr.23]. Trong “GDPL cho sinh viên các trường đại học không chuyên luật” (2014) của Phan Hồng Dương [24,Tr.39], “Phương pháp GDPL và giáo dục kỹ năng sống trong trường học” của Nguyễn Khắc Hùng [58, tr.45] xác định GDPL có ba mục đích kết nối với nhau, đó là: Mục 10 đích phát triển nhận thức; Mục đích hình thành cảm xúc, động cơ và Mục đích tạo lập hành vi tích cực theo pháp luật. Tiếp cận từ những nguyên lý chung nêu trên, trong cuốn “GDPL cho học sinh trong THPT ở Việt Nam” (2012), tác giả Trần Thị Sáu xác định mục đích của việc GDPL cho học sinh trong trường THPT bao gồm: Một là, cung cấp cho học sinh tri thức quan trọng về giá trị pháp luật, vai trò điều chỉnh của nó và những hiểu biết cơ bản về các qui định pháp luật trong cuộc sống [90, tr.51]; Hai là, nâng cao ý thức pháp luật, bồi dưỡng niềm tin và tình cảm pháp luật cho học sinh để giúp các em có thể “miễn dịch” trước những nguy cơ xâm nhập của cái xấu [90, tr.52-53]; Ba là, thúc đẩy hành vi pháp luật của học sinh trong trường học và trong đời sống xã hội, rèn luyện cho các em kỹ năng nắm bắt các tình huống có thể xảy ra trong cuộc sống, cách đối diện và bằng hiểu biết pháp luật của mình có thể chế ngự những tình huống đó [90, tr.55]. 1.1.1.3. Về vai trò của giáo dục pháp luật Trong tác phẩm “Bàn về GDPL” (1995) tác giả Trần Ngọc Đường, Dương Thị Thanh Mai [52] và tác phẩm “GDPL trong trường Đại học, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay” (1996) tác giả Đinh Xuân Thảo [94] đã chỉ ra vai trò của GDPL như sau: Trước hết vai trò GDPL bắt nguồn từ vai trò và giá trị xã hội của pháp luật: “Nếu như pháp luật là phương tiện hàng đầu để Nhà nước quản lý xã hội, là phương tiện để mỗi công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì GDPL giúp cho cơ quan Nhà nước và công dân biết sử dụng phương tiện đó. Ở nước ta, khi mà đại đa số dân cư chưa biết sử dụng phương tiên pháp luật thì giáo dục pháp pháp luật càng đóng vai trò quan trọng” [52, tr.37], [94, tr.13]. Thứ hai, vai trò của GDPL còn xuất phát từ bản chất của nó. GDPL là quá trình tác động nhằm hình thành tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù 11 hợp với những đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành. Vì vậy, kết quả đạt được các mục đích do sự tác động định hướng là đã góp phần xây dựng ý thức pháp luật và văn hoá pháp lý công dân [94, tr.13]. Văn hoá pháp lý chỉ có thể được hình thành trên cơ sở GDPL [52, tr.38]. “Để cho nền dân chủ ngày một phát triển, ăn sâu, bám chắc vào đời sống xã hội, trở thành nếp sống bình thường của mỗi người, mỗi tổ chức và toàn bộ xã hội thì không thể tách rời nó với quá trình xây dựng hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế và đẩy mạnh GDPL cho người lao động” [52, tr.41]. Tác giả Phan Hồng Dương trong tác phẩm “GDPL cho sinh viên các trường đại học không chuyên luật” (2014), [24, tr.42] đã nhận định GDPL cho sinh viên có vai trò quan trọng và trực tiếp trong việc trang bị kiến thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm, ý thức trách nhiệm và khả năng điều chỉnh hành vi đúng đắn cho sinh viên. GDPL còn góp phần tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả học tập chuyên môn đối với sinh viên, thúc đẩy việc nâng cao ý thức học tập của sinh viên. Tương tự, tác giả Đinh Xuân Thảo trong tác phẩm“GDPL trong trường Đại học, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay” (1996) [94, tr.18] cũng nhận định GDPL trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề là quá trình tổ chức GDPL, chuyển tải nội dung GDPL cho học sinh, sinh viên – một loại đối tượng đặc biệt, ở một môi trường đặc biệt và sẽ giữ các vị trí đặc biệt trong tương lai. Vì vậy GDPL trong các trường này là một hình thức GDPL đặc biệt quan trọng, là đòi hỏi khách quan của cuộc sống. Ở bậc THPT, tác giả Trần Thị Sáu trong tác phẩm “GDPL cho học sinh trong trường THPT ở Việt Nam” (2012), [90] cho rằng GDPL có vai trò cốt yếu đối với việc hình thành phát triển nhân cách học sinh; góp phần tích cực vào việc phòng, chống hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm trong nhà trường cũng như ngoài xã hội. GDPL là hoạt động có ý nghĩa chiến lược 12 nhằm hình thành trong học sinh thái độ ứng xử công bằng, không khoan nhượng đối với những hành vi sai trái, có tinh thần đấu tranh nhằm loại bỏ những hiện tượng tiêu cực trong xã hội, đồng thời củng cố niềm tin cho các em khi quyết định làm điều chính nghĩa [90, tr.59]. Ngoài ra, GDPL còn có vai trò trong việc xây dựng văn hoá pháp lý. GDPL có mối quan hệ mật thiết với văn hoá nói chung và văn hoá pháp lý nói riêng, đó là bộ phận cấu thành của văn hoá nhưng có tính độc lập tương đối. GDPL bảo tồn, sáng tạo và phát triển văn hoá và văn hoá pháp lý. Học sinh THPT được giáo dục sâu sắc tính nhân văn chứa đựng trong việc tuân thủ pháp luật, giáo dục về ý nghĩa to lớn của pháp luật đối với cuộc sống con người khi nó được tôn trọng và thực thi [90, tr.60-61]. 1.1.1.4. Về các yếu tố cấu thành hoạt động giáo dục pháp luật Khách thể và đối tượng của GDPL. Theo nhận thức phổ biến của các nhà nghiên cứu Việt Nam, các yếu tố cấu thành hoạt động GDPL bao gồm khách thể, đối tượng, chủ thể, nội dung, hình thức, phương tiện và phương pháp GDPL. Trong cuốn “Bàn về GDPL” (1995), tác giả Trần Ngọc Đường, Dương Thị Thanh Mai định nghĩa khách thể của GDPL là “ý thức pháp luật và những thói quen, nếp sống, ứng xử hợp pháp của công dân, của các nhóm cộng đồng và toàn xã hội, thể hiện trình độ nhất định của nền văn hoá pháp lý” [52, tr.44], còn đối tượng của GDPL là “những cá nhân công dân hay những nhóm, cộng đồng xã hội cụ thể tiếp nhận tác động của các hoạt động GDPL mà ý thức pháp luật và hành vi của họ là khách thể của GDPL” [52, tr.44]. Dựa vào những tiêu chí khác nhau có thể phân loại đối tượng GDPL khác nhau. Theo năng lực chủ thể của công dân (năng lực pháp luật và năng lực hành vi) có thể phân loại đối tượng thành: Công dân thành niên, công dân chưa thành niên, công dân có năng lực pháp luật hạn chế hoặc năng lực hành vi hạn chế. Theo vị trí chủ thể của công dân trong các quan hệ pháp luật có 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan