Kính dâng Hương Hồn Song Thân;
Tặng Thanh Mai
và Thanh Dung, Quốc Dũng.
i
ii
NGUYỄN CÔNG LÝ
Chuyên khảo
NHÀ XUẤT BẢN ðẠI HỌC QUỐC GIA
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2011
iii
iv
MỤC LỤC
MỞ ðẦU ......................................................................................... vii
PHẦN 1. CHẾ ðỘ GIÁO DỤC VÀ KHOA CỬ Ở VIỆT
NAM THỜI PHONG KIẾN, THỜI PHÁP
THUỘC ............................................................................ 1
Chương 1. Chế ñộ giáo dục Việt Nam thời phong kiến .............. 3
1.1. Tầm quan trọng của giáo dục Việt Nam thời phong kiến ......... 3
1.2. Chế ñộ giáo dục và hệ thống trường học ở Việt Nam thời
phong kiến ............................................................................... 10
1.3. Công cuộc cải cách giáo dục của các sĩ phu Việt Nam
ñầu thế kỷ XX ........................................................................... 31
Chương 2. Sách giáo khoa, chương trình và nội dung thi;
cách thức tổ chức và quy chế thi ở Việt Nam
thời phong kiến .......................................................... 45
2.1 Sách giáo khoa, chương trình và nội dung thi......................... 45
2.2 Cách thức tổ chức và quy chế thi .............................................. 64
2.3. Học vị công nhận trong các khoa thi ........................................ 89
2.4. Các lệ: Xướng danh, Ban áo mũ cân ñai, Ban yến, Vinh
quy bái tổ.................................................................................... 97
Chương 3. Lịch sử khoa cử Việt Nam thời phong kiến (từ
1075 ñến 1919) .......................................................... 125
3.1. Khoa cử thời Lý - Trần ..........................................................125
3.2. Khoa cử thời Hậu Lê - Tây Sơn .............................................134
3.3. Khoa cử thời chúa Nguyễn ở ðàng Trong và nhà
Nguyễn ....................................................................................173
v
Chương 4. Chế ñộ giáo dục và thi cử thời Pháp thuộc ..........202
4.1. Chính sách giáo dục của Pháp ở Việt Nam ............................202
4.2 Các trường học và chế ñộ giáo dục, thi cử của Pháp ở
Việt Nam từ 1861 ñến 1945 ...................................................206
PHẦN 2. TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC VÀ HỆ THỐNG
QUAN CHẾ Ở VIỆT NAM THỜI PHONG
KIẾN, THỜI PHÁP THUỘC ...................................231
Chương 5. Tổ chức Nhà nước và hệ thống quan chế
Việt Nam thời phong kiến .......................................233
5.1. Tổ chức Nhà nước tại triều ñình trung ương qua các triều
ñại ............................................................................................233
5.2. Tổ chức Nhà nước tại các ñịa phương qua các triều ñại .....278
5.3. Hệ thống quan chế và phẩm trật .............................................281
5.4. Chức năng, nhiệm vụ một số chức quan chủ yếu ..................292
Chương 6. Tổ chức Nhà nước và hệ thống quan chế thời
Pháp thuộc ..............................................................305
6.1. Phủ Toàn quyền ðông Dương và mối quan hệ giữa Phủ
Toàn quyền với triều ñình nhà Nguyễn .................................305
6.2. Tổ chức Nhà nước và quan chế tại các ñịa phương thời
Pháp thuộc.............................................................................. 307
KẾT LUẬN ................................................................................... 312
HÌNH ẢNH MINH HỌA.............................................................319
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH............................................349
vi
MỞ ðẦU
Lâu nay, khi ñọc các tài liệu viết về lịch sử, văn hóa, xã hội,
văn học - nghệ thuật của tiền nhân, người ñọc, nhất là giới trẻ lớn
lên trong chế ñộ mới, không có vốn Hán học, hoặc có nhưng còn ít
ỏi, thường khó nắm ñược nội dung, ý nghĩa, tính chất của vấn ñề
thuộc các lĩnh vực giáo dục - khoa cử, hệ thống quan chế cùng tổ
chức hành chính Nhà nước của nước ta thời phong kiến và thời
Pháp thuộc. Ngay cả ñối với những người làm công tác nghiên cứu
khoa học Xã hội và Nhân văn cũng không hiếm có trường hợp lúng
túng khi gặp phải những vấn ñề thuộc các lĩnh vực trên như xác
ñịnh các chức tước, phẩm hàm ngạch trật; chức năng nhiệm vụ của
các cơ quan hành chính Nhà nước từ trung ương ñến các làng xã;
các học hàm, học vị; các quy cách học hành tổ chức thi cử ngày
xưa… Thêm nữa, những vấn ñề này lại luôn thay ñổi theo các luật
lệ ñược ñịnh ra của từng triều ñại phong kiến, hoặc theo các vùng
miền khác nhau, nên càng gây khó khăn cho người ñọc nhiều hơn.
Việc ñó ñòi hỏi phải có tài liệu ñể tra cứu, chỉ dẫn.
ðiều mà chúng tôi muốn quý vị bạn ñọc lưu ý là trong các tài
liệu xưa của các bậc tiên Nho viết về vấn ñề này, cũng có vài tài
liệu ghi không nhất quán, có chỗ sai sót và nhầm lẫn năm tháng,
niên hiệu, danh xưng, chức tước… nên khi ñọc, nếu không có trí
nhớ và không tra xét, so sánh, ñối chiếu sử sách cho kỹ càng thì khó
có thể nhận ra những nhầm lẫn ñó.
Trên cơ sở kế thừa những công trình của các bậc tiên Nho viết
dưới triều Hậu Lê, triều Nguyễn và những tài liệu của các nhà
nghiên cứu trước ñây ở thế kỷ XX chung quanh vấn ñề này, dù bản
vii
thân còn nhiều hạn chế về kiến văn nhưng chúng tôi cũng không
ngần ngại biên soạn chuyên khảo này nhằm hệ thống những vấn ñề
sao cho lôgíc, rành mạch và giản ñơn, ñính chính vài chỗ nhầm lẫn
trong vài tài liệu trước ñây, với mục ñích là ñể cho thế hệ trẻ hôm
nay có tư liệu ñể tìm hiểu những vấn ñề trên khi cần thiết. ðồng
thời, ñây cũng là tâm nguyện muốn ít nhiều góp phần vào việc bảo
lưu những tinh hoa giá trị tinh thần truyền thống của cha ông. Vì
thế, người viết vô cùng biết ơn nếu bạn ñọc xa gần, nhất là các vị
cao minh thạc ñức quảng kiến ña văn, các nhà giáo dục, các nhà
nghiên cứu vui lòng góp ý, chỉ bảo những sai sót ñể nội dung cuốn
sách ñược hoàn thiện hơn.
Cũng cần nói thêm rằng, xưa nay vấn ñề này ñã ñược nhiều
người quan tâm tìm hiểu, có nhiều công trình viết về giáo dục khoa
cử, về bộ máy Nhà nước và quan chế thời xưa, kể cả từ ñiển về vấn
ñề này ñã ñược xuất bản. Chẳng hạn, dưới các triều ñại phong kiến,
sử gia Lê Văn Hưu ñời Trần ñã viết ðại Việt sử ký 大越史記 chép
từ thời lập quốc với họ Hồng Bàng cho ñến ñời Trần; rồi Phan Phu
Tiên chép tiếp thành bộ Sử ký tục biên 史記續 編. Sau ñó, sử gia
Ngô Sĩ Liên ñời Hậu Lê (triều ñại Lê Thánh Tông) kế thừa hai bộ
sách trên của Lê Văn Hưu và của Phan Phu Tiên ñể viết bộ Sử ký
toàn thư 史記全書, chép tiếp lịch sử ðại Việt ñến cuối thế kỷ XV.
Năm 1665, công trình ñồ sộ này ñược Quốc sử quán ñời Lê trung
hưng, do Phạm Công Trứ chủ trì, khảo ñính lại Sử ký toàn thư
史記全書 của họ Ngô và viết thêm phần Bản kỷ tục biên 本紀續編
thành bộ ðại Việt sử ký toàn thư 大越史記 全書 chép tiếp lịch sử
nước nhà ñến năm 1663; tiếp theo Lê Hy và Nguyễn Quý ðức
viii
phụng lệnh vua Lê Huyền Tông và chúa Trịnh Căn, sửa chữa và
viết tiếp phần Bản kỷ 本紀 từ năm 1663 ñến năm Ất Mão 1675 ñời
vua Lê Gia Tông. Như vậy, bộ ðại Việt sử ký toàn thư
大越史記全書 không phải chỉ do một mình Ngô Sĩ Liên biên soạn
mà là do nhiều sử gia của nhiều thế hệ chấp bút viết tiếp trong các
giai ñoạn lịch sử khác nhau. Những bộ sử trên ñều chép lịch sử theo
lối biên niên nên có ghi lại (dù rất vắn tắt) các khoa thi ñược tổ chức
qua các triều ñại lịch sử. ðầu thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, lần
ñầu tiên, học giả Phan Huy Chú ñã viết cuốn bách khoa thư: Lịch
triều hiến chương loại chí 歷朝憲章類志 chép 10 loại hiến chương
trong ñó có Quan chức chí 官職志; Khoa mục chí 科目志, Binh
chế chí 兵制志 v.v... Có thể nói, lần ñầu tiên lịch sử khoa cử nước
ta, tổ chức hành chính cùng phẩm trật của quan lại hai ban văn, võ
từ triều Lý ñến cuối ñời Lê trung hưng ñược sử gia Phan Huy Chú
ghi lại ñầy ñủ, có hệ thống. Rồi những công trình mang tính quan
phương của Quốc sử quán triều Nguyễn như Khâm ñịnh Việt sử
thông giám cương mục 欽定越史通鑑綱目 và Khâm ñịnh ðại
Nam hội ñiển sự lệ 欽定大南會典事例, rồi Khâm ñịnh ðại Nam
hội ñiển sự lệ tục biên 欽定大南會典事例續編 bên cạnh chép các
ñiển lễ sự lệ…, những bộ sách trên ñều ít nhiều có chép về khoa cử
và quan chế từ triều Nguyễn trở về trước. ðặc biệt là ñầu thế kỷ
XX, dưới triều Nguyễn, có một số công trình chuyên sâu, có giá trị
học thuật viết về khoa cử thời phong kiến bằng chữ Hán như ðại
Việt lịch triều ñăng khoa lục 大越歷朝登科錄 của bốn vị tiên Nho
ix
là Nguyễn Hoàn, Uông Sĩ Lãng, Võ Miên và Phan Trọng Phiên.
Riêng hai công trình của cụ Tổng tài Quốc sử quán Cao Xuân Dục
là Quốc triều Hương khoa lục 國朝鄉科錄 và Quốc triều ðăng
khoa lục國朝登科錄chép rất ñầy ñủ các khoa thi Hương, thi Hội và
thi ðình ñược tổ chức dưới triều Nguyễn, cùng ghi tên tuổi với tiểu
sử sơ lược của những người ñỗ ñạt trong các khoa thi trên. Trước
năm 1945, học giả Trần Văn Giáp ñã căn cứ vào sử sách xưa ñể viết
Lược khảo về khoa cử Việt Nam từ khởi thuỷ ñến khoa Mậu Ngọ,
Trường Viễn ðông Bác Cổ ấn hành năm 1941. Có thể nói ñây là
công trình viết có hệ thống về lịch sử khoa cử ở nước ta từ khoa thi
ñầu tiên dưới triều Lý: khoa Tam trường năm Ất Mão (1075) ñến
khoa Mậu Ngọ (1918) triều Nguyễn, dù chỉ ở dạng lược khảo. Còn
trong bộ văn học sử ñầu tiên: Việt Nam văn học sử yếu (viết 1941,
Nha học chính ðông Pháp xuất bản lần ñầu 1943), nhà giáo dục
Dương Quảng Hàm có trình bày về giáo dục và thi cử dưới thời
phong kiến dù còn rất vắn tắt và sơ lược. Tiếp bước các bậc tiền
nhân, gần ñây các nhà nghiên cứu trong Nam ngoài Bắc cũng ñã bỏ
nhiều công sức ñể tìm hiểu về tổ chức bộ máy nhà nước, về giáo
dục khoa cử thời phong kiến ở nước ta như các công trình: của
Huyền Quang Lược khảo về khoa cử Việt Nam (SG, 1960); của Lê
Kim Ngân Tổ chức chính quyền trung ương dưới thời Lê Thánh
Tông (1460 - 1497), SG, 1963; của Nguyễn Q. Thắng Khoa cử và
Giáo dục ở Việt Nam (TP. HCM, 1993, tái bản nhiều lần, có sửa
chữa bổ sung); của Nguyễn Thế Long Nho học ở Việt Nam: Giáo
dục và thi cử (HN, 1995); của Nguyễn ðăng Tiến Lịch sử giáo dục
Việt Nam trước cách mạng tháng Tám 1945 (HN, 1996); của
Nguyễn Thị Chân Quỳnh Khoa cử Việt Nam (Quyển thượng) Thi
Hương (TP. HCM, 2003) và Khoa cử Việt Nam (Quyển hạ) Thi
x
Hội; Thi ðình (TP. HCM, 2007); v.v… Các công trình dịch thuật
hoặc biên soạn về các nhà khoa bảng Việt Nam như hai công trình
của Ngô ðức Thọ (chủ biên) Văn Miếu - Quốc Tử Giám và 82 bia
Tiến sĩ (HN, 2002) và Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 - 1919
(HN, tái bản 2006); của Trịnh Khắc Mạnh Văn bia ñề danh Tiến sĩ
Việt Nam (HN, 2006); của Trần Hồng ðức Các vị Trạng nguyên,
Bảng nhãn, Thám hoa qua các triều ñại phong kiến Việt Nam
(2006), v.v..; ðỗ Văn Ninh với Văn bia Quốc tử giám Hà Nội
(2001) và Tự ñiển Quan chức Việt Nam (HN, in lần ñầu 2002).
Năm 1992, chúng tôi có biên soạn Lược khảo và tra cứu về Học chế
- Quan chế ở Việt Nam từ 1945 về trước, NXB Văn hóa Thông tin,
HN, 1997, cũng là ñể góp thêm tiếng nói về vấn ñề trên.
Công bằng mà nói, những công trình nghiên cứu về lĩnh vực
này ñã ñược xuất bản dù ít nhiều ñã có những ñóng góp về mặt này
hay mặt khác, nhưng các soạn giả chỉ ñề cập hoặc là về giáo dục thi
cử, hoặc là về tổ chức bộ máy Nhà nước, quan chế ngày xưa và
cũng có tài liệu chỉ tìm hiểu vấn ñề này ở một triều ñại nhất ñịnh
hay một giai ñoạn cụ thể chứ chưa có tài liệu nào ñề cập cả hai vấn
ñề và trình bày xuyên suốt theo chiều dài lịch sử từ khi Ngô Quyền
giành ñộc lập tự chủ vào năm 938 cho ñến Cách mạng tháng Tám
năm 1945 thành công mở ra kỷ nguyên mới, vận hội mới của dân
tộc dưới chế ñộ mới như trong chuyên khảo này ñã làm.
Vì ñối tượng ñược tìm hiểu là giáo dục - khoa cử và quan chế
nên nội dung chính của chuyên khảo sẽ trình bày hai phần: phần
một trình bày về Chế ñộ giáo dục và khoa cử Việt Nam trước năm
1945 với bốn chương: Chế ñộ giáo dục Việt Nam thời phong kiến;
Sách giáo khoa, chương trình - nội dung thi, cách thức tổ chức quy chế thi ở Việt Nam thời phong kiến; Lịch sử khoa cử Việt Nam
thời phong kiến (từ 1075 ñến 1919); Chế ñộ giáo dục và thi cử thời
xi
Pháp thuộc. ðây là phần trọng tâm. Vấn ñề quan chế luôn gắn với
tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước nên phần hai sẽ trình bày Tổ
chức nhà nước và hệ thống quan chế Việt Nam trước 1945 với hai
chương: Tổ chức Nhà nước và hệ thống quan chế Việt Nam thời
phong kiến; Tổ chức Nhà nước và hệ thống quan chế thời Pháp
thuộc. Cuối cùng là phần Kết luận và Tài liệu tham khảo chính.
****
Trước ñây, vào các năm học 2005, 2006, 2007, rồi hiện nay,
Bộ môn Hán Nôm, Khoa Ngữ văn và Báo chí (nay là Khoa Văn
học và Ngôn ngữ), Trường ðại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ðại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh ñã mời tôi giảng chuyên
ñề Giáo dục, Khoa cử và Quan chế ở Việt Nam cho sinh viên năm
thứ ba chuyên ngành Hán Nôm với hai tín chỉ (30 tiết) nên tôi ñã
biên soạn lại có hệ thống ñầy ñủ hơn những gì trước ñây ñã tìm
hiểu, ñó là quyển Lược khảo và tra cứu về Quan chế - Học chế ở
Việt Nam từ 1945 về trước, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1997.
Chuyên khảo này còn là ñề tài khoa học năm 2006, ñược Hội ñồng
Khoa học Trường ðại học Khoa học Xã hội và Nhân văn nghiệm
thu với kết quả loại tốt, ñề nghị xuất bản. Nhân ñây, tôi xin cám ơn
Bộ môn Hán Nôm, Ban Chủ nhiệm khoa Văn học và Ngôn ngữ,
Ban Giám hiệu cùng Hội ñồng Khoa học trường ðại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn - ðại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh ñã
tạo ñiều kiện ñể tôi hoàn thành ñề tài này.
Xin cám ơn Nhà xuất bản ðại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh ñã nhiệt tình ñể chuyên khảo ñược ñến với bạn ñọc. Rất mong
nhận ñược những ý kiến ñóng góp của các bậc cao minh, quý vị
thức giả, cùng các bạn sinh viên thân yêu ñể công trình sẽ hoàn
thiện hơn trong lần tái bản.
xii
Tác giả
xiii
PHẦN 1
CHẾ ðỘ GIÁO DỤC
VÀ KHOA CỬ Ở VIỆT NAM
THỜI PHONG KIẾN
THỜI PHÁP THUỘC
1
2
CHƯƠNG 1
CHẾ ðỘ GIÁO DỤC VIỆT NAM
THỜI PHONG KIẾN
1.1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁO DỤC VIỆT NAM
THỜI PHONG KIẾN
1.1.1. Có thể khẳng ñịnh nước Việt Nam ta ñã có một lịch sử
giáo dục lâu ñời. Có giáo dục, tất phải có khoa cử. Khoa cử là hình
thức ñể kén chọn nhân tài xây dựng ñất nước. Bài văn bia Tiến sĩ tại
Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội do Hàn lâm viện thừa chỉ, ðông
các ñại học sĩ Thân Nhân Trung phụng mệnh vâng sắc soạn năm
1484 ñời Lê Thánh Tông (1460-1497), khi dựng bia ghi tên những
danh sĩ ñỗ ñại khoa dưới triều Hậu Lê, từ khoa thi ðại Bảo năm
1442 ñời Lê Thái Tông trở ñi, ñã có ghi: “Hiền tài quốc gia chi
nguyên khí.” 賢才國家之元氣 (Hiền tài là nguyên khí1 của quốc
gia); sau ñó tại sắc dụ của vua Lê Hiến Tông, năm Cảnh Thống thứ
2 (1499) có ghi lại câu trên và còn thêm: “Khoa mục sĩ tử chi thản
ñồ.” 科目士子之坦途 (Khoa cử là con ñường rộng mở của kẻ sĩ).
ðó là một chân lý mà lịch sử ñã chứng minh. Giở lại những trang
lịch sử quá khứ của dân tộc, những bậc khai quốc công thần, những
danh sĩ - văn nhân - thi gia, những chí sĩ yêu nước… ña phần ñều là
1
Nguyên khí: phần tinh túy cấu tạo nên các vật. Ở ñây chỉ sức sống của ñất
nước.
3
những môn ñệ của Nho gia, từng ñắm mình nơi cửa Khổng sân
Trình ñể dùi mài Thánh kinh Hiền truyện và rèn luyện phẩm chất
ñạo ñức tư cách, xử kỷ tiếp vật. Họ ñều là những con người chân
chính, yêu nước thương dân, có nhân cách cao ñẹp mà sử sách ñã
nêu gương, nhân dân ñã tôn vinh, cho dù họ là những nhà nho hành
ñạo, nhà nho ẩn dật hay nhà nho tài tử ñi chăng nữa. Có thể nêu ra
ñây những nhân vật tiêu biểu cho ba loại hình nhà nho trên của từng
triều ñại như Chu Văn Thường, ðàm Dĩ Mông, Nguyễn Công Bật,
ðoàn Văn Khâm… ñời Lý; Phạm Ngũ Lão, Mạc ðĩnh Chi, Trương
Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, Chu Văn An, Trần Nguyên
ðán, Nguyễn ðại Phạp, Hồ Quý Ly, Nguyễn Phi Khanh… ñời
Trần; Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Phan Phu
Tiên, Nguyễn Trực, Thân Nhân Trung, ðỗ Nhuận… ñời Hậu Lê sơ;
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan… ñời Mạc;
Nguyễn Hàng, Hoàng Sĩ Khải, Ngô Thế Lân, ðào Duy Từ, Lê Quý
ðôn, Phạm Nguyễn Du, Lê Hữu Trác… thời Lê trung hưng;
Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm và các danh sĩ thuộc
Ngô gia văn phái; Phan Huy Ích, Phan Huy Chú và các danh sĩ của
dòng văn Phan Huy; Phạm Thái, Bùi Huy Bích, Nguyễn Du, Phạm
Quý Thích, Phạm ðình Hổ… cuối thời Lê trung hưng - Tây Sơn Nguyễn sơ; Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát,
Nguyễn ðình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Nguyễn Quang
Bích, Nguyễn Xuân Ôn, Phan ðình Phùng, Nguyễn Khuyến, Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Ngô ðức Kế, Huỳnh
Thúc Kháng… ñời Nguyễn; và còn rất nhiều những nhà Nho chân
chính khác nữa. Nhân dân ta ñã tự hào về những con người tuyệt
vời ấy. Nền giáo dục Nho học của Việt Nam kéo dài gần nghìn
năm, nếu tính từ ngày dân tộc ta giành lại chủ quyền với chiến
thắng quân Nam Hán trên sông Bạch ðằng vào mùa ñông năm 938
4
của Ngô Quyền, nhưng cũng có thể trước ñó rất lâu, nếu tính từ thời
Bắc thuộc lần thứ hai (năm 43-544) với ít nhiều có sự góp công của
các quan cai trị người Hán như Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp
(187-226), dù mục ñích là nhằm ñào tạo các quan viên lại thuộc ñịa
phương ñể giúp việc cho bộ máy cai trị của họ.
1.1.2. Các nhà nghiên cứu ñã khẳng ñịnh Nho giáo 儒教 là một
học thuyết chính trị xã hội, một trường phái tư tưởng rất coi trọng
giáo dục. Không phải ngẫu nhiên mà các thế hệ Nho gia ở Trung
Hoa và Việt Nam ngày xưa ñều tôn vinh Khổng Tử là bậc Vạn thế
sư biểu 萬世師表. Giai cấp phong kiến Trung Hoa, Việt Nam ñều
lấy Nho giáo làm chỗ dựa tinh thần ñể cai trị nhân dân, củng cố
vương triều, bình ổn xã hội, xây dựng ñất nước. Hiện không có tài
liệu nào nói về tình hình giáo dục thời nhà nước Văn Lang của
Hùng Vương, nước Âu Lạc của nhà Thục: Thục Phán An Dương
Vương, nước Nam Việt (257-208 TCN) của nhà Triệu, mà Triệu
ðà (207-137 TCN) tức Triệu Vũ ðế thiết lập. Cuối ñời nhà Triệu,
Triệu Ai Vương (112 TCN), rồi Triệu Vương Kiến ðức tức Thuật
Dương Vương (111 TCN) còn nhỏ, Cù Thị ñã tư thông, cấu kết với
tướng của “Thiên triều” là Lộ Bác ðức ñể dâng nước ta cho nhà
Tây Hán (ñiều này bài văn hịch của Lữ Gia có chép lại với nội dung
kể tội Cù Thị); mà Tây Hán là một triều ñại tôn sùng Nho học, ñưa
Nho học lên ñịa vị ñộc tôn, nếu không muốn nói là Quốc giáo, bằng
chứng là năm 136 TCN Hán Vũ ðế ñã tuyên bố “bãi truất Bách
gia, ñộc tôn Nho thuật” 罷黜百家,獨尊儒術 (xoá bỏ học thuyết
của trăm nhà - tức Bách gia chư tử - ñể tôn vinh một mình Nho
học). Vì thế, sau khi thống trị nước ta, các quan cai trị của triều Tây
Hán ñã truyền bá chế ñộ giáo dục của Trung Hoa sang nước ta, bắt
5
người nước Nam học chữ Hán, từ ñó chữ Hán trở thành văn tự
chính thống dùng trong giáo dục thi cử, trong công văn giấy tờ hành
chính quan phương, trong trước tác và trong lễ nghi tế tự… Cũng từ
ñó, các sách của Nho giáo như Tứ thư 四書: ðại học 大學, Trung
dung 中庸, Luận ngữ 論語, Mạnh Tử 孟子 và Ngũ kinh 五經:
Thi 詩, Thư 書, Lễ (Lễ ký) 禮 (禮記), Dịch 易, Xuân thu 春秋;
các bộ Bắc sử 北史 cùng các sách của Bách gia chư tử 百家諸子
trở thành Thánh kinh Hiền truyện 聖經賢傳 và các bộ Nam sử
南史 ñược các sĩ tử nước ta dùng làm sách giáo khoa (sách gối ñầu
giường) chính thống.
1.1.3. Sau khi giành ñược ñộc lập, các vương triều phong kiến
Việt Nam ñã rất coi trọng giáo dục vì các triều ñại ấy nhận thức
ñược rằng ñó là biện pháp chủ yếu, hữu hiệu và thiết thực nhất ñể
ñào tạo nhân tài, dựng xây ñất nước. Nếu ở các triều ñại Ngô (939967), ðinh (968-980), Tiền Lê (980-1009) và vài ñời vua ñầu nhà
Lý, việc giáo dục ñào tạo nhân tài cho ñất nước chủ yếu là do các
nhà sư trong chốn Thiền môn thực hiện thì kể từ ñời vua Lý Thánh
Tông (1054-1072) về sau thường là do các nhà Nho ñảm nhận. Sự
kiện vua Lý Thánh Tông cho xây dựng Văn miếu 文廟 vào năm
1070, rồi sau ñó, con trai ông là vua Lý Nhân Tông (1072-1127)
cho mở khoa thi ñầu tiên năm Ất Mão 1075 và thành lập Quốc tử
giám 國子監 bên cạnh Văn miếu 文廟 vào năm 1076, chính là cắm
cái mốc cho sự nghiệp chấn hưng giáo dục của nước ta. Có thể coi
6
- Xem thêm -