Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục giá trị văn hoá tinh thần truyền thống dân tộc với việc hình thành và p...

Tài liệu Giáo dục giá trị văn hoá tinh thần truyền thống dân tộc với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên việt nam hiện nay

.PDF
180
57
81

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH BÙI THANH THỦY GI¸O DôC GI¸ TRÞ V¡N HãA TINH THÇN TRUYÒN THèNG D¢N TéC VíI VIÖC H×NH THµNH Vµ PH¸T TRIÓN NH¢N C¸CH SINH VI£N VIÖT NAM HIÖN NAY Chuyên ngành Mã số : CNDVBC & CNDVLS : 62 22 80 05 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS TRẦN SỸ PHÁN 2. PGS.TS NGUYỄN CHÍ MỲ HÀ NỘI - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được xây dựng trên cơ sở tiếp thu ý tưởng khoa học của PGS.TS Trần Sỹ Phán và PGS.TS Nguyễn Chí Mỳ. Các số liệu trong luận án là trung thực. Những kết luận trong luận án chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả luận án Bùi Thanh Thủy MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Những nghiên cứu liên quan đến giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc và giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc 1.2. Những nghiên cứu liên quan đến nhân cách sinh viên và sự hình thành, phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam Chương 2: GIÁO DỤC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TINH THẦN TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VỚI VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAYMẤY VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 2.1. Giá trị và giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc 2.2. Tầm quan trọng của giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc với việc hình thành, phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay 2.3. Nội dung giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc với việc hình thành, phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay Chương 3: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TINH THẦN TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VỚI VIỆC HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Những nhân tố tác động đến giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc với việc hình thành, phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay 3.2. Thực trạng giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc với việc hình thành, phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TINH THẦN TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VỚI VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY 4.1. Một số quan điểm nhằm phát huy vai trò của giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc với việc hình thành, phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay 4.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc với việc hình thành, phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC Trang 1 6 6 14 25 25 35 53 67 67 78 108 108 112 149 151 152 159 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT GS : Giáo sư GS,TS : Giáo sư,Tiến sĩ GS,VS : Giáo sư, Viện sĩ GTVH : Giá trị văn hóa NC : Nhân cách NCSV : Nhân cách sinh viên NCS : Nghiên cứu sinh SV : Sinh viên TTDT : Truyền thống dân tộc TTVH : Truyền thống văn hóa TS : Tiến sĩ 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sinh viên là tầng lớp xã hội đặc thù, là nguồn nhân lực quan trọng để bổ sung cho đội ngũ trí thức trong tương lai của mỗi đất nước. Trong thư “Gửi Đại hội quốc tế các sinh viên xã hội chủ nghĩa”, Ăng ghen có viết: Các bạn hãy cố gắng làm cho thanh niên ý thức được rằng giai cấp vô sản lao động trí óc phải được hình thành từ hàng ngũ sinh viên. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời người khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội và trong Thư gửi học sinh cả nước nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập - 1946, Hồ Chủ tịch có viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”. Dòng thư ấy không chỉ là lời cổ vũ, động viên, mà còn là cả một tấm lòng, một niềm tin yêu của Hồ Chủ tịch cũng như của toàn thể dân tộc đối với thế hệ trẻ nói chung, sinh viên nói riêng. Kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên nói chung, về sinh viên và công tác sinh viên nói riêng, trong Nghị quyết “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” được Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X thông qua (ngày 257-2008) đã khẳng định: Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước. 2 Gần đây, trong bài phát biểu tại Đại hội lần thứ IX Hội Sinh viên Việt Nam (nhiệm kỳ 2013-2018), thay mặt Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng khẳng định: Đảng, Nhà nước ta luôn xác định thanh niên là rường cột quốc gia, một trong những nhân tố quyết định tương lại, vận mệnh dân tộc. Học sinh, sinh viên những thanh niên ưu tú có tri thức sẽ là lực lượng kế thừa và phát huy những thành quả cách mạng của Đảng và dân tộc, tiêu biểu cho trí tuệ Việt Nam. Đại đa số sinh viên Việt Nam có lòng yêu nước nồng nàn, sống có hoài bão, ước mơ, hiểu biết về giá trị đạo đức, văn hóa, xã hội, có năng lực sáng tạo, tiếp thu tri thức mới, hăng hái đi đầu trong các phong trào hành động cách mạng của tuổi trẻ, không ngừng học tập, rèn luyện vì ngày mai lập thân, lập nghiệp, vì tiền đồ của đất nước. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận sinh viên thờ ơ về chính trị, sống thực dụng, chạy theo những trào lưu, xu hướng lệch lạc, xa rời các giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc. Nhất là khi “Môi trường văn hóa bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất là trong thanh, thiếu niên, rất đáng lo ngại” [20, tr.35] thì nguy cơ xa rời cội nguồn dân tộc và các giá trị truyền thống trong một bộ phận sinh viên lại càng lớn hơn. Vậy làm thế nào để giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa tinh thần truyền thống của dân tộc; ngăn chặn tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; làm thế nào để đẩy lùi cái ác, cái xấu, cái thấp hèn, lạc hậu làm tha hóa con người, ảnh hưởng xấu đến việc xây dựng giá trị nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, nhất là trong thế hệ trẻ cũng như xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Làm thế nào để có được những nhân cách sinh viên phát triển một cách toàn diện, vừa có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân vừa có kiến thức, kỹ năng thực hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và 3 phát triển ứng dụng khoa học, công nghệ, thích nghi với môi trường làm việc đày biến động như hiện nay. Với ý nghĩa đó, tôi chọn vấn đề: “Giáo dục giá trị văn hoá tinh thần truyền thống dân tộc với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận án tiến sĩ Triết học, hy vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc giải quyết vấn đề lớn từ đề tài đặt ra. 2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài 2.1. Mục đích Trên cơ sở phân tích tầm quan trọng, nội dung, thực trạng giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên, luận án đề xuất một số quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc để hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ Để đạt mục đích trên, luận án phải thực hiện những nhiệm vụ sau: - Phân tích vai trò, tầm quan trọng, nội dung, yêu cầu giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc trong việc hình thành, phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. - Đánh giá thực trạng việc giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam hiện nay nhằm hình thành, phát triển nhân cách cho họ. - Đề xuất quan điểm và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Trong khuôn khổ đề tài này, luận án chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. Thời gian khảo sát chủ yếu là từ sau khi Đảng và Nhà nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, nhất là từ sau năm 2000 trở lại đây. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Diện khảo sát giới hạn vào SV một số trường cao đẳng, đại học ở hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn - Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về việc giữ gìn, và phát huy các giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc. Đồng thời, tham khảo, sử dụng kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học của các tác giả đã được công bố có liên quan trực tiếp đến đề tài. - Luận án căn cứ từ thực tiễn giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc, tác động của nó tới việc hình thành, phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp phương pháp lôgíc và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp điều tra xã hội học, cấu trúc hệ thống... - Sử dụng phương pháp phân tích các số liệu thống kê cơ bản kết hợp với cách tiếp cận cụ thể, đa chiều, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm và tọa đàm nhằm thu thập những thông tin chính xác, cụ thể và trực tiếp. - Sử dụng phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp các tài liệu từ các nguồn, bao gồm các tài liệu có liên quan của Đảng, Nhà nước, các Bộ, Ngành ở trung ương và địa phương, các dự án, các công trình, đề tài nghiên cứu khoa học có liên quan. 5. Đóng góp về khoa học của luận án - Góp phần làm sáng tỏ vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc tới việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. - Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và nghiên cứu một số chuyên đề, chương trình lý luận về văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc Việt Nam và ảnh hưởng của các giá trị đó tới việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. - Ở một mức độ nhất định, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục về kết quả khảo sát của đề tài, luận án gồm 4 chương, 9 tiết. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN GIÁ TRỊ VĂN HÓA TINH THẦN TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC VÀ GIÁO DỤC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TINH THẦN TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC Mỗi dân tộc trên thế giới không phân biệt chủng tộc, màu da, thể chế chính trị đều có những hệ thống GTVH tinh thần TTDT của riêng mình. Một số học giả quan niệm rằng, sự phát triển của các giá trị, đức hạnh và sự hội nhập của chúng nhằm tạo ra một nền văn hóa đặc sắc và phong phú trong lịch sử và vì thế phụ thuộc vào kinh nghiệm và sức sáng tạo của nhiều thế hệ. Đó chính là truyền thống theo nghĩa hài hòa như là sự hiện thân của trí tuệ. Ở Việt Nam, khi đề cập đến GTVH tinh thần TTDT phải kể đến những cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã có nhiều đóng góp quý giá và sáng tạo cho nền văn hóa dân tộc và nhân loại. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là sự tỏa sáng văn hóa Hồ Chí Minh, là một nhân cách cao thượng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng cho sự tổng hòa thành công của nhiều nền văn hóa tiên tiến trên thế giới. Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta một di sản văn hóa, tinh thần vô cùng quý giá. Người đã đưa ra quan niệm về “Văn hóa”, nhiệm vụ của văn hóa, tính chất của nền văn hóa mới (dân tộc, khoa học và đại chúng) cũng như xác định vai trò của văn hóa, của văn nghệ sĩ trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước v.v. Chúng ta có thể tìm thấy trong nhiều bài nói, bài viết hay các tác phẩm thơ của Người. “Truyện và ký” (tập hợp những bài viết của Người từ tháng 6-1922 đến tháng 10-1925), được nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 1974 ) đã để lại trong công chúng một bài học hết sức ấn tượng và sâu sắc về một trái tim sôi nổi, một ý chí đấu tranh bất khuất kiên cường và một tinh thần lạc quan cách mạng. “Nhật ký trong tù”- một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng của Hồ Chí Minh được viết chủ yếu trong 7 khoảng thời gian từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943 - ngoài giá trị lịch sử, giá trị triết học v.v. “Nhật ký trong tù” còn là một tác phẩm văn học kiệt xuất phản ánh giá trị văn hóa tinh thần trong quan hệ với vật chất, với “thể phách” của con người. Toàn bộ tác phẩm cho chúng ta thấy sức sống, niềm tin, lạc quan cách mạng “Muốn nên sự nghiệp lớn / Tinh thần càng phải cao”. Sau khi cách mạng thành công, cùng với chăm lo xây dựng đời sống vật chất Người luôn quan tâm đến việc xây dựng đời sống tinh thần. Điều đó thể hiện trong các bài phát biểu của Người tại Hội nghị văn hóa toàn quốc (ngày 24-11-1946); Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ III (ngày 1-12-1962) v.v. Đặc biệt Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 21951), ngoài việc xác định nhiệm vụ phải “ Xây dựng một nền văn hóa Việt nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”. Người còn đưa ra một kết luận kinh điển về sức mạnh của giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc: Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa tới nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng để lại cho chúng ta nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa mà giá trị của nó có sức lan tỏa to lớn, sâu rộng trong xã hội Việt Nam không chỉ hôm nay mà cả mai sau. Trong số các công trình đó phải kể đến cuốn “Văn hóa và đổi mới” [24]. Ngay trong lời giới thiệu, tác giả cho rằng: “Văn hóa và đổi mới là một đề tài có tính thời sự nóng hổi. Đối với nhiều người chúng ta, đây là một đề tài rất thú vị, ở chỗ nó mở ra những chân trời mới cho sự suy nghĩ và nghiên cứu, và từ đó cho sự vận dụng và thực hiện trong cuộc sống” [24, tr.5]. Những phân tích, luận giải của tác giả trong phần thứ nhất “Văn hóa trong lịch sử” với các mục. “I. Văn hóa và lịch sử” và “II.Văn hóa trong lịch sử dân tộc” có ý nghĩa tham khảo hết sức bổ ích để NCS thực hiện đề tài của mình. Đặc biệt mục “Văn hóa trong lịch sử dân tộc” đã luận giải một cách sâu sắc tầm quan trọng của văn hóa trong 8 toàn bộ lịch sử phát triển dân tộc. Văn hóa làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng các dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao khó khăn, thử thách. Do đó việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa, nhất là các giá trị văn hóa tinh thần dân tộc là việc làm hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những cơ sở lý luận quan trọng định hướng cho mọi nghiên cứu của chúng ta về văn hóa, văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc và giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương, khóa VIII đã ra Nghị quyết về “xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Có thể nói đây là chiến lược phát triển văn hoá trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Qua các kỳ Đại hội lần thứ IX (2001), lần thứ X (2006) Đảng ta tiếp tục phát triển một bước chiến lược trên. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011) Đảng ta tiếp tục chủ trương: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa…trở thành nền tảng vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển” [20, tr.75-76]. Gần đây, tháng 6-2014, tại hội nghị Trung ương 9 (khoá XI) Đảng ta đã tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về văn hoá và ban hành Nghị quyết số 33NQ/TƯ về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Trong Mục tiêu chung, Nghị quyết khẳng định văn hóa phải: thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh…Đó là cơ sở cho chúng ta hiểu rõ vấn đề phải làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người Việt nam hoàn thiện nhân cách. Ngoài tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, quan điểm của Đảng ta về văn hóa, về GTVH tinh thần TTDT, một số nhà nghiên cứu Việt Nam cũng có những luận giải khá sâu sắc về vấn đề này. 9 Theo GS Vũ Khiêu, nói đến giá trị văn hóa là nói đến con người, là quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên, là cái của con người, do con người và vì con người, không có giá trị văn hóa tự thân, tách khỏi con người. Vì vậy khi: Nói tới giá trị văn hóa là nói tới thành quả mà mỗi dân tộc hay một con người đã đạt được trong quan hệ với thiên nhiên, với xã hội và trong sự phát triển của chính bản thân mình. Nói tới giá trị văn hóa là nói tới thái độ, trách nhiệm và những quy tắc xử lý của mỗi người trong quan hệ với bản thân mình, với những người xung quanh, với gia đình, bạn bè, với giai cấp và loài người, với xã hội và thiên nhiên [39, tr.36-37]. GS Trần Văn Giàu trong công trình “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” [27], từ góc độ sử học, triết học GS nghiên cứu và đưa ra những kiến giải sâu sắc về các giá trị truyền thống đặc thù của dân tộc Việt Nam, cũng như ảnh hưởng của lịch sử đối với việc phát triển các giá trị truyền thống đó. Theo tác giả: Giá trị tinh thần của xã hội bao gồm những giá trị khoa học, đạo đức, nghệ thuật…đánh dấu sự phát triển về các mặt chân, thiện, mỹ của đời sống xã hội. Đó là những quan hệ tốt đẹp mà xã hội đã đạt được nhằm phát triển và hoàn thiện đời sống xã hội như chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng, độc lập, tự do, dân chủ, hoà bình, công lý [27, tr.50-51]. Phần chính của cuốn sách, tác giả tập trung phân tích 7 đức tính tốt đẹp của dân tộc Việt Nam bao gồm: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Các phạm trù được trình bày một cách có hệ thống và khoa học với ý nghĩa giống như một “bảng giá trị tinh thần” của người Việt. Những giá trị ấy, theo tác giả, đã định hình với những nét cơ bản ngay từ thời Văn Lang xa xưa, được phát triển độc lập, không bị đồng hóa do những ảnh hưởng từ bên ngoài. Tác giả cho rằng, trong bảng giá trị tinh thần 10 đó thì yêu nước là giá trị đầu tiên và quan trọng nhất, là thước đo tiêu chuẩn cho mọi thước đo trong cuộc sống của con người. Chương cuối cùng của cuốn sách mang tính kết luận tổng quát, tác giả nói về Chủ tịch Hồ Chí Minh con người kết tinh mọi giá trị truyền thống của dân tộc và sự kết hợp những giá trị cao đẹp của nhân loại. GS,VS Hoàng Trinh trong công trình “Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chủ nghĩa nhân văn và văn hóa” [68] đã có những phân tích khá sâu sắc khái niệm “chủ nghĩa nhân văn”; quan hệ giữa chủ nghĩa nhân văn với chủ nghĩa xã hội. Trong công trình, cho dù không trực tiếp bàn đến giá trị văn hóa tinh thần truyền thông dân tộc, nhưng ở mức độ nào đó, kết quả nghiên cứu của tác giả (nhất là sự luận giải của tác giả về những biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn Việt Nam, tr.10; bản sắc của chủ nghĩa nhân văn Việt Nam, tr.11 hay là các giá trị-nhất là giá trị tinh thần - do chủ nghĩa xã hội đưa lại cho con người, tr.15-16) có ý nghĩa nhất định để NCS tham khảo khi phân tích vấn đề nhân cách và các thành tố cấu thành nhân cách - nhìn từ góc độ giá trị văn hóa. GS, TS Nguyễn Trọng Chuẩn cắt nghĩa: “Truyền thống - đó là những yếu tố của di tồn văn hóa, xã hội thể hiện trong chuẩn mực hành vi, tư tưởng, phong tục, tập quán, thói quen, lối sống và cách ứng xử của một cộng đồng người được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được truyền từ đời này sang đời khác và được lưu giữ lâu dài” [12, tr.9]. Như nhìn nhận của GS, TS Nguyễn Trọng Chuẩn: “Khi nói đến giá trị truyền thống thì hàm ý đã muốn nói tới những giá trị tương đối ổn định, tới những gì là tốt đẹp, tích cực, là tiêu biểu cho bản sắc dân tộc có khả năng truyền lại qua không gian, thời gian, những gì cần phải bảo vệ và phát triển” [13, tr.753]. Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sỹ Quý đồng chủ biên, “Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [11]. Nội dung cuốn sách đề cập đến một số vấn đề: giá trị, giá trị đạo đức truyền thống, giá trị văn hoá truyền thống và sự chuyển biến của chúng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong đó, đề cập tương đối 11 toàn diện về vấn đề khai thác, giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống, ít nhiều có đề cập đến giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc mà NCS có thể kế thừa trong quá trình thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của mình. Trong số những công trình nghiên cứu về văn hóa nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng, tác phẩm “Bản sắc văn hoá Việt Nam” của GS Phan Ngọc [52] có một vị trí đặc biệt. Đặc biệt vì đây là một trong số rất ít những quyển sách với mục tiêu xây dựng những khái niệm nền tảng, những phương pháp cơ bản cho ngành văn hoá nói chung và ngành nghiên cứu văn hoá Việt Nam nói riêng, để ngành này sớm trở thành một ngành khoa học độc lập. “Bản sắc văn hoá Việt Nam” là một công trình nghiên cứu công phu và tâm huyết, chứa đựng nhiều ý tưởng độc đáo, mang tính đột phá và góp phần cơ bản vào quá trình xây dựng và hoàn chỉnh ngành văn hoá học Việt Nam. Nhiều đọc giả chắc chắn cũng sẽ tâm đắc với những khái niệm và cách tiếp cận đầy sáng tạo như: “khúc xạ văn hoá”, “tiếp xúc văn hoá”, “truyền thống vượt gộp trong văn hoá Việt Nam”, “nhân cách luận Việt Nam”, “một định nghĩa thao tác luận về văn hoá” [52]. Tuy nhiên những khái niệm liên quan trực tiếp đến luận án của NCS như “giá trị văn hóa tinh thần”; “giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc” v.v. lại chưa được tác giả đề cập một cách chính diện từ giác độ triết học. GS Trần Ngọc Thêm với “Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam” [64]. Công trình được in thành sách với kết cấu 6 chương. Chương 1 tác giả xây dựng cơ sở lý luận về văn hóa, sắc thái riêng và đặc trưng văn hóa với cái nhìn độc lập, không lấy văn hóa Trung Hoa hay Châu Âu làm tiêu chuẩn. Những phần sau tác giả có cái nhìn khá hệ thống, đi từ nhận thức về văn hóa, đến phân tích văn hóa cộng đồng trên cơ sở đi sâu vào văn hóa tập thể và văn hóa cá nhân của lịch sử phát triển dân tộc. Như “một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [64, tr.25]. Phần cuối cuốn sách, tác giả phân tích khá sâu 12 sắc sự hình thành văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội trong bản sắc văn hóa Việt Nam. Đề tài “Nghiên cứu khoa học phát triển văn hóa, con người và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” Bộ Khoa học Công nghệ [8]. Đề tài tập trung vào các nội dung: Luận cứ khoa học và cơ sở thực tiễn về quan hệ giữa văn hóa và phát triển; sự biến đổi văn hóa từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại; quyền con người vì mục tiêu phát triển con người và văn hóa”; định hướng xây dựng văn hóa quản lý, văn hóa lãnh đạo, các giá trị văn hóa trong các hoạt động xã hội của con người ở cộng đồng, trước sự phát triển xã hội và hội nhập quốc tế; định hướng xây dựng đạo đức, lối sống, tác phong của con người trong các hoạt động xã hội cơ bản vì mục tiêu phát triển đất nước. Gần đây phải kể đến bài viết của tác giả Phạm Duy Đức (2011) “Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về phát triển văn hóa, xây dựng con người trong giai đoạn mới” [25]. Theo tác giả: …văn hoá và con người là vấn đề trọng tâm phản ánh sự ưu việt của chế độ chính trị xã hội, phản ánh chất lượng và mục đích cuối cùng của sự tăng trưởng kinh tế trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Những vấn đề này gắn bó, thống nhất hữu cơ với nhau đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước. Trong thời kỳ hiện nay, sự phát triển bền vững của đất nước được thể hiện ở việc giải quyết thành công các mối quan hệ cơ bản: Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá xã hội; giữa lợi ích của cá nhân và lợi ích của cộng đồng; giữa lợi ích của hiện tại và lợi ích của tương lai; giữa lợi ích của con người và lợi ích của môi trường [25]. Cuốn “Văn hóa trong chiến lược phát triển của Việt Nam” do GS,TS Đinh Xuân Dũng chủ biên [15], đã đề cập đến cách nhận diện văn hóa với tính cách là hệ giá trị và vị trí, vai trò của văn hóa trong chiến lược phát triển của Việt Nam. Những phân tích của các tác giả về Cấu trúc văn hóa (tr.30-43) 13 ít nhiều có giá trị tham khảo khi NCS phân tích cấu trúc văn hóa, trong đó giá trị văn hóa tinh thần là một bộ phận hợp thành của khái niệm văn hóa. Năm 2014, cuốn sách do GS,TS Ngô Đức Thịnh chủ biên “Giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống và biến đổi” [65]. Cuốn sách gồm có 07 chương, trong đó một số nội dung ở chương 5 “Một số giá trị văn hóa trong đời sống tinh thần truyền thống” (từ tr.235-298) và chương 7 “Bảo tồn, làm giàu và phát huy giá trị văn hóa truyền thống trong đổi mới và hội nhập” (từ tr.400430) ít nhiều có liên quan đến đề tài luận án của NCS và có thể là tài liệu tham khảo hết sức quý giá cho NCS trong quá trình thực hiện luận án. Liên quan trực tiếp đến văn hóa tinh thần trong những năm gần đây cũng đã có một số công trình đề cập đến vấn đề này. Năm 1982 Viện MácLênin và Tạp chí Cộng sản có tổ chức cuộc hội thảo khoa học với chủ đề “Giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam”, cuộc hội thảo đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu. Một số bài tham gia hội thảo đã được tuyển chọn in trong 2 tập sách có tên Về giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam. (nhà xuất bản Thông tin lý luận 1983). Một số nội dung trong 2 tập sách này là tài liệu tham khảo có giá trị trong quá trình NCS thực hiện luận án. Tuy nhiên, trong 2 tập sách trên, một số khái niệm trung tâm, như “Giá trị văn hóa tinh thần”, hay “Giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc” dù đã được đề cập đến nhưng chưa được luận giải một cách sâu sắc. Năm 2008 có đề tài cấp Bộ “Thực trạng hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn hóa tinh thần các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên” do tác giả Nguyễn Ngọc Hòa làm chủ nhiệm [34]. Đề tài tập trung nghiên cứu việc hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn hóa tinh thần ở một khu vực xác định là Tây Nguyên, nhưng một số kết quả nghiên cứu đã đạt được về lý luận trong đề tài này, nhất là khái niệm “văn hóa tinh thần” là tài liệu tham khảo có ý nghĩa nhất định trong quá trình NCS thực hiện đề tài nghiên cứu của mình. Năm 2014, NCS Lê Hồng Phong đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Triết học với đề tài “Ảnh hưởng của đạo Tin Lành đối với đời sống tinh thần 14 của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay” [56]. Những luận giải của tác giả luận án ở Chương 3 về “Đời sống tinh thần và một số nhân tố ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay” là tài liệu tham khảo giúp cho tác giả luận án này có cách nhìn bao quát hơn về đời sống tinh thần, về văn hóa tinh thần. Như vậy, xung quanh vấn đề văn hóa, văn hóa tinh thần, giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc đã được một số tác giả đề cập đến trong nghiên cứu từ các cách tiếp cận khác nhau. Phần lớn các tác giả có chiều hướng nghiên cứu sâu về thực tiễn, áp dụng các phương pháp nghiên cứu về khảo cổ học, tư duy lịch sử hoặc về phân tích ngôn ngữ, phong tục tập quán. Đây là hướng đi hết sức cơ bản và là cơ sở để tìm hiểu, xây dựng nên khoa học văn hóa truyền thống. Trong đó các tác giả thường xây dựng ý niệm cơ bản về đối tượng nghiên cứu, chứ không phải khái niệm đầy đủ hoặc chỉ đứng dưới góc độ ngành mà không phải là khái niệm chuẩn- khái niệm xây dựng chặt chẽ từ cơ sở triết học biện chứng. Những công trình này thường là những khảo cứu khoa học như “Văn hóa Việt Nam, xã hội và con người” do GS Vũ Khiêu chủ biên [39]; “Cơ sở Văn hóa Việt Nam” do GS Trần Quốc Vượng chủ biên [78], hay các công trình nghiên cứu của GS Trần Văn Giàu... Trong nhận thức của mình, NCS thấy các tác giả trong các công trình này chủ yếu mô tả đặc điểm hoặc tính chất của văn hóa, giá trị văn hóa tinh thần mà chưa đưa ra những kết luận có tính khái quát triết học như một “định nghĩa”, trong khi đó vẫn đề cập đến việc hình thành hoặc sử dụng chúng làm cơ sở lý luận để luận giải các vấn đề khác. NCS cho rằng, đây là một trong những vấn đề đặt ra mà luận án cần phải tiếp tục giải quyết. 1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN NHÂN CÁCH, NHÂN CÁCH SINH VIÊN VÀ SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH SINH VIÊN 1.2.1. Về vấn đề nhân cách Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề nhân cách. Một số nhà triết học phương Đông cổ đại đã ít nhiều bàn về 15 nhân cách. Theo họ, con người là tiểu vũ trụ, mang những đặc tính của vũ trụ. Những đặc tính này chi phối sự phát triển con người. Con người liên hệ với vũ trụ bao la nên con người cần biết được các thông tin của vũ trụ. Thực thể con người là sản phẩm của nguyên lý âm dương, vừa đối lập vừa thống nhất, chứa đựng và chuyển hoá lẫn nhau, trời - đất - người hợp thành một (thiên - địa - nhân hợp nhất). Mạnh Tử nhận xét: Khi phát triển hết mình, con người có thể biết trời mà còn hợp nhất với trời làm một. Tính cách của con người chịu ảnh hưởng của ngũ hành và chia ra loại người: Kim, Hỏa, Thuỷ, Mộc, Thổ. Người mệnh Kim ăn ở có nghĩa khí, nếu Kim vượng thì tính cách cương trực. Người mệnh Hỏa thì lễ nghĩa, đối với mọi người nhã nhặn, lễ độ, thích nói lý luận; nhưng nếu Hỏa vượng thì nóng nảy, vội vã, dễ hỏng việc. Người mệnh Thổ trọng chữ tín, nói là làm; nếu Thổ vượng thì hay trầm tĩnh, không năng động, dễ bỏ thời cơ. Người mệnh Mộc hiền từ, lương thiện, độ lượng; Mộc vượng thì tính cách bất khuất. Người mệnh Thủy thì khúc khuỷu, quanh co, nhưng thông suốt; nếu Thuỷ vượng thì tính tình hung bạo, dễ gây tai hoạ. Người phương Đông đánh giá con người qua chất là chủ yếu, lượng là phụ. Người phương Đông lấy “Tâm thiện” làm trọng. Phương Tây tôn sùng tiến bộ, tôn sùng văn minh vật chất, không quan tâm nhiều đến phẩm chất. Do đó nhiều người đã than phiền rằng đạo lý ngày nay suy đồi, nhân cách con người thoái hoá không bằng ngày xưa. Người phương Đông đề cao tính thiện, tính nhân, thích sự im lặng, nhẹ nhàng, đề cao sự cân bằng không thái quá. Mọi tu nhân, xử thế, chính trị đều hướng tới Thiện. Biết đủ là giàu, giản dị ở vật chất, giản dị trong nội tâm, trong ngôn từ, trong quan hệ với mọi người. Khổng Tử quan niệm về nhân cách con người thể hiện ở Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Trong đó Nhân là gốc và chỉ có người “Đại nhân” mới có Nhân. Nó nói lên hoàn cảnh và phương thức sống của con người phương Đông. Tuy vậy, đây chưa phải là những quan điểm, học thuyết về nhân cách. 16 Năm 1983, nhà xuất bản sách giáo khoa Mác- Lênin có dịch từ nguyên bản tiếng Nga cuốn “Chủ nghĩa xã hội và nhân cách” [2]. Do L.M. Ác- khanghen-xki chủ biên. Sách gồm 16 chương, được in trong hai tập. Tập I gồm phần mở đầu và 7 chương, tập II gồm 9 chương tiếp theo. Đây là công trình tập thể của nhiều tác giả. Cuốn sách đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề như: nhân cách; những đặc trưng cơ bản của nhân cách xã hội chủ nghĩa; tính tích cực xã hội của nhân cách; sự phát triển nhân cách về mặt đạo đức; những con đường giáo dục nhân cách xã hội chủ nghĩa v.v.Tuy nhiên những nghiên cứu đến nhân cách của một tầng lớp cụ thể như nhân cách sinh viên hay nhân cách thanh niên thì chưa được các tác giả đề cập đến. Ở Việt Nam đã có nhiều nhà nghiên cứu bàn về nhân cách. Cuốn “Một số vấn đề nghiên cứu nhân cách” [29] (MS-420) do GS,VS Phạm Minh Hạc và PGS,TS Lê Đức Phúc (chủ biên) là một tập hợp 11bài viết nghiên cứu về con người và nhân cách con người khá phong phú. Từ cách tiếp cận nghiên cứu đến lý thuyết về nhu cầu của con người, động cơ và quá trình hình thành nhân cách, mô hình nhân cách, ý thức, tự ý thức và sự hình thành, phát triển nhân cách, vấn đề “cái Tôi” trong tâm lý học nhân cách… Về nhân cách con người Việt Nam, đáng chú ý là ba chương trình khoa học cấp Nhà nước nghiên cứu về mô hình nhân cách con người Việt Nam được triển khai từ 1991 đến 2005 do GS,VS Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm là tập trung và nổi bật nhất. Đó là đề tài KX07-04 nghiên cứu về “Đặc trưng và xu thế phát triển nhân cách con người Việt Nam trong sự phát triển kinh tế xã hội”, phân tích làm rõ định hướng giá trị, năng lực, lối sống của người Việt Nam. So với một số công trình khác, đề tài KX 07-04 đã có những nghiên cứu về định hướng giá trị nhân cách theo các nhóm xã hội (nhóm tuổi, các miền, học sinh phổ thông trung học; sinh viên v.v.); theo mốc thời gian (trước đổi mới -1986 và sau đổi mới). Mặc dù bảng các giá trị nhân cách được định hướng lựa chọn khá phong phú và không được xếp theo hai nhóm chính là những giá trị vật chất và những giá trị tinh thần nhưng những giá trị được các
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan