ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------
-------------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG
GIÁO DỤC CỘNG ĐỒNG TRONG PHÒNG
CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ
(Nghiên cứu trường hợp tại xã Sóc Đăng, Huyện Đoan Hùng, Phú Thọ)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Hà Nội- 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG
GIÁO DỤC CỘNG ĐỒNG TRONG PHÒNG
CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ
(Nghiên cứu trường hợp tại xã Sóc Đăng, Huyện Đoan Hùng, Phú Thọ)
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01
Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI THỊ XUÂN MAI
Hà Nội-2014
MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIẾU
TÓM TẮT LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
3. Ý nghĩa của nghiên cứu
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
6. Giả thuyết nghiên cứu
7. Câu hỏi nghiên cứu
8. Phương pháp nghiên cứu
9. Phạm vi nghiên cứu
NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1.1. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu
1.1.1. Thuyết hệ thống
1.1.2. Thuyết nhận thức
1.1.3. Thuyết hành vi
1.2. Các khái niệm công cụ
1.2.1. Bạo lực gia đình
1.2.1.1. Khái niệm
1.2.1.2. Phân loại bạo lực gia đình
1.2.1.3. Nguyên nhân của bạo lực gia đình
1.2.1.4. Ảnh hưởng của bạo lực gia đình
1.2.2. Giáo dục cộng đồng
1.2.2.1. Một số khái niệm có liên quan
1.2.2.2. Đặc điểm của giáo dục cộng đồng
1.2.3. Giáo dục cộng đồng trong phòng chống BLGĐ đối với phụ nữ
1.2.3.1. Khái niệm
1.2.3.2. Đặc điểm của GDCĐ trong PCBLGĐ đối với phụ nữ
1.2.3.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác GDCĐ trong PCBLGĐ đối với
phụ nữ
1.2.4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển công tác xã hội trong đó có
phát triển cộng đồng, giáo dục cộng đồng trong PCBLGĐ
1.3. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
Chương 2: THỰC TRẠNG GDCĐ TRONG PHÒNG CHỐNG BLGĐ ĐỐI VỚI
PHỤ NỮ TẠI XÃ SÓC ĐĂNG, HUYỆN ĐOAN HÙNG, PHÚ THỌ..57
3
1
5
6
8
9
9
13
19
19
20
20
20
21
25
26
26
26
26
27
28
29
29
29
31
33
36
37
37
43
44
44
45
53
54
55
2.1. Thực trạng BLGĐ đối với phụ nữ tại xã Sóc Đăng, huyện Đoan Hùng
55
2.1.1. Thực trạng BLGĐ đối với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
57
2.1.1.1. Hình thức bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
57
2.1.1.2. Đối tượng bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
59
2.1.1.3. Nguyên nhân của bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
63
2.1.1.4. Ảnh hưởng của bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
69
2.2. Thực trạng hoạt động giáo dục cộng đồng về PCBLGĐ đối với phụ nữ tại xã
Sóc Đăng, huyện Đoan Hùng, Phú Thọ
72
2.2.1. Hình thức GDCĐ trong PCBLGĐ đối với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
72
2.2.1.1.Các hình thức GDCĐ trong PCBLGĐ đối với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
72
2.2.1.2.Hình thức can thiệp, trợ giúp và xử lý những hành vi BLGĐ đối với phụ nữ
tại xã Sóc Đăng
74
2.2.2. Nội dung GDCĐ trong PCBLGĐ đối với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
81
2.2.3. Đối tượng hướng tới vào công tác giáo dục cộng đồng trong PCBLGĐ đối
với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
83
2.2.3.1. Đối tượng hướng tới để tuyên truyền giáo dục về PCBLGĐ đối với phụ nữ
tại xã Sóc Đăng
83
2.2.3.2. Đối tượng thực hiện các chương trình giáo dục cộng đồng về PCBLGĐ
đối với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
85
2.2.3.3. Đối tượng tổ chức các chương trình giáo dục cộng đồng về PCBLGĐ đối
với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
86
2.2.4. Sự tham gia của người dân vào hoạt động GDCĐ trong PCBLGĐ đối với
phụ nữ tại xã Sóc Đăng
88
Chương 3: MỘT SỐ KẾT QUẢ VÀ HẠN CHẾ CỦA CÔNG TÁC GIÁO DỤC
CỘNG ĐỒNG TRONG PHÒNG CHỒNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI
PHỤ NỮ TẠI XÃ SÓC ĐĂNG
93
2.2.5. Kết quả công tác giáo dục cộng đồng trong phòng chống bạo lực gia đình
đối với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
93
2.2.5.1. Đánh giá mức độ thông tin thu được từ hình thức giáo dục cộng đồng
trong PCBLGĐ đối với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
93
2.2.5.2. Đánh giá mức độ cần thiết của các hình thức giáo dục cộng đồng trong
PCBLGĐ đối với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
95
2.2.5.3. Đánh giá hiệu quả của các hình thức GDCĐ trong PCBLGĐ đối với phụ
nữ tại xã Sóc Đăng
96
2.2.5.4. Đánh giá mức độ hài lòng của người dân xã Sóc Đăng khi tham gia
GDCĐ trong PCBLGĐ đối với phụ nữ
98
2.2.6. Một số yếu tố ảnh hưởng tới công tác giáo dục cộng đồng trong PCBLGĐ
đối với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
100
2.2.6.1. Quan niệm, nhận thức của người dân tại xã Sóc Đăng
100
2.2.6.2. Trình độ của cán bộ làm công tác GDCĐ tại xã Sóc Đăng
101
4
2.2.6.3. Nguồn kinh phí, vật chất
2.2.6.4. Sự quan tâm của chính quyền địa phương, cơ quan chức năng
KẾT LUẬN
KHUYẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BĐG: Bình đẳng giới
5
103
103
104
106
113
115
BLGĐ: Bạo lực gia đình
CĐ: Cộng đồng
CNVC: Công nhân viên chức
CTXH: Công tác xã hội
GDCĐ: Giáo dục cộng đồng
HĐVN, VHQC: Hoạt động văn nghệ, văn hóa quần chúng
HND: Hội nông dân
HPN: Hội phụ nữ
LĐTB&XH: Lao động, Thương binh và Xã hội
PCBLGĐ: Phòng chống bạo lực gia đình
PTCĐ: Phát triển cộng đồng
VBCS: Văn bản chính sách
WHO: Tổ chức Y tế thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG BIẾU
1. Các Bảng
6
Bảng 1.1. Đặc điểm kinh tế xã hội/nhân khẩu học của nhóm mẫu điều tra
23
Bảng 2.1. Những hình thức bạo lực đối với phụ nữ tại xã Sóc Đăng (%)
57
Bảng 2.2. Tìm hiểu thông tin, luật pháp chính sách của VN về PCBLGĐ
62
Bảng 2.3. Nguyên nhân của bạo lực gia đình với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
64
Bảng 2.4. Ảnh hưởng của BLGĐ đối với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
69
Bảng 2.5. Tỷ lệ tham gia vào các hình thức trợ giúp, dịch vụ xã hội của người dân
tại xã Sóc Đăng
79
Bảng 2.6. Các hình thức can thiệp BLGĐ đối với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
81
Bảng 3.1. Mức độ thông tin thu được từ các hình thức GDCĐ trong PCBLGĐ đối
với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
94
Bảng 3.2. Khó khăn của GDCĐ về PCBLGĐ với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
100
Bảng 3.3. Đặc điểm cán bộ xã Sóc Đăng trong công tác PCBLGĐ
101
2. Các Biểu đổ
Biểu đồ 2.1. Những người có hành vi BL đối với phụ nữ tại xã Sóc Đăng…....60
Biểu đồ 2.2. Mức độ diễn ra BLGĐ ở các gia đình có nghề nghiệp khác nhau tại
xã Sóc Đăng
Biểu đồ 2.3. Hiểu biết về các VBCS về quyền bảo vệ phụ nữ của người dân xã
Sóc Đăng
Biểu đồ 2.4. Các hình thức GDCĐ trong PCBLGĐ đối với phụ nữ tại xã Sóc
Đăng
Biểu đồ 2.5. Phản ứng của phụ nữ xã Sóc Đăng khi bị bạo lực gia đình
Biểu đồ 2.6. Hình thức trợ giúp, dịch vụ xã hội được phụ nữ tại xã Sóc Đăng biết
61
63
73
75
78
Biểu đồ 2.7. Hình thức xử lý người có hành vi BLGĐ với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
80
Biểu đồ 2.8. Nội dung giáo dục cộng đồng trong PCBLGĐ đối với phụ nữ tại xã
Sóc Đăng
Biểu đồ 2.9. Đối tượng hướng tới để tuyên truyền giáo dục về PCBLGĐ đối với
phụ nữ tại xã Sóc Đăng
Biểu đồ 2.10. Đối tượng thực hiện các chương trình GDCĐ về PCBLGĐ đối với
phụ nữ tại xã Sóc Đăng
Biểu đồ 2.11. Đối tượng tổ chức các chương trình GDCĐ về PCBLGĐ đối với
phụ nữ tại xã Sóc Đăng
Biểu đồ 2.12. Sự tham gia của người dân tại xã Sóc Đăng vào kênh thông tin
GDCĐ về PCBLGĐ
Biều đồ 2.13. Sự tham gia của người dân xã Sóc Đăng vào hình thức GDCĐ trực
tiếp về PCBLGĐ
Biểu đồ 3.1. Kênh thông tin về phòng chống bạo lực gia đình người dân xã Sóc
Đăng được tiếp cận
7
82
84
86
87
89
90
94
Biểu đồ 3.2. Mức độ cần thiết của các hình thức GDCĐ trong PCBLGĐ đối với
phụ nữ tại xã Sóc Đăng
Biểu đồ 3.3. Hiệu quả GDCĐ qua các kênh truyền thông trong PCBLGĐ đối với
phụ nữ tại xã Sóc Đăng
Biểu đồ 3.4. Hiệu quả của GDCĐ trực tiếp trong PCBLGĐ đối với phụ nữ tại xã
Sóc Đăng
Biểu đồ 3.5. Mức độ hài lòng của người dân khi tham gia GDCĐ trong PCBLGĐ
với phụ nữ tại xã Sóc Đăng
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một vấn đề toàn cầu và xã Sóc
Đăng, huyện Đoan Hùng, Phú Thọ không phải là ngoại lệ bởi nó xảy ra hàng
ngày trong cuộc sống của nhiều người phụ nữ. Vấn đề này gây ảnh hưởng và
hậu quả rất lớn, nguy hại đến sức khỏe, tinh thần, vật chất và hạnh phúc của
mỗi gia đình.
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra các khía cạnh của thực trạng công tác giáo
dục cộng đồng về PCBLGĐ đối với phụ nữ tại xã Sóc Đăng. (1) Về hình
thức: Chưa linh hoạt giữa hình thức các kênh thông tin truyền thông: Tivi;
báo, đài; sách tài liệu; phát tờ rơi; loa phóng thanh,… và các hình thức giáo
dục cộng đồng trực tiếp: tập huấn, tọa đàm, họp dân, các hoạt động văn hóa,
văn nghệ quần chúng (ca nhạc, kịch)…. (2) Về nội dung: Chưa đa dạng,
phong phú, mới chỉ tập trung thông tin về bạo lực gia đình và các văn bản luật
pháp liên quan đến bạo lực gia đình và phòng chống bạo lực gia đình chứ
chưa cung cấp cho người dân các kỹ năng xử lý, ứng xử khi xảy ra bạo lực.
(3) Về đối tượng hướng tới: Mới chỉ tập trung vào đối tượng phụ nữ (những
người hay bị bạo hành) trong khi đối tượng nam giới (người đàn ông, người
8
96
97
98
99
chồng trong gia đình) những người có nguy cơ hành vi cao gây ra bạo lực gia
đình thì chưa được hướng tới. (4) Về sự tham gia của người dân: Công tác
giáo dục cộng đồng về phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại xã
Sóc Đăng chưa thu hút sự tham gia chủ động và tích cực của người dân.
Từ những phát hiện trên, nghiên cứu đưa ra những khuyến nghị nhằm
nâng cao chất lượng công tác GDCĐ trong PCBLGĐ đối với phụ nữ tại xã
Sóc Đăng, góp phần tăng cường sự tham gia của người dân trong quá trình ra
quyết định những vấn đề về bạo lực gia đình, đồng thời nâng cao kiến thức
cho người dân tại xã Sóc Đăng: kiến thức luật pháp về PCBLGĐ; kiến thức
về hôn nhân và gia đình; kỹ năng ứng xử khi xảy ra BLGĐ;…
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bạo lực gia đình nói chung và bạo lực gia đình đối với phụ nữ nói riêng
đã và đang trở thành hiện tượng có tính phổ biến trong mọi tầng lớp dân cư và
xảy ra ở mọi quốc gia trong đó có Việt Nam.
Theo báo cáo của Bộ Công an năm 2005, 14% các trường hợp giết
người liên quan đến bạo lực gia đình. 1,011 bệnh nhân đã có dấu hiệu tự tử
vì bạo lực gia đình (Bộ Y tế, 2005). Bằng chứng cho thấy tỷ lệ bạo lực gia
đình đã tăng lên trong những năm gần đây. Kết quả điều tra của Ủy ban về các
Vấn đề Xã Hội của Quốc hội tại 8 thành phố (2006) với 2.000 mẫu gồm người
dân, nạn nhân BLGĐ, người gây BLGĐ, cán bộ xã, cán bộ y tế, công an, phụ
nữ, tòa án nhân dân cấp huyện cho biết: 2,3% các gia đình có hành vi bạo lực
về thể chất (đánh đập), 25% số gia đình có hành vi bạo lực tinh thần và 30% số
cặp vợ chồng có hiện tượng ép buộc quan hệ tình dục. Điều tra gia đình Việt
Nam do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Thống kê, Viện Gia đình
và Giới, UNICEF thực hiện năm 2006 với 9.300 mẫu đưa ra kết quả: Có
khoảng 21,2% số cặp vợ/chồng xảy ra các hiện tượng bạo lực như: Đánh, mắng
9
chửi, chấp nhận quan hệ tình dục khi không có nhu cầu. Tỷ lệ cặp vợ chồng có
1 trong số các hiện tượng bạo lực kể trên (tức là đối với cả vợ và chồng) chiếm
khoảng 10,8%. Tỷ lệ cặp vợ chồng xảy ra 2 hiện tượng bạo lực vào khoảng
7,3%. Có 41,8% số cha/mẹ sử dụng hình thức “quát mắng” và 14% sử dụng
hình thức “đánh đòn” khi vị thành niên nam có hành vi mắc lỗi [15, tr23].
Nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Việt Nam
năm 2010 do Tổng cục Thống kê - Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tiến hành
với 4.838 mẫu là phụ nữ độ tuổi từ 18–60 trong cả nước, kết quả cho biết: Cứ
3 phụ nữ có gia đình hoặc đã từng có gia đình thì có 1người (khoảng 34%)
cho biết họ đã từng bị chồng mình bạo hành thể xác hoặc tình dục. Số phụ nữ
có hoặc từng có gia đình đang phải chịu một trong hai hình thức bạo lực này
chiếm 9%. Nếu xét đến cả 3 hình thức bạo lực: Thể xác, tình dục và tinh thần
trong đời sống vợ chồng, thì có 58 % số phụ nữ Việt Nam cho biết đã từng là
nạn nhân của ít nhất một hình thức bạo lực gia đình kể trên.[16]
Cũng theo nghiên cứu của Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm
Liên Hiệp quốc (UNODC) năm 2011 phụ nữ có thể là nạn nhân của 95% các
vụ bạo lực gia đình và các vụ bạo lực gia đình đối với phụ nữ thường được
gọi là “bạo lực trên cơ sở giới” vì nảy sinh một phần do địa vị giới còn thấp
của phụ nữ trong xã hội. Nhiều nghiên cứu của Việt Nam cũng chỉ ra số nạn
nhân bị bạo lực gia đình là phụ nữ cũng khá cao. Báo cáo Điều tra Đánh giá
Các Mục Tiêu Trẻ em và Phụ nữ (2006) đã chỉ ra rằng 64% phụ nữ trong độ
tuổi từ 15 đến 49 coi việc bị chồng đối xử bằng bạo lực là bình thường. Từ
một bài báo trong Der Spiegel, Ngôi nhà của bà Thủy (8/2009) thì tại một
bệnh viện ở Việt Nam, mỗi ngày có trung bình 5-6 phụ nữ nhập viện do hậu
quả của bạo lực gia đình. 50% các ca nhập viện là do chấn thương đầu; 40%
có viết thương khắp cơ thể; 15% bị bạo lực hơn 10 năm. Theo bà Nguyễn Thị
Thanh Hoà, ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch thường trực Hội
10
LHPNVN cho biết: “Phụ nữ hiện chiếm 50,8% dân số và 50,6% lực lượng
lao động của cả nước, họ đã có những đóng góp rất lớn cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc và phát triển đất nước. Tuy nhiên, một thực tế mà không chỉ có
phụ nữ Việt Nam phải đối mặt chính là thực trạng bạo lực trong gia đình.
Đây là vấn đề mang tính toàn cầu, làm tổn hại cả về thể chất và tinh thần của
rất nhiều phụ nữ và làm mất ổn định cuộc sống, hạnh phúc gia đình. Bạo lực
xảy ra thường xuyên với tầng số cao thường làm giảm sự tự chủ, tính sáng
tạo, gây ra những tổn thương tạm thời hoặc vĩnh viễn về thể chất và tinh thần
người bị hại. Những năm gần đây, bạo lực gia đình diễn ra với tính chất ngày
càng nghiêm trọng, có gia tăng nhanh chóng đối tượng vi phạm cũng như nạn
nhân ở khắp các vùng, miền trong cả nước” [7, tr.2]. Bạo lực trong gia đình
đối với phụ nữ không những làm tổn thương, tổn hại đến sức khoẻ, thể xác,
tinh thần của chính người phụ nữ mà còn ảnh hưởng đến cuộc sống của
những người xung quanh như trẻ em, người thân khác trong gia đình và gây
ra nhiều hậu quả cho xã hội. Bạo lực gia đình đối với phụ nữ có thể xuất phát
từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân bất bình đẳng giới, nhận thức
sai lệch về vị thế của phụ nữ và nam giới cũng như những can thiệp chưa đầy
đủ của các cơ quan chức năng.
Giáo dục cộng đồng là một trong những nội dung hoạt động chính của
phát triển cộng đồng – một phương pháp quan trọng của công tác xã hội và đã
được nhiều nước sử dụng như một công cụ quan trọng trong thay đổi nhận
thức từ đó thay đổi hành vi của người dân cộng đồng nhằm giải quyết những
vấn đề xã hội của cộng đồng như môi trường, bất bình đẳng, kỳ thị với nhóm
yếu thế, trong đó có bạo lực gia đình. Công tác xã hội như một nghề và những
phương pháp của công tác xã hội được ứng dụng vào thực tiễn giải quyết
những vấn đề xã hội ở Việt Nam mới thực sự được quan tâm trong những
năm gần đây. Quyết định 32/2010/QĐ-TTG của chính phủ về phát triển nghề
11
công tác xã hội được phê chuẩn vào 25/3/2010 là một minh chứng. Hiện nay
một số các chương trình như phát triển nông thôn, xóa đói gảm nghèo, dân số
sức khỏe, phòng, chống bạo lực… đã có ứng dụng công tác tuyên truyền phổ
biến nhằm hướng tới thay đổi nhận thức của người dân, cung cấp kiến thức
cho người dân nhằm nâng cao năng lực. Tuy nhiên, hình thức giáo dục cộng
đồng với ý nghĩa của nghề công tác xã hội chưa thực sự được phát triển và
ứng dụng rộng rãi. Những hình thức tuyên truyền phổ biến chưa thu hút sự
tham gia thực sự của người dân vào quá trình thay đổi. Nhiều cuộc tuyên
truyền về phòng, chống bạo lực gia đình đã được triển khai đặc biệt từ khi luật
phòng, chống bạo lực ra đời năm 2007, tuy nhiên kết qủa chưa được bền vững.
Xã Sóc Đăng, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ là một xã vùng ven, đời
sống kinh tế một bộ phận người dân còn khó khăn dẫn đến dễ nảy sinh nhiều
mâu thuẫn trong gia đình, các giá trị truyền thống trong gia đình chưa được
chú trọng. Chính vì vậy, tình trạng bạo lực gia đình đang là một trong những
vấn đề xã hội khá bức xúc ở xã Sóc Đăng. Bạo lực gia đình ở xã Sóc Đăng
được thể hiện ở nhiều dạng khác nhau: bạo lực về thể chất, bạo lực về tinh
thần, bạo lực về kinh tế, bạo lực về tình dục,…Trong những năm gần đây, bạo
lực gia đình tại địa bàn này đã và đang trở thành một trong những vấn đề xã
hội được chính quyền địa phương đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, do đặc điểm
là khu vực đông dân, trình độ dân trí còn thấp, tư tưởng của đại bộ phận người
dân vẫn còn ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo, quan niệm “trọng
nam khinh nữ” còn khá phổ biến, vấn đề này đã tác động không ít tới sự gia
tăng BLGĐ. Vì vậy, để nâng cao nhận thức của cộng đồng về bình đẳng giới,
về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ cần có những biện pháp can
thiệp phù hợp và bền vững hơn. Để góp phần hạn chế bạo lực gia đình đối với
phụ nữ một trong những biện pháp quan trọng đó là tăng cường công tác giáo
12
dục cộng đồng, giúp cộng đồng có nhận thức đúng đắn hơn về phòng chống
bạo lực gia đình.
Với ý nghĩa trên tác giả lựa chọn đề tài “Giáo dục cộng đồng trong
phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ (Nghiên cứu trường hợp tại
xã Sóc Đăng, huyện Đoan Hùng, Phú Thọ)” nhằm đánh giá thực trạng công
tác giáo dục cộng đồng tại địa phương trong công tác phòng, chống bạo lực
gia đình từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị giúp nâng cao nhận thức và thay
đổi hành vi của người dân trong cộng đồng liên quan tới phòng, chống bạo
lực gia đình với phụ nữ tại xã Sóc Đăng, huyện Đoan Hùng, Phú Thọ nói
riêng và Việt Nam nói chung.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Hiện nay, nhiều nghiên cứu quốc tế đã cho thấy bạo lực đối với phụ nữ
trong gia đình là hệ thống có tính toàn cầu, tác động trong khoảng 20-50% số
phụ nữ trên thế giới (WHO, 1998).
Bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình đã trở thành một nội dung quan
trọng trong Tuyên bố hành động của Hội phụ nữ thế giới lần thứ IV tại Bắc
Kinh năm 1995 và trong các văn bản của tổ chức Liên hiệp quốc.
Từ ngày 4 – 6/12/2001, tại Phnômpênh Campuchia đã diễn ra Hội nghị
về luật pháp phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình ở vùng tiểu
Mêkông, Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam. Hội nghị đã thống nhất trên
một số quan điểm rằng: Bạo lực gia đình không phải là chuyện riêng của gia
đình và phụ nữ đang bị coi là phụ thuộc vào nam giới trên phạm vi toàn cầu.
Hiện nay có nhiều nước, đặc biệt là ở Châu Á có những phong tục, văn
hoá, tôn giáo tạo điều kiện cho vấn đề bất bình đẳng nam, nữ và khuyến khích
bạo lực gia đình kể cả một số Chính Phủ, cảnh sát chưa có hoạt động tích cực
ngăn chặn bạo lực gia đình vì coi đấy là chuyện riêng của gia đình họ.
13
Bạo lực gia đình trong bối cảnh văn hóa Việt Nam thường được hiểu là
bạo lực trong gia đình, chủ yếu là do chồng hoặc một thành viên trong gia
đình bạo hành vợ. Bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình tuy mới được phát
hiện và xem xét trong vài thập kỉ gần đây song nghiên cứu của nhiều nước
trên thế giới đã chứng tỏ tính chất nghiêm trọng của tệ nạn này. Việc nghiên
cứu đã góp phần giúp cho các nhà hoạch định chính sách các thể chế xã hội ở
mỗi nước có biện pháp giải quyết tình trạng này.
Ở Việt Nam nghiên cứu về bạo lực gia đình muộn hơn so với các nước
trên thế giới. Vì vậy cần có các biện pháp can thiệp. Có một số công trình
nghiên cứu xung quanh vấn đề này như:
Năm 1994, Ts. Lê Thị Quý đã có bài viết “Bạo lực gia đình ở Việt Nam
hiện nay” đăng trên tạp chí Khoa học và phụ nữ. Bài viết đã tập trung phân
tích nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực giới trong gia đình như: Nguyên
nhân kinh tế, nguyên nhân văn hóa, nguyên nhân nhận thức,…
Lê Thị Quý (1996) trong cuốn “Nỗi đau thời đại” đã cho thấy các dạng
bạo lực giới trong gia đình biểu hiện rất đa dạng. Nhưng tựu chung lại, bạo
lực giới trong gia đình biểu hiện chủ yếu dưới hai dạng “Bạo lực không nhìn
thấy” và “bạo lực nhìn thấy” (hay còn gọi là bạo lực trực tiếp và bạo lực gián
tiếp). Dạng bạo lực không nhìn thấy xuất phát từ sự phân công lao động bất
hợp lý giữa nam và nữ trong gia đình núp dưới các khái niệm “thiên chức” và
“hi sinh” của phụ nữ. Vì thiên chức này mà nhiều phụ nữ chỉ là cái bóng của
chồng con, phụ thuộc vào chồng con, không bộc lộ và phát huy nội lực cũng
như khẳng định mình. Rất nhiều phụ nữ đã không chỉ bị đánh đập, ngược đãi
mà còn là nạn nhân của “Bạo lực không nhìn thấy”. Đây là một phát hiện về
các dạng bạo lực trong gia đình mà đến nay nhiều nhà nghiên cứu, các nhà
hoạt động xã hội đã sử dụng.
14
Vũ Mạnh Lợi, Vũ Tuấn Huy, Nguyễn Hữu Minh (1999) đã có công
trình nghiên cứu “Bạo lực trên cơ sở giới”. Nghiên cứu này, được tiến hành ở
ba tỉnh: thành phố Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh, các tác giả đã đi
sâu xem xét thái độ của cộng đồng và các thể chế xã hội về bạo lực trên cơ sở
giới cũng như các phản ứng của cá nhân, luật pháp và các thể chế đối với nạn
nhân bạo lực gia đình. Nghiên cứu cũng đưa ra nhận xét tình trạng bạo lực gia
đình có chiều hướng tăng. Nghiên cứu đưa ra 8 nguyên nhân dẫn đến bạo lực
gia đình và 7 kiến nghị nhằm hạn chế, ngăn chặn tình trạng bạo lực gia đình.
Năm 2001, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện đề tài “Bạo lực
gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam”. Đề tài đã phân tích những hậu quả
nghiêm trọng của nạn bạo lực giới trong gia đình đối với phụ nữ và phản ứng
của nạn nhân bị bạo lực trước những hành vi đó.
Vũ Tuấn Huy (2003) trong nghiên cứu “Mâu thuẫn vợ chồng trong gia
đình và những yếu tố ảnh hưởng” đã chỉ ra mâu thuẫn giữa vợ và chồng trong
gia đình là một hiện tượng phổ biến. Tác giả tìm ra sự khác nhau giữa mâu
thuẫn và bạo lực trong gia đình “Mâu thuẫn và xung đột mang tính bạo lực là
khác nhau”. Không phải mâu thuẫn nào trong hôn nhân cũng trở thành xung
đột mang tính bạo lực. Tác giả cho rằng nguyên nhân chính của bạo lực gia
đình trong nhiều trường hợp cũng là nguyên nhân của mâu thuẫn giữa vợ và
chồng. Bản thân của hành vi bạo lực cũng là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn
vợ chồng trầm trọng hơn. Theo tác giả, đặc điểm học vấn và nghề nghiệp
khác nhau giữa các gia đình có thể dẫn đến hình thức bạo lực khác nhau khi
vợ chồng có mâu thuẫn.
Hoàng Bá Thịnh (2005) trong nghiên cứu “Bạo lực giới trong gia đình
Việt Nam và vai trò của truyền thông đại chúng trong sự nghiệp phát triển
phụ nữ” đã tổng hợp những bài viết của nhiều tác giả về vấn đề quan điểm
giải pháp bạo lực giới trong gia đình Việt Nam, xã hội hoá tại cộng đồng, vấn
15
đề chống bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình.... Trong nghiên cứu của mình
tác giả cũng đã đề cập đến một phần của vấn đề giáo dục cộng đồng trong
phòng, chống bạo lực gia đình đó là vai trò của truyền thông đại chúng trong
sự nghiệp phát triển phụ nữ.
Trong Báo cáo của các tổ chức phi Chính phủ Việt Nam về thực hiện
Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
(CEDAW) của Mạng giới và phát triển (GENCOMNET) (2006) Công ước đó
đã đưa ra chương trình đầu tiên đề cập đến bạo lực trong gia đình và phân tích
một số thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trước vấn nạn này trong thời
gian sắp tới.
Lê Thị Quý, Đặng Vũ Cảnh Linh (2007) đã phát hành cuốn sách “Bạo
lực gia đình - một sự sai lệch giá trị”. Đây là kết quả của công trình nghiên
cứu thực tiễn tại ba tỉnh: Thái Bình, Phú Thọ và Thành phố Hà Nội. Cuốn
sách đã trình bày những vấn đề lý luận và phương pháp luận về bạo lực giới
trong gia đình, tập trung nghiên cứu tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ
ở Việt Nam hiện nay, những nguyên nhân và hậu quả của bạo lực gia đình.
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả cũng đã chỉ ra rằng bạo lực gia đình là
một sự lệch chuẩn về mặt đạo đức xã hội, về những giá trị của thời đại mà
chúng ta đang đề cao đồng thời cũng đề cập tới một số cách thức để thay đổi
nhận thức về phòng, chống bạo lực gia đình của người dân.
Trần Thị Vân Anh- Nguyễn Hữu Minh (2008) trong nghiên cứu “Bình
đẳng giới ở Việt Nam” đã góp phần nghiên cứu về vấn đề bạo lực gia đình ở
Việt Nam dưới góc độ giới, đồng thời dành hẳn một chương để đưa ra những
quan niệm chung nhất về bạo lực gia đình và làm rõ các yếu tố tác động đến
hành vi bạo lực.
Nguyễn Hữu Minh, Trần Thị Vân Anh, Đặng Bích Thuỷ (2009) trong
nghiên cứu “Bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam: Thực trạng, diễn
16
tiến và nguyên nhân” đã chỉ ra những vấn đề nhận diện bạo lực gia đình và cơ
sở pháp lý phòng chống bạo lực gia đình, mức độ phổ biến của bạo lực gia
đình và các yếu tố ảnh hưởng- phân tích số liệu định lượng, thực trạng bạo lực
gia đình, hậu quả và môi trường nảy sinh bạo lực gia đình, các yếu tố thúc đẩy
và hạn chế các hành vi bạo lực.
Trong nghiên cứu “Các giải pháp hạn chế bạo lực gia đình đối với phụ
nữ và trẻ em” TS. Bùi Thị Xuân Mai (2009) cùng các cộng sự đã nghiên cứu,
đề xuất các giải pháp khả thi để hạn chế bạo lực gia đình với phụ nữ và trẻ em
hiện nay ở Việt Nam, trong đó có công tác truyền thông, giáo dục cộng đồng
được xem như một giải pháp quan trọng.
Năm 2009-2010, lần đầu tiên ở Việt Nam có một nghiên cứu khá quy
mô tại chín tỉnh của cả ba miền Bắc- Trung- Nam về phòng chống bạo lực gia
đình từ góc độ cảnh sát và cán bộ tư pháp. Nghiên cứu này do ba tổ chức
tham gia là Trung tâm Nghiên cứu Giới và Phát triển (RCGAD), Tổng cục
Thống kê và Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam với sự trợ giúp của Liên hợp
quốc (UNODC), Bộ Công an và tổ chức nghiên cứu Phần Lan (HEUNI). Báo
cáo kết quả nghiên cứu đã nêu rõ tình trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam và
mức độ phòng chống của các cơ quan chức năng như cảnh sát và pháp lý,
những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế của hai lực lượng này
trong công tác phòng chống bạo lực gia đình sẽ là các bài học trong tương lai.
[9, Tr.27]
Nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại Việt Nam
năm 2010 thu thập thông tin chi tiết về tỷ lệ bạo lực, tần suất, những yếu tố
nguy cơ và hậu quả của bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Đây là nghiên cứu
đầu tiên trên phạm vi toàn quốc cũng như 6 vùng kinh tế xã hội. Ngoài ra
nghiên cứu còn đánh giá các chiến lược đối phó, nhận thức về bạo lực gia
đình đối với phụ nữ và kiến thức của phụ nữ về quyền pháp lý của họ. Kết
17
quả của nghiên cứu này tạo điều kiện cho các cơ quan Chính phủ và các tổ
chức xã hội dân sự nâng cao nhận thức và xây dựng những chính sách và
chương trình nhằm ngăn ngừa và giải quyết vấn đề về bạo lực gia đình đối với
phụ nữ một cách hiệu quả hơn.
Hoàng Hồng Hạnh và cộng sự (2012) với đề tài khoa học cấp Bộ “Bạo
lực gia đình dưới góc độ tiếp cận văn hóa học” đã nêu ra được thực trạng bạo
lực gia đình cùng với những nguyên nhân chủ quan, khách quan và tác động,
ảnh hưởng đối với gia đình Việt Nam. Nhóm tác giả đưa ra các nhóm giải
pháp nhằm góp phần phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam: Nhóm giải
pháp nâng cao nhận thức của cá nhân và cộng đồng về gia đình và bạo lực gia
đình; Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về phòng
chống bạo lực gia đình; Nhóm giải pháp văn hóa giáo dục; Nhóm giải pháp
kinh tế; Nhóm giải pháp tình huống. Ở mỗi nhóm giải pháp đều xác định các
nội dung cụ thể nhằm tăng cường hiệu quả công tác phòng, chống bạo lực gia
đình ở cá nhân, gia đình và xã hội. Sự phối hợp đồng bộ giữa các nhóm giải
pháp là một yêu cầu hóa giải các yếu tố có thể trở thành nguyên nhân bạo lực
gia đình. Trong các nhóm giải pháp, nhóm giải pháp yêu cầu xây dựng văn
hóa gia đình có vai trò động lực, nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
quản lý nhà nước về phòng chống bạo lực gia đình giữ vai trò then chốt.
Về tình hình bạo lực gia đình ở Việt Nam, Ts. Trịnh Thị Hoài ĐứcGiám đốc trung tâm sức khỏe phụ nữ và gia đình khẳng định:”Ở Việt Nam,
bạo lực gia đình không phải là chủ đề mới, mà đã có từ lâu trong lịch sử.
Nguyên nhân sâu xa của bạo lực gia đình ở Việt Nam là do tàn dư của nền
văn hóa phong kiến, của chế độ phụ hệ, tư tưởng trọng nam, khinh nữ của
nho giáo từ lâu đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân. Người đàn ông luôn
cho rằng mình ở vị trí cao hơn phụ nữ, có quyền đối với phụ nữ. Chính nền
văn hóa phong kiến đã khuyến khích người phụ nữ thừa nhận tự nguyện về
18
quyền hành của nam giới và địa vị phụ thuộc của người vợ vào người chồng
trong gia đình, từ đó chấp nhận những hành vi bạo lực của nam giới”. [15]
Như vậy, có thể thấy vấn đề bạo lực trong gia đình đã được nhiều nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu. Những số liệu chính thức về bạo lực gia đình,
dù hạn chế, song đã cung cấp những bằng chứng về mức độ nghiêm trọng của
bạo lực mà người phụ nữ phải trải qua trong cuộc sống gia đình. Tuy nhiên,
những nghiên cứu về giáo dục cộng đồng như là một phương pháp của công
tác xã hội, một kỹ thuật của phát triển cộng đồng còn chưa nhiều, chưa mang
tính chất hệ thống. Trong quá trình thực hiện đề tài này tác giả đã tiếp thu
được rất nhiều luận điểm cho đề tài của mình. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy ở
mỗi công trình nghiên cứu trên vẫn còn một số vấn đề chưa được đề cập hoặc
đề cập chưa sâu, đặc biệt là vấn đề giáo dục cộng đồng trong phòng, chống
bạo lực gia đình với phụ nữ.
3. Ý nghĩa của nghiên cứu
3.1. Về mặt lý luận
Hệ thống hóa và bổ sung những lý luận về bạo lực gia đình, phương
pháp giáo dục cộng đồng như một công cụ quan trọng của phát triển cộng
đồng trong nghề công tác xã hội. Trên cơ sở đó đưa ra khuyến nghị về giải
pháp công tác giáo dục cộng đồng, thúc đẩy nghề công tác xã hội ở Việt Nam
góp phần phòng, chống bạo lực gia đình ở địa phương.
3.2. Về mặt thực tiễn
Nghiên cứu chỉ ra thực trạng bạo lực gia đình và hoạt động giáo dục
cộng đồng trong thực tiễn ở xã Sóc Đăng, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, từ
đó đưa ra những khuyến nghị về biện pháp thúc đẩy công tác giáo dục cộng
đồng nhằm hạn chế bạo lực gia đình với phụ nữ tại địa bàn nghiên cứu.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
19
Đánh giá thực trạng hoạt động giáo dục cộng đồng về phòng, chống
bạo lực gia đình tại xã Sóc Đăng, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ từ đó đưa
ra những khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng giáo dục cộng đồng góp
phần vào phòng, chống bạo lực gia đình ở địa phương.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận về bạo lực gia đình, phương pháp giáo dục cộng
đồng trong phát trển cộng đồng của nghề công tác xã hội.
Đánh giá thực trạng các hoạt động giáo dục cộng đồng của địa phương
như hình thức, nội dung, đối tượng hướng tới và sự tham gia của người dân.
Đưa ra khuyến nghị nhằm nâng cao hiểu biết về phòng, chống bạo lực
gia đình cho cán bộ và người dân tại xã Sóc Đăng, huyện Đoan Hùng, Phú
Thọ góp phần thúc đẩy công tác giáo dục cộng đồng nhằm hạn chế bạo lực
gia đình với phụ nữ tại địa bàn nghiên cứu.
5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động GDCĐ trong phòng, chống bạo lực gia đình với phụ nữ.
5.2. Khách thể nghiên cứu
Phụ nữ có gia đình đã từng bị bạo lực gia đình, từ 18 tuổi trở lên.
Cán bộ ở địa phương (Chính quyền địa phương; Các tổ chức đoàn thể: hội
nông dân, hội phụ nữ, đoàn thanh niên...; Các cơ quan chức năng: y tế, giáo dục,
công an…)
Người dân ở địa bàn nghiên cứu (bao gồm cả nam giới và nữ giới)
6. Giả thuyết nghiên cứu
Giáo dục cộng đồng trong phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
tại xã Sóc Đăng, huyện Đoan Hùng, Phú Thọ đang diễn ra hết sức đa dạng và
phong phú về cả hình thức và nội dung.
20
- Xem thêm -