Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giám sát của mặt trận tổ quốc việt nam đối với các cơ quan hành chính nhà nước t...

Tài liệu Giám sát của mặt trận tổ quốc việt nam đối với các cơ quan hành chính nhà nước từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

.DOCX
85
63
59

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN XUÂN HIỂN GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH UẬN V N TH C S UẬT HỌC HÀ NỘI - 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN XUÂN HIỂN GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: uật Hiến pháp và luật hành chính Mã số: 60 38 01 02 UẬN V N TH C S UẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS-TS ĐINH NGỌC VƢỢNG HÀ NỘI - 2017 ỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn trong luận văn dựa trên số liệu bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả Nguyễn Xuân Hiển MỤC ỤC MỞ ĐẦU......................................................................................................................1 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ Ý UẬN VỀ GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC ..9 1.1. Khái niệm, tính chất, mục đích và nguyên tắc giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam..................................................................................................... 9 1.2. Đối tượng, nội dung, phạm vi và hình thức giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam............................................................................................................ 20 1.3. Quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động giám sát.............................................................................................................. 31 Chƣơng 2 THỰC TR NG VỀ GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...................................................... 35 2.1. Thực trạng về quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động giám sát cơ quan hành chính Nhà nước...........................................35 2.2. Thực trạng về quyền và trách nhiệm của cơ quan hành chính Nhà nước trong việc phối hợp giám sát............................................................................. 48 2.3. Nguyên nhân của kết quả đạt được và những tồn tại hạn chế...................50 Chƣơng 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT HUY VAI TRÒ GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC.............................................................................................. 58 3.1. Sự cần thiết phải phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với các cơ quan hành chính Nhà nước...............................................58 3.2. Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với các cơ quan hành chính Nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh..........62 KẾT UẬN...................................................................................................... 73 DANH MỤC TÀI IỆU THAM KHẢO.................................................................75 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CT-XH Chính trị - xã hội GSĐTCCĐ Giám sát đầu tư của cộng đồng HĐND Hội đồng nhân dân MTTQ Mặt trận Tổ quốc MTTQVN TP Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố NXB Nhà xuất bản TTND Thanh tra nhân dân TP Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh UBTVQH Ủy ban Thường vụ Quốc hội VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật XHCN Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tại Điều 9 của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 đã khẳng định vai trò, địa vị của MTTQVN trong hệ thống chính trị của nước ta. Theo quy định của Hiến pháp, MTTQVN là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức CT-XH, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. MTTQVN là cơ sở chính trị của chính quyền Nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại Nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quyền giám sát, phản biện của người dân được thể hiện ở Hiến pháp năm 2013: người dân có quyền giám sát các cơ quan công quyền, giám sát cán bộ, công chức, viên chức, các đại biểu dân cử; giám sát việc giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn; giám sát thực hiện quy chế dân chủ cơ sở... thông qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức CTXH. Trong đó MTTQ được xem như là cầu nối giữa Đảng, chính quyền với nhân dân, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân, đồng thời cũng là nơi tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện các quyền cơ bản của công dân, được Hiến pháp quy định, nhất là quyền giám sát, phản biện. Một số chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước nhất là ở cơ sở chưa được tổ chức, thực hiện tốt, trong khi đó người dân chưa quan tâm giám sát, kiến nghị. Ngoại trừ trường hợp bị vi phạm quyền và lợi ích của bản thân, gia đình thì họ mới kiến nghị, khiếu nại đến các cơ quan Nhà nước yêu cầu giải quyết. Vấn đề quan trọng là nhận thức của phần lớn người dân. Có nhiều người chưa hiểu được mình có các quyền, trong đó có quyền giám sát, kiểm tra, kiến nghị, phản biện. Trong khi đó, chính quyền và cấp ủy địa phương cũng chưa thực sự quan tâm tới việc tuyên truyền giải thích cho người dân để họ biết có các quyền này. Bên 1 cạnh đó cũng có một số người dân biết mình có các quyền này nhưng lại không dám giám sát, không dám kiến nghị vì sợ va chạm, sợ bị trù dập. Tuy nhiên cũng có người muốn đóng góp, kiến nghị nhưng không biết kiến nghị ở đâu, có cơ quan nào giải quyết kiến nghị của mình hay không. Thực tế cho thấy, thời gian qua Mặt trận Tổ quốc các cấp thực hiện giám sát phản biện ở một số lĩnh vực nhưng hiệu quả cũng chưa đạt yêu cầu, cụ thể chỉ giám sát các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức, đại biểu dân cử trong việc thực thi chính sách pháp luật địa phương; giám sát việc giữ gìn phẩm chất đạo đức lối sống của cán bộ công chức, đại biểu dân cử...Còn việc giám sát các lĩnh vực nhạy cảm như quản lý đất đai, quản lý các dự án đầu tư, tài chính...hoặc giám sát việc kê khai tài sản, nhà đất, thu nhập cá nhân thì vô cùng khó khăn. Đối với Mặt trận Tổ quốc còn gặp khó như vậy thì người dân thực hiện quyền giám sát, phản biện còn khó biết chừng nào... Nhưng việc để người dân thực hiện quyền giám sát phản biện là một trong những điều kiện tiên quyết làm trong sạch đội ngũ cán bộ công bộc, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân do dân và vì dân. Việc đầu tiên cần phải làm là thay đổi nhận thức của cấp ủy, chính quyền, các ngành các cấp về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc nhất là cấp cơ sở. Cấp ủy cần quan tâm hơn nữa trong việc lãnh đạo. Chính quyền tích cực phối hợp tạo điều kiện cho Mặt trận hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, nâng cao vị trí, vai trò địa vị pháp lý trong hệ thống chính trị, từ đó Mặt trận Tổ quốc thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền cho người dân hiểu và thực hiện tốt các quyền cơ bản của mình, trong đó có quyền được giám sát. Chính quyền địa phương các cấp phải thực sự tôn trọng lắng nghe và giải quyết các ý kiến, kiến nghị của người dân và công khai cho người dân biết kết quả giải quyết các kiến nghị đó. Để người dân thực hiện tốt quyền giám sát, phản biện, Nhà nước cần sớm ban hành cơ chế để Mặt trận Tổ quốc nói chung và nhân dân nói riêng thực hiện quyền giám sát phản biện. Bên cạnh đó, cũng cần có cơ chế bảo vệ những người dám giám sát, kiến nghị đấu tranh. Như vậy mới khuyến khích được người dân, để người dân an tâm giám sát, kiến nghị xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền ngày một hoàn thiện hơn. Đảng và Nhà nước mong muốn Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Muốn thực hiện được chức năng đó có hiệu quả thiết thực, cần phải có cơ chế, tổ chức hệ thống Mặt trận Tổ quốc hợp lý, chặt chẽ và có chế độ đãi ngộ phù hợp để khuyến khích người làm. Cụ thể là: Mỗi khu phố có 1 Chi bộ, 1 Ban công tác Mặt trận, tập hợp các tổ chức: Tổ dân phố, Chi hội Người cao tuổi, Chi hội Cựu chiến binh, Chi hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên. Không nên để nhiều chi bộ lãnh đạo một Ban công tác Mặt trận; Chi uỷ giới thiệu người để nhân dân khu phố bầu vào chức Trưởng ban công tác Mặt trận khu phố. Người giữ chức vụ này cũng được hưởng phụ cấp hàng tháng. Nhà nước cũng cần có quy định về chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn, quyền lợi của chức danh Trưởng ban công tác Mặt trận khu phố. Hội nghị Trung ương 10 (khóa XI) diễn ra vào tháng 01 năm 2015 đã tổng kết 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Hội nghị khẳng định đất nước ta đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực và dần thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Trong bối cảnh và xu thế phát triển đó chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng là bước thay đổi mới trong tư duy chính trị của Đảng. Với sự thay đổi này, Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển mới về chất, đây là một nhà nước dân chủ và là một nền dân chủ kiểu mới. Trong quá trình đổi mới, với xu thế hội nhập Việt Nam rất cần sự cải cách, sự thay đổi về tư duy, nhận thức dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cửa quyền, khắc phục những bất hợp lý trong hệ thống chính quyền các cấp. Để làm được điều đó cần có sự chung tay, góp sức của các tầng lớp trí thức, các chuyên gia và mọi tầng lớp nhân dân. Vì vậy, giám sát và phản biện xã hội là một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm khơi dậy tính dân chủ, công khai, minh bạch đặc biệt trong bối cảnh hiện nay của nước ta về thể chế chính trị chỉ có một đảng duy nhất cầm quyền. Xuất phát từ những lý do trên tác giả đã chọn đề tài: “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với các cơ quan hành chính Nhà nước từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình với hy vọng sẽ góp một phần công sức nhằm hoàn thiện VBQPPL điều chỉnh về vai trò của MTTQVN trong việc thực hiện chức năng giám sát của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Các công trình nghiên cứu về MTTQVN bắt đầu được chú trọng kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991). Đáng chú ý trong các đề tài nghiên cứu về Mặt trận gần đây là đề tài KX.10.03: “Mô hình đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của MTTQVN và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị giai đoạn 2010 - 2015” do Tiến sĩ Thang Văn Phúc (Bộ Nội Vụ) làm chủ nhiệm nghiệm thu vào tháng 8/2009. Về giám sát của nhân dân đối với cơ quan nhà nước được đề cập nhiều trong các công trình và diễn đàn khoa học, trên các sách, báo, tạp chí và được phổ biến khá rộng rãi trong xã hội. Những nghiên cứu sớm nhất là các tham luận tại Hội thảo về giám sát của MTTQVN năm 1997. Từ sau năm 2000, một số công trình tiêu biểu phải kể đến là: - Đề tài nghiên cứu khoa học KX.10 – 07 (2006): “Xây dựng cơ chế pháp lý đảm bảo sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước và các thiết chế tổ chức trong hệ thống chính trị” (do Giáo sư – Tiến sĩ khoa học Đào Trí Úc làm chủ nhiệm) ; Đề tài khoa học cấp Bộ (2006): “Vấn đề nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở nước ta hiện nay” (do TS Đặng Đình Tân – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm). - Sách chuyên khảo: “Tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của một số nước trên thế giới”, sách tham khảo (2001) Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước của Đào Trí Úc và Võ Khánh Vinh (đồng chủ biên) (2003), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; “Sự hạn chế quyền lực Nhà nước” của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (2005), “Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên (2010). - Luận án Tiến sĩ và luận văn Thạc sĩ: Luận án Tiến sĩ Chính trị học: “Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của MTTQVN hiện nay”, của Nguyễn Thọ Ánh (2010); Luận văn Thạc sĩ Luật: Luận văn Thạc sĩ Chính trị học: “Thực hiện chức năng giám sát của MTTQVN đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Văn Thanh (2003); Bên cạnh đó có một số bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như: “Quan niệm về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước và các cơ chế thực hiện giám sát” của GS.TSKH Đào Trí Úc, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2003; “Về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước” của PGS.TS Võ Khánh Vinh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2003; “Giám sát xã hội và phản biện xã hội” của TS Hoàng Thị Ngân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 9(269)/2010; “Tăng cường hoạt động giám sát của MTTQVN Việt Nam, của các đoàn thể nhân dân và nhân dân đối với Bộ máy nhà nước” của PGS.TS Bùi Xuân Đức, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 03/2004; “Phát huy vai trò của MTTQVN vận động nhân dân thực hiện giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” của Trần Thanh Bình, Tạp chí Nhà nước số 9/2003; “Phát huy vai trò của MTTQVN trong việc thực hiện giám sát đối với cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư" của Đỗ Huy Thường, Tạp chí Mặt trận, số 22; “Thiếu một cơ chế giám sát hoàn thiện” của Nguyễn Khanh, Báo Pháp luật số 222 ngày 16/9/2005; “Cần tăng cường hơn nữa sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với việc phòng chống quan liêu, tham nhũng hiện nay” của Bùi Thành Phần, Tạp chí Dân vận số 01/2005; “Lênin nói về kiểm tra giám sát để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch” của Lê Trọng Hanh, Tạp chí Tư tưởng văn hoá, số 4/2005; “Tăng cường hoạt động giám sát của MTTQVN đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức” của GS Lưu Văn Đạt, Tạp chí Mặt trận số 31/2006; “Suy nghĩ về mục đích giám sát của MTTQVN đối với quyền lực nhà nước ở nước ta” của Nguyễn Văn Thanh, Tạp chí Mặt trận, số 37/2006… Nhìn chung các công trình, đề tài, bài viết nêu trên đều đề cập đến vấn đề giám sát xã hội, giám sát của nhân dân, hoạt động giám sát của MTTQVN, các đoàn thể nhân dân đối với Đảng và Bộ máy Nhà nước. Nhưng chưa có công trình nào đề cập chuyên sâu, có hệ thống về giám sát của MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát đó. Tiếp thu những kết quả nghiên cứu trên, luận văn này cũng phát triển trên cơ sở kế thừa các công trình đi trước ở một số vấn đề, chẳng hạn phát triển trên cơ sở kế thừa những công trình trước tập trung nghiên cứu giám sát của MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay đặc biệt là đối với các cơ quan hành chính Nhà nước. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 . Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn giám sát của MTTQVN TP Hồ Chí Minh đối với các cơ quan hành chính Nhà nước; trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của MTTQVN TP Hồ Chí Minh đối với các cơ quan hành chính Nhà nước. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau: Một là, nghiên cứu làm rõ khái niệm, nội dung, vai trò giám sát của MTTQVN đối với các cơ quan hành chính Nhà nước. Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh; làm rõ những hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết đối với các cơ quan hành chính Nhà nước. Ba là, đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của MTTQVN đối với các cơ quan hành chính Nhà nước. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các cơ quan hành chính nhà nước, là một phận cấu thành bộ máy nhà nước thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước, thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu việc giám sát của MTTQVN đối với các cơ quan hành chính Nhà nước nhằm vào các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước, thực hiện việc chấp hành và điều hành trên các lĩnh vực đời sống xã hội đối với phạm vi toàn địa bàn cấp tỉnh là Thành phố Hồ Chí Minh được nghiên cứu qua việc giám sát của Ban TTND và Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng giám sát của MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh tác giả luận chứng quan điểm, giải pháp để phát huy việc giám sát của MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm tới. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1 . Cơ sở lý luận Luận văn đã sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân cũng như tư tưởng của Người về sức mạnh của nhân dân trong khối đại đoàn kết dân tộc; bên cạnh đó tác giả cũng bám sát vào chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm bảo đảm tính khoa học của đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài luận văn tác giả đã dùng các phương pháp tổng hợp, phân tích, xã hội hội cụ thể và phương pháp luật học so sánh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc đổi mới nhận thức về vai trò và phương thức hoạt động của MTTQVN Thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là hoạt động giám sát đối với các cơ quan hành chính Nhà nước, giám sát cộng đồng dân cư và giám sát đầu tư công của cộng đồng. Đồng thời luận văn có thể dùng làm nguồn tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, công tác giảng dạy, làm tài liệu cho cán bộ dân vận, cán bộ Mặt trận và các đoàn thể trong việc thực hiện hoạt động giám sát xã hội; tổng kết thực tiễn liên quan đến giám sát của nhân dân các mặt của đời sống xã hội và Nhà nước 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết. Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với các cơ quan hành chính Nhà nước. Chƣơng 2. Thực trạng về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với các cơ quan hành chính Nhà nước từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. Chƣơng 3. Một số giải pháp để phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với các cơ quan hành chính Nhà nước. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ Ý UẬN VỀ GIÁM SÁT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC 1.1. Khái niệm, tính chất, mục đích và nguyên tắc giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Trong hệ thống chính trị nước ta, theo quy định hiện hành thì Đảng, Nhà nước và Mặt trận đều có vai trò giám sát theo vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức. Nhân dân vừa có quyền giám sát trực tiếp vừa giám sát thông qua MTTQVN Việt Nam. Trước hết cần phải xem xét khái niệm giám sát. Theo từ điển luật học: "Giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã xác định từ trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh". Trong cuốn Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam (NXB Chính trị Quốc gia, trang 184) nêu khái niệm giám sát như sau: “Giám sát là theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá của cá nhân, tổ chức cộng đồng người đối với cá nhân, tổ chức, cộng đồng khác trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội, trong việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước, các quyền lợi, nghĩa vụ của công dân, của các tổ chức chính trị - xã hội và kiến nghị phát huy ưu điểm, thành tựu, xử lý đối với cá nhân, tổ chức có những hành vi sai trái ”. Qua thực tiễn hoạt động, giám sát của MTTQVN Việt Nam, các tổ chức CTXH và nhân dân được hiểu là việc xem xét, phát hiện, kiến nghị với cơ quan tổ chức Đảng, Nhà nước có thẩm quyền xem xét, xử lý. TS Hoàng Thị Ngân cho rằng, "“Giám sát” và “phản biện” là những khái niệm đã từng được cắt nghĩa dưới giác độ ngôn ngữ. Cùng với sự hiện diện trong các Từ điển tiếng Việt, giám sát còn có mặt trong các Từ điển giải thích thuật ngữ khoa học chuyên ngành và được chú ý với tính chất là một khái niệm mang tính pháp lý. Chẳng hạn như, theo Từ điển luật học, giám sát là sự theo dõi, quan sát mang tính chủ động thường xuyên của cơ quan, tổ chức hoặc nhân dân đối với hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát và tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng các hoạt động đó đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước, bảo đảm cho hiến pháp và pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh. “Giám sát xã hội” và “phản biện xã hội” là những cụm từ đã từng xuất hiện trên các ấn phẩm chính thức. Để đi đến nhận thức chung về hai thuật ngữ nói trên, cần khám phá nội dung và đặc trưng của giám sát xã hội và phản biện xã hội [39, tr.32]. Trong thực tiễn hoạt động, cần có sự phân biệt giữa giám sát với kiểm tra, thanh tra và kiểm sát, sự khác nhau đó được thể hiện ở quan hệ pháp lý, về đối tượng, chủ thể, phạm vi, phương pháp thực hiện và biện pháp xử lý. Ở nước ta, mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, đồng thời nhân dân còn thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua MTTQVN Việt Nam. Pháp luật ghi nhận quyền và trách nhiệm của Mặt trận và các tổ chức thành viên Mặt trận trong giám sát là thực hiện mở rộng nền dân chủ XHCN theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng. Mục đích giám sát của MTTQVN Việt Nam, các tổ chức CT-XH và nhân dân nhằm góp phần thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh, quốc phòng và đối ngoại; kiến nghị khắc phục những sai sót, yếu kém và sửa đổi, bổ sung những quy định không còn phù hợp; phát hiện những nhân tố mới, những mặt tích cực; phát huy dân chủ, động viên nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước. Hoạt động giám sát được thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm phát huy dân chủ, sự tham gia của Nhân dân, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng của Nhân dân; thực hiện công khai, minh bạch, không chồng chéo; không làm cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát. Trong hoạt động giám sát của MTTQVN phải bảo đảm những nguyên tắc về sự lãnh đạo của Đảng, đúng pháp luật, thực sự khách quan, mang tính xây dựng cùng hướng tới mục đích của giám sát là hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước và của Đảng, nhằm góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng và bảo vệ Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ việc đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát: "Các cấp uỷ, tổ chức đảng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng. Tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước; việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, chế độ công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ; việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp; việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, nhất là những vụ án nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận xã hội; kiểm tra, giám sát việc tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu tổ chức đảng, nhà nước, mặt trận và các đoàn thể nhân dân các cấp trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải phối hợp chặt chẽ với công tác thanh tra của Chính phủ, công tác giám sát của Quốc hội và các cơ quan hành pháp, tư pháp, MTTQVN và các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và thẩm quyền của mỗi cơ quan. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và hoạt động của hệ thống uỷ ban kiểm tra các cấp. Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa uỷ ban kiểm tra đảng với các tổ chức đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc xem xét khiếu nại, tố cáo và xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên". - Có thể khái quát đặc trưng của giám sát của MTTQVN như sau: Thứ nhất, giám sát của MTTQVN là hoạt động theo dõi, xem xét, phát hiện, đánh giá việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức Nhà nước. Thứ hai, giám sát của MTTQVN mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục. Thứ ba, nội dung, phương thức giám sát của Mặt trận; quyền và trách nhiệm của MTTQVN và các cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức Nhà nước trong giám sát được thực hiện theo quy định của pháp luật. Giám sát cùng với kiểm tra, thanh tra, kiểm sát là những hoạt động mang tính tất yếu khách quan của tất cả các Nhà nước ở mọi thời đại lịch sử; là một nhiệm vụ trong quá trình thực thi quyền lực chính trị nhằm làm cho các đối tượng của giám sát thực hiện đúng yêu cầu, mục đích, chức năng, mục tiêu đã đặt ra. Thuật ngữ giám sát hiện nay được dùng rất phổ biến trong khoa học chính trị, pháp lý và được đề cập nhiều trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước và các tổ chức CT-XH, tổ chức xã hội cũng như trong các mối quan hệ đời sống xã hội. Thuật ngữ giám sát có thể được sử dụng một cách riêng rẽ, độc lập như: “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước” (Điều 83 Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001); Hội Nông dân “giám sát việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở nông thôn” (Điều 19 Điều lệ Hội Nông dân Việt Nam); Ủy ban Thường vụ Quốc hội “giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân…” (Điều 91 Hiến pháp); Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam “kiểm tra, giám sát việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước có liên quan đến quyền lợi, đời sống của phụ nữ, tr em…” (Điều 2 Điều lệ của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam). Theo quan điểm của Học viện hành chính quốc gia: “Giám sát là sự tác động quyền lực nhằm chấn chỉnh những lệch lạc, trái pháp luật, sai trái mục tiêu của một hệ thống đối với một hệ thống khác nằm ngoài quan hệ trực thuộc theo chiều dọc” [27, tr.202]. Cùng với sự giải thích trong các Từ điển tiếng Việt, “giám sát” còn được các từ điển thuật ngữ chuyên ngành đề cập tới như là một khái niệm mang tính pháp lý. Cụ thể, theo Từ điển Luật học: "Giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục và sẵn sáng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã xác định từ trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh".[41, tr.292]. Đến nay, nhiều nhà khoa học cũng đưa ra khái niệm giám sát là một hoạt động quan sát một cách chủ động, thường xuyên, liên tục hoạt động của khách thể và sẵn sàng tác động để hướng các hoạt động của khách thể đi vào đúng quỹ đạo nhằm đạt mục tiêu đã được xác định. Trong cuốn tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam [13, tr.184] khái niệm giám sát được nêu như sau: “Giám sát là theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá của cá nhân, tổ chức cộng đồng người đối với cá nhân, tổ chức, cộng đồng khác trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế – xã hội, trong việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước, các quyền lợi, nghĩa vụ của công dân, của các tổ chức chính trị - xã hội và kiến nghị phát huy ưu điểm, thành tựu, xử lý đối với cá nhân, tổ chức có những hành vi sai trái”. Từ các định nghĩa và cách hiểu như trên, có thể chỉ ra một số đặc trưng của giám sát đó là: Thứ nhất, giám sát là hành vi của chủ thể biểu hiện qua theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá hoạt động của đối tượng giám sát. Thứ hai, mục đích của giám sát là xem xét, đánh giá việc làm, hoạt động của đối tượng giám sát có thực hiện đúng những điều quy định, những định hướng đã đặt ra hay không để cho phép kịp thời có những biện pháp xử lý nhằm khắc phục sai sót. Thứ ba, giám sát được tiến hành chủ động, thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình hoạt động của đối tượng giám sát. Thứ tư, sự tác động qua lại giữa chủ thể giám sát và đối tượng bị giám sát có mối quan hệ pháp lý, gắn quyền và trách nhiệm của mỗi bên. Khách thể giám sát mà các bên trong quan hệ giám sát cùng hướng tới là trạng thái hoạt động bình thường, thông suốt, đúng pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Chủ thể giám sát phải là “khách quan, bên ngoài” độc lập tương đối với đối tượng giám sát. Thứ năm, giám sát bảo đảm cho cán bộ, công chức, đảng viên luôn kiên định về lập trường chính trị, có trách nhiệm công vụ, phẩm chất cách mạng tốt đẹp, ngăn ngừa những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống và trong thực thi nhiệm vụ được giao. Thứ sáu, giám sát là công việc khó khăn, phức tạp đòi hỏi chủ thể giám sát phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có quyết tâm cao, có kiến thức chuyên môn và hiểu biết về luật pháp nhất định. Trong hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước, giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một khâu không thể thiếu, là một bộ phận không thể tách rời của quyền lực nhà nước, bởi lẽ: Một là, thông qua hoạt động giám sát, Nhà nước khẳng định được pháp luật đã ban hành có phản ánh đúng thực tiễn hay không, có tính khả thi hay không từ đó kịp thời bổ sung, sửa đổi hoặc huỷ bỏ những quy định của pháp luật không còn phù hợp với thực tiễn của xã hội nữa. Hai là, thông qua hoạt động giám sát, Nhà nước phát hiện được những cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật để xử lý, trừng phạt và như vậy pháp luật mới được xã hội tôn trọng, tuân theo. Từ sự phân tích trên, có thể rút ra một kết luận: Bất kỳ nhà nước nào, khi thực hiện quyền lực nhà nước, tức là khi lãnh đạo và quản lý xã hội để duy trì sự tồn tại của Nhà nước trong xã hội đó thì đều phải thực hiện quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật do Nhà nước đặt ra. Đây chính là tư tưởng kiểm soát quyền lực mà đã hình thành từ trong lịch sử tư tưởng của loài người, trong lịch sử tư tưởng chính trị phương Tây và và phương Đông. Từ tư tưởng của Hàn Phi Tử ở phương Đông đến tư tưởng kiểm soát quyền lực trong nền chính trị Aten cổ đại,từ tư tưởng của Aritxtốt đến J. Lốccơ, Môngtétxkiơ thời cận đại, từ di sản lý luận của C.Mác và Ph. ngghen đến tư tưởng Hồ Chí Minh thời hiện đại… đều thấy toát lên tư tưởng cần thiết phải kiểm soát quyền lực. Trong cộng đồng xã hội, con người liên kết lại với nhau theo cách ủy nhiệm một phần quyền lực của mình cho những người lãnh đạo, quản lý. Khi đó, quyền lực nhà nước trở thành cư ng chế đối với nhân dân. Nhưng mặt khác, quyền lực nhà nước là do nhân dân ủy thác, nên quyền đó phải được người dân giám sát để không đi quá giới hạn mà nó được phép [56, tr. 243]. Mỗi kiểu nhà nước lại có kiểu tổ chức và phân công quyền lực nhà nước khác nhau do đó có phương thức thực hiện giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật khác nhau. Trong Nhà nước tư sản có sự phân chia rạch ròi giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; trên cơ sở này, Nhà nước tư sản dùng các quyền đó để kiềm chế, đối trọng nhau. Sự đối trọng này chính là cơ chế “giám sát” của nhà nước tư sản. Bên cạnh đó, trong Nhà nước tư sản còn tồn tại chế độ đa nguyên, đa đảng, các đảng phái chính trị đóng vai trò to lớn trong việc giám sát hoạt động của Đảng cầm quyền, của các cơ quan nhà nước. Còn trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa với đặc điểm cơ chế quyền lực nhà nước tập quyền không tổ chức theo nguyên tắc “tam quyền phân lập” và với đặc điểm một Đảng duy nhất cầm quyền trong hệ thống chính trị nước ta, yếu tố “kềm chế” thay cho cơ chế đối trọng đã được xác lập: Các thiết chế chính trị và quyền lực của chúng ta đều tự đặt mình dưới sự giám sát của nhân dân [63, tr. 35]. Khẳng định mọi quyền lực là thuộc về nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc kiểm soát quyền lực trước hết là thuộc về nhân dân, đó là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của người dân. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 đã ghi rõ: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam” (Điều 1). Hiến pháp năm 1959 cũng xác định: “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân” (Điều 4) và “Tất cả các cơ quan Nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân” (Điều 6). Hiến pháp năm 1980 quy định: “Tất cả các cơ quan Nhà nước và nhân viên Nhà nước phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan