Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải thoát luận trong phật giáo nguyên thủy và chủ nghĩa hiện sinh của j.p. sart...

Tài liệu Giải thoát luận trong phật giáo nguyên thủy và chủ nghĩa hiện sinh của j.p. sartre những điểm tương đồng và khác biệt

.PDF
70
72
108

Mô tả:

Thứ nhất, giới thiệu một cách khái quát về sự ra đời của Phật giáo nguyên thủy, và giải thoát luận thể hiện qua quan niệm về con người và Tứ diệu đế trong Phật giáo nguyên thủy. Thứ hai, khái quát về sự hình thành của triết học hiện sinh của Jean Paul Sartre, từ đó, đưa ra những quan điểm về trong phương thức dẫn đến giải thoát cho con người trong triết học hiện sinh của ông. Thứ ba, tập trung so sánh giải thoát luận giữa hai học thuyết này nhằm tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt để rồi từ đó, đưa ra những nhận định, đánh giá về ý nghĩa, cũng như những ưu điểm và hạn chế của hai học thuyết trong quan niệm về sự giải thoát.
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC --------------------NGUYỄN DUY TUÂN GIẢI THOÁT LUẬN TRONG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VÀ CHỦ NGHĨA HIỆN SINH CỦA JEAN PAUL SARTRE: NHỮNG ĐIỂM TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH – 2015 – X HÀ NỘI – 2019 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC -------------------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP GIẢI THOÁT LUẬN TRONG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VÀ CHỦ NGHĨA HIỆN SINH CỦA JEAN PAUL SARTRE: NHỮNG ĐIỂM TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT Thuộc lĩnh vực: Lịch sử triết học Giảng viên hƣớng dẫn: GS. TS. Nguyễn Vũ Hảo Sinh viên nghiên cứu: Nguyễn Duy Tuân MSSV: 15031606 HÀ NỘI – 2019 LỜI CẢM ƠN Tôi xin trân trọng cảm ơn đến GS. TS. Nguyễn Vũ Hảo, người đã hướng dẫn tôi tận tình tôi hoàn thành nghiên cứu này. Tôi xin tri ân các thầy cô khoa Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã đồng hành cùng tôi trong suốt 4 năm học. Sinh viên Nguyễn Duy Tuân LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của GS. TS Nguyễn Vũ Hảo. Là kết quả nghiên cứu trực tiếp một số tác phẩm kinh điển của Phật giáo, các tác phẩm của Jean Paul Sartre cũng như các nghiên cứu của các học giả khác. Các tài liệu được nghiên cứu là trung thực, khách quan, có nguồn gốc rõ ràng. Sinh viên Nguyễn Duy Tuân MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 1.Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1 2.Tổng quan tình hình nghiên cứu...................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................ 4 4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu............................................... 5 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu .................................................... 5 6. Kết cấu của tác phẩm ....................................................................................... 5 CHƢƠNG 1: SỰ RA ĐỜI CỦA PHẬT GIÁO VÀ GIẢI THOÁT LUẬN TRONG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY .......................................................... 6 1.1. Sự ra đời của Phật giáo ở Ấn Độ .............................................................. 6 1.2. Giải thoát luận thể hiện qua quan niệm về con ngƣời và Tứ diệu đế trong Phật giáo nguyên thủy ............................................................................ 8 1.2.1.Quan niệm về bản chất con người trong Phật giáo nguyên thủy ........... 8 1.2.2.Tam Pháp Ấn: Vô ngã, Vô Thường, Niết Bàn – Những khái niệm nền tảng...... ..........................................................................................................16 1.2.3.Tứ diệu đế - giáo lý căn bản của Phật giáo nguyên thủy .....................19 CHƢƠNG 2: SỰ HÌNH THÀNH CHỦ NGHĨA HIỆN SINH VÀ GIẢI THOÁT LUẬN HIỆN SINH CỦA JEAN PAUL SARTRE...........................34 2.1. Sự hình thành của triết học hiện sinh của Jean Paul Sartre ...............34 2.1.1. Bối cảnh và những tiền đề ra đời của chủ nghĩa hiện sinh .................34 2.1.2. J.P. Sartre: Cuộc đời, tác phầm ..........................................................36 2.2. Giải thoát luận hiện sinh của Jean Paul Sartre ....................................37 2.2.1. Chủ nghĩa hiện sinh của Sartre – triết học về con người ....................37 2.2.2.Sự dấn thân – Con đường giải thoát của con người trong chủ nghĩa hiện sinh của Jean Paul Sartre ......................................................................41 CHƢƠNG 3: NHỮNG ĐIỂM TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA GIẢI THOÁT LUẬN CỦA PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VÀ CON ĐƢỜNG GIẢI THOÁT TRONG CHỦ NGHĨA HIỆN SINH CỦA JEAN PAUL SARTRE ..................................................................................................47 3.1. Những điểm tƣơng đồng ..........................................................................47 3.1.1. Không công nhận Đấng sáng thế ........................................................47 3.1.2. Coi cuộc đời là bể khổ .........................................................................48 3.1.3. Đề cao và lấy con người làm trung tâm ..............................................48 3.1.4. Coi bản chất con người là cái không ổn định, luôn biến đổi ..............50 3.1.5. Chủ trương con đường giải thoát để tìm hạnh phúc đích thực của con người .............................................................................................................51 3.2. Những điểm khác biệt..............................................................................52 3.2.1. Sự khác nhau trong quan niệm về bản chất con người .......................52 3.2.2. Sự khác biệt trong cách đặt vấn đề về nguyên nhân nỗi khổ của cuộc đời ..................................................................................................................53 3.2.3. Sự khác biệt trong cách thức hay con đường giải thoát con người khỏi nỗi khổ trong cuộc đời ...................................................................................54 3.3. Những giá trị, hạn chế và ý nghĩa thực tiễn của giải thoát luận trong Phật giáo nguyên thủy và chủ nghĩa hiện sinh của J.P. Sartre ..................55 3.3.1. Những giá trị và hạn chế của giải thoát luận trong Phật giáo nguyên thủy và chủ nghĩa hiện sinh của J.P. Sartre ..................................................55 3.3.2. Ý nghĩa thực tiễn của giải thoát luận trong Phật giáo nguyên thủy và chủ nghĩa hiện sinh của J.P. Sartre ...............................................................58 KẾT LUẬN .........................................................................................................60 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................63 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Phật giáo nguyên thủy và triết học hiện sinh của Jean Paul Sartre có rất nhiều điểm tương đồng, dù là hai học thuyết triết học xuất hiện không cùng nhau về mặt thời gian. Song, đây là hai dòng tư tưởng có mối quan tâm đặc biệt đến vấn đề muôn thuở của thời đại – vấn đề về con người, cũng như bản chất của con người là gì. Và như thế, Phật giáo thời kì đầu tiên và triết học hiện sinh của Jean Paul Sartre thực sự là một vấn đề đáng để chúng ta có thể nghiên cứu, tìm hiểu. Thứ nhất, cả hai học thuyết này đều được đánh giá là những học thuyết mang giá trị nhân bản, trong cách đặt vấn đề cho học thuyết của mình, cả Sartre và Phật giáo nguyên thủy đều lấy vấn đề con người làm trung tâm cho học thuyết của mình. Đây cũng là một trong những vấn đề luôn được mọi khoa học, nhất là triết học và các ngành khoa học nhân văn miệt mài nghiên cứu, và triết học hiện sinh của Sartre hay Phật giáo nguyên thủy cũng không phải là ngoại lệ. Thứ hai, nếu xét về phương diện lịch sử, thời điểm mà cả hai học thuyết ra đời đều là những hoàn cảnh lịch sử vô cùng đặc biệt. Đối với Phật giáo, khi xã hội Ấn Độ cổ đại đang tồn tại chế độ phân biệt đẳng cấp cực kỳ khắc nghiệt và người dân lúc này vô cùng khổ đau mà tác nhân chính của nó chính là thế giới quan đa thần của đẳng cấp Bà La Môn. Vì lẽ đó, người dân Ấn Độ lúc bấy giờ rất cần cho mình một hệ tư tưởng mới để có thể hướng mình đến sự tự do, và Phật giáo đã xuất hiện như là sự phản kháng mạnh mẽ đối với hoàn cảnh loạn lạc lúc bấy giờ. Tương tự như thế, Châu Âu thời kì sau Thế Chiến thứ II cũng là một khung cảnh vô cùng u ám về mặt xã hội, chính trị, văn hóa v.v... , điều này đã gợi lên những suy nghĩ cho người dân Châu Âu, sự tự ý thức về bản thân mình cũng như những ưu tư cho chính thân phận của mình trong thế giới tà vây này. Để trả lời được cho câu hỏi ấy, đã có rất nhiều hệ tư tưởng, học thuyết triết học mới ra đời, nhưng đặc biệt, một trong những tư tưởng có thể giúp cho chúng ta 1 giải đáp những thắc mắc về thân phận, cuộc đời của con người phải kể đến chính là triết học hiện sinh của Jean Paul Sartre. Thứ ba, trước sự phát triển của một xã hội bùng nổ về mặt khoa học – kỹ thuật, con người dần đạt được những thành tựu đáng kinh ngạc, điều đó càng chứng minh cho việc con người hoàn toàn có thể làm được những điều mà trong các thời điểm ở quá khứ đã cho rằng không thể. Nhưng, mọi vấn đề luôn tồn tại hai mặt của chính nó, sự phát triển ấy có thể giúp cho con người trở nên năng động và sáng tạo hơn, phù hợp hơn với xu thế phát triển. Mặt khác, cũng chính sự phát triển ấy sẽ làm cho con người ta biến thành một kẻ thụ động, xa lạ với chính mình, dần dần con người càng rời xa với niềm vui đích thực. Chính vì lẽ ấy, cần phải có những nhìn nhận và đánh giá về lịch sử mà cụ thể ở đây đó chính là những bàn luận xoay quanh vấn đề về chính thân phận con người, để chúng ta có thể tái thiết lại lối sống, tư tưởng cho mình sao cho phù hợp với chính chúng ta, đồng thời làm cho chúng ta có thể hòa nhập vào với đời sống xã hội. Với những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Giải thoát luận trong Phật giáo nguyên thủy và chủ nghĩa hiện sinh của J.P. Sartre: Những điểm tƣơng đồng và khác biệt” làm đề tài khóa luận chuyên ngành triết học của mình. 2. Tổng Quan tình hình nghiên cứu Có rất nhiều công trình đã và đang nghiên cứu về đề tài giải thoát luận của Phật giáo nguyên thủy cũng như đạo đức học của Jean Paul Sartre ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Về Đạo đức học Phật giáo, hiện nay đã có rất nhiều những công trình, những tác phẩm của các học giả trên thế giới đã được phiên dịch sang tiếng Việt, có thể nói là sách gối đầu giường cho những ai muốn tìm hiểu về những giáo lý căn bản của nhà Phật. Điển hình như: Con đường cổ xưa của tác giả Mahathera Piyadassi, Bốn quyền dẫn luật về Phật giáo, đặc biệt là Giáo trình Phật học do Chan Khoon San biên soạn cũng đã được dịch sang tiếng Việt nhằm giúp cho độc giả dễ dàng tiếp cận hơn. Bên cạnh đó, cũng có rất nhiều bài viết cũng được 2 đăng trên các tạp chí, chẳng hạn như bài viết của tác giả Hà Thị Thùy Dương, “Con người trong quan niệm của Phật giáo và trong Triết học hiện sinh của Jean Paul Sartre: Cái nhìn đối chiếu” được đăng trên Tạp chí Khoa học Xã Hội, số 12 năm 2010. Đây cũng được xem là một cách nhìn rất mới, đem lại cho chúng ta những cái nhìn so sánh về sự giống và khác nhau giữa hai nền văn hóa Đông – Tây. Vấn đề Đạo đức học Phật giáo ở Việt Nam hiện nay cũng được quan tâm rất nhiều trong công trình Luận án tiến sĩ, có thể kể đến như công trình của tác giả Ngô Thị Lan Anh với đề tài “Ảnh hưởng của “Tâm” trong Phật giáo đối với đời sống của nước ta hiện nay” (2012). Trong luận án này, tác giả đã trình bày một cách rất khái quát về các khái niệm cơ bản của Phật giáo, đồng thời đưa ra các nhận định, giải pháp nhằm hoàn thiện hơn đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Tiếp theo là Luận án tiến sĩ của tác giả Đặng Thị Lan với đề tài “Đạo đức học Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người Việt Nam” vào năm 2005, tác giả đã có những nhìn nhận cũng như đã trình bày được một số vấn đề lý luận của đạo đức tôn giáo và đạo đức Phật giáo, chỉ ra được những mặt tích cực và hạn chế của đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đạo đức con người Việt Nam. Sau cùng, tác giả đã đưa ra những biện pháp nhằm phát huy những điểm tích cực, hạn chế những điểm tiêu cực của Phật giáo ở nước ta. Đối với triết học hiện sinh của Jean Paul Sartre cũng đã được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam thông qua một số tác phẩm chính gốc đã được dịch sang tiếng Việt. Đặc biệt, có thể kể tới công trình phiên dịch “Thuyết hiện sinh là một thuyết nhân bản” của tác giả Đinh Hồng Phúc, đây có thể nói là một tác phẩm đánh giá sự chuyển bước tư tưởng của Sartre khi ông lần đầu tiên công bố học thuyết của mình đến với rộng rãi các tầng lớp trong xã hội, đồng thời thông qua tác phẩm này, độc giả cũng có thể thấy được những suy tư của Sartre về sự tồn tại đích thực của con người, làm thế nào để có thể đạt được hạnh phúc trong cuộc sống với tha nhân. Bên cạnh đó, tư tưởng của Sartre cũng được nghiên cứu dưới góc độ các tài liệu chuyên khảo ở các trường đại học, có thể kể đến như: 3 Triết học phương Tây hiện đại, Quan niệm về con người trong một số trào lưu triết học phương Tây được biên soạn lần lượt vào năm 2015, 2016 bởi GS. TS. Nguyễn Vũ Hảo. Ngoài ra, cũng có những công trình nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh của Sartre như đề tài Luận án tiến sĩ “Tiếp cận chủ nghĩa hiện sinh, lịch sử, sự hiện diện ở Việt Nam” vào năm 1996 của tác giả Nguyễn Tiến Dũng, tác giả đã khái quát được sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa hiện sinh nói chung và những đặc điểm cơ bản trong chủ nghĩa hiện sinh Sartre nói riêng như: “dự phóng”, “dấn thân” v.v... . Dựa trên những tình hình nghiên cứu như vậy, tôi đã bắt đầu nghiên cứu công trình khóa luận của mình với đề tài “Giải thoát luận trong Phật giáo nguyên thủy và Triết học hiện sinh của Sartre: Những điểm tương đồng và khác biệt”. 3. Mục đích nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: mục đích nghiên cứu của Khóa luận là phân tích những tư tưởng cơ bản của giải thoát luận trong triết học Phật giáo nguyên thủy và triết học hiện sinh, từ đó làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng cũng như đưa ra những đánh giá về những giá trị, hạn chế và ý nghĩa của chúng. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để hoàn thành mục đích trên, khóa luận có các nhiệm vụ nghiên cứu sau: + Thứ nhất, giới thiệu một cách khái quát về sự ra đời của Phật giáo nguyên thủy, và giải thoát luận thể hiện qua quan niệm về con người và Tứ diệu đế trong Phật giáo nguyên thủy. + Thứ hai, khái quát về sự hình thành của triết học hiện sinh của Jean Paul Sartre, từ đó, đưa ra những quan điểm về trong phương thức dẫn đến giải thoát cho con người trong triết học hiện sinh của ông. + Thứ ba, tập trung so sánh giải thoát luận giữa hai học thuyết này nhằm tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt để rồi từ đó, đưa ra những nhận định, 4 đánh giá về ý nghĩa, cũng như những ưu điểm và hạn chế của hai học thuyết trong quan niệm về sự giải thoát. 4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu : Quan niệm về giải thoát luận trong Phật giáo nguyên thủy và Triết học hiện sinh của Jean Paul Sartre. - Phạm vi nghiên cứu : Khóa luận tập trung nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của Phật giáo nguyên thủy và các tác phẩm của Jean Paul Sartre. Đồng thời, dựa trên những công trình nghiên cứu của các học giả khác về vấn đề “quan niệm về giải thoát luận” của Phật giáo nguyên thủy và Chủ nghĩa hiện sinh của Jean Paul Sartre. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Khóa luận sẽ áp dụng quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác – Lênin, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, tính chất mối liên hệ phổ biến và ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm toàn diện. 5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu Khóa luận được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp mác xít nghiên cứu lịch sử triết học, kết hợp các phương pháp như phân tích – tổng hợp, logic – lịch sử, so sánh, quy nạp – diễn dịch, hệ thống hóa và phương pháp văn bản học. 6. Kết cấu của tác phẩm Ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo, nội dung báo cáo được kết cấu thành 3 chương 24 tiết. 5 CHƢƠNG 1: SỰ RA ĐỜI CỦA PHẬT GIÁO VÀ GIẢI THOÁT LUẬN TRONG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY 1.1 . Sự ra đời của Phật giáo ở Ấn Độ Bối cảnh lịch sử Có thể nói, Ấn Độ là một trong những quốc gia có nền văn hóa, văn minh lớn và sớm trên thế giới. Văn minh Ấn Độ phát triển rực rỡ, huy hoàng trên nhiều lĩnh vực như chữ viết, văn học, toán học, nghệ thuật v.v... với những đóng góp to lớn cho nền văn minh nhân loại. Từ thiên niên kỷ thứ III TCN, người Ấn đã tạo được nền văn minh của mình là nền văn minh Harrappa và Mohenjo Daro. Từ khoảng 1500 năm TCN, do những biến động xã hội, Ấn Độ đã chuyển sang một nền văn minh mới là văn minh Veda (Vệ-đà). Phật giáo đã được sinh ra trong nền văn minh này. Đất nước Ấn Độ là nơi sản sinh ra rất nhiều tôn giáo, trong đó quan trọng nhất là Đạo Bà La Môn mà về sau này là Hinđu giáo và Đạo Phật. Ngoài ra còn có một số tôn giáo khác như Jaina giáo, Sikh giáo, đặc biệt, bên cạnh việc được xem là đại diện của một nền văn minh lớn lan tỏa ra nhiều nước trong khu vực và thế giới. Phật giáo còn được xem là một trong những học thuyết triết học – tôn giáo lớn trên thế giới, tồn tại rất lâu đời với hệ thống giáo lý đồ sộ. Theo các tài liệu lịch sử thì Ấn Độ cổ đại sớm chia thành nhiều đẳng cấp khác nhau, bao gồm: Bà-la-môn, Thủ-đà-la, Sát-đế-ly, Vệ-xa, Ba-ri-a. Về phương diện như tôn giáo, triết học, tư tưởng thì xã hội Ấn Độ cổ đại diễn ra một cảnh tượng vô cùng phức tạp. Tóm lại, xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ xét về mặt vật chất thì đang rên siết dưới ách bất công, áp bức. Về tinh thần thì đang quay cuồng, điên đảo trong những luồng tư tưởng lý thuyết rối ren, tà vay. Trong hoàn cảnh ấy, Phật giáo đã ra đời như một ánh sáng soi đường cho Ấn Độ cổ đại thoát khỏi màn đêm u ám, người mang ánh sáng ấy đến với dân chúng Ấn Độ không ai khác đó chính là một nhân vật lịch sử, Đức Thích Ca Mâu Ni. 6 Sự ra đời của Phật giáo ở Ấn Độ Đức Phật, người sáng lập ra Phật giáo, được gọi là Gotama thực chất là tên tộc của ngài, tên chính của ngài là Siddhattha, nghĩa đen của từ này là người đã thành tựu mục đích của mình. Cha của ngài là đức vua Suddhodana, cai trị lãnh địa của dòng họ Sakyas tại thành Kapilavatthu trên biên giới Nepal ngày nay. Mẹ ngài, là hoàng hậu Mahamaya, là công chúa xứ Koliyas. Khi suy nghĩ đã trở nên chín chắn hơn, thái tử Siddhattha đã thoáng thấy những nỗi thống khổ của thế gian. Như kinh điển nói, ngài đã chứng kiến bốn cảnh tượng: đầu tiên là một người bị suy yếu với tuổi già, hoàn toàn không còn tự lực được nữa; thứ hai là cảnh tượng của một người chỉ còn da bọc xương, vô cùng bất hạnh và tuyệt vọng với một chứng bệnh hiểm nghèo nào đó; thứ ba là cảnh tượng một nhóm người đang than khóc, gánh trên vai xác chết của một người thân, đem đi hỏa thiêu. Những cảnh tượng đáng thương này đã tác động sâu sắc đến ngài. Tuy nhiên, cảnh tượng thứ tư, tạo ra một ấn tượng lâu dài nhất. Ngài nhìn thấy một vi Sa-môn an tịnh và thanh thản, xa cách và tách biệt với cuộc sống của thế gian, ngài biết rằng đây là một người đã lìa bỏ gia đình, sống một cuộc đời thanh tịnh. Từ đó, những suy nghĩ về việc xuất ly tầm chân lý về cuộc đời đã lóe lên trong thâm tâm của vị thái tử trẻ tuổi và cũng có thể nói, đây là một cột mốc đánh dấu một sự kiện vĩ đại, sự xuất hiện của một Đấng giác ngộ với một tôn giáo từ bi, cứu rỗi dân chúng Ấn Độ. Năm 29 tuổi, hoàng tử Siddhattha đã từ bỏ chốn hoàng cung và tầm chân lý, những sự thật về cuộc đời. Suốt quá trình tu tập, ngài đã gặp được rất nhiều vị thầy,nhưng Siddhattha vẫn không sao hài lòng, thỏa mãn với những gì được truyền dạy. Và cuối cùng, bằng một lòng nhiệt huyết, sự khao khát đạt đến bờ giác ngộ, đến năm 35 tuổi, Siddhattha đã nghĩ ra được cách giải thích bản chất của tồn tại, nguồn gốc của mọi đau khổ, do đó cho rằng đã tìm được con đường 7 thoát khỏi mọi khỏi ải của trần thế. Từ đó, ngài được gọi là Buddha, tức người đã giác ngộ hay “Đấng giác ngộ”. Sau khi đã thành tựu đạo quả, trong khoảng 45 năm Đức Phật chu du khắp lưu vực sông Hằng, đem đạo của mình để đi thuyết pháp, giáo hóa dân chúng, không phân biệt già trẻ, nam nữ, nghèo sang... Nhờ lòng từ bi không bờ bến, Phật giáo thời kì đầu, thời kì của Đức Phật Thích Ca đã thu hút rất nhiều tín đồ, trong đó có cả các vị đệ tử xuất chúng đến từ Bà-la-môn giáo. Về niên đại của đạo Phật, hiện nay có rất nhiều ý kiến khác nhau, tín đồ Phật giáo lấy năm 544 TCN làm năm mở đầu kỷ nguyên Phật giáo. 1.2 . Giải thoát luận thể hiện thông qua quan niệm về con ngƣời và Tứ diệu đế trong Phật giáo nguyên thủy 1.2.1. Quan niệm về bản chất con người trong Phật giáo nguyên thủy Con người – sự hợp thành của Ngũ uẩn Vấn đề “Con người” trong Phật giáo nguyên thủy được đề cập trong mô hình về vòng luận hồi. Theo đó, Con người trong quan niệm của nhà Phật là một loài chúng sinh hữu tình và được hợp thành từ ngũ uẩn: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Sắc Uẩn Sắc uẩn được cho là phương tiện để một chúng sinh hữu tình có khả năng tương tác với các sự vật, hiện tượng khác tồn tại xung quanh mình bằng cách: thấy (mắt – nhãn căn), nghe (tai- nhĩ căn), ngửi (mũi – nhĩ căn), nếm (lưỡi – vị căn) và cuối cùng là sự tiếp xúc về sắc đối tượng – thân xúc chạm đất, lửa, gió. Ở đây, sự tiếp xúc về sắc đối tượng có thể được mô tả như sau: Thân chỉ xúc chạm, sờ đụng được cái gì đó ví dụ: thô ráp (đất), sự vật nóng, lạnh (lửa), sự vật rung chuyển (gió). Còn yếu tố cuối cùng trong tứ đại là nước có tính chất kết nối, dính liền nên thân không xúc chạm vào được. 8 Thọ Uẩn Uẩn thứ hai đó chính là Thọ, đây là những cảm giác thực xảy ra ở thân, được gọi là thọ bình thường, thuần tùy; nghĩa là quá trình chịu tác động từ thế giới khách quan thông qua “Sắc uẩn” làm nảy sinh những cảm nhận bên trong tâm trí của con người. Các cảm nhận này có thể miêu tả như: Lạc thọ (sukhavedana), tức những cảm giác thực và diễn ra với tính chất dễ chịu, thích thú, khoan khoái. Xả thọ (Upekkhavedana) được hiểu như là một cảm giác rủ bỏ tất cả những cảm giác bên trong thân. Và một yếu tố cuối cùng trong Thọ đó chính là Khổ thọ, được mô tả là quá trình phát sinh tâm lý chủ quan làm gia tăng thêm cảm giác khổ. Tưởng Uẩn Tưởng uẩn (Sanna) được hiểu là tri giác, tức là nhận biết tổng quát hình tướng, hình ảnh, âm thanh, mùi vị. Các sự vật được nhận biết được gọi là ngũ trần (sắc đối tượng) và xác định được nó là gì (về bản chất của sự vật, hiện tượng ấy) thì được gọi là quá trình Tưởng. Như vậy, Tưởng uẩn được miêu tả là quá trình tác động của chủ thể nhận thức vào đối tượng, kết quả có thể là đúng nếu quá trình diễn ra của chính sự vật, hiện tượng được bắt gặp vào thời điểm sắc uẩn cảm thụ bằng các phương tiện hiện có: mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân, thì sự vật, hiện tượng đó là đúng. Ngược lại, sự can thiệp của Tưởng trở nên quá nhiều vào quá trình nhận thức sẽ gây ra các nhận thức sai làm. Hành Uẩn Hành uẩn được hiểu là sự hiện thực hóa các ý niệm tốt hoặc xấu, do sự chỉ phối của tâm thức nên hành xuất hiện và tạo ra các hành động tương ứng. Đây cũng được xem là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định đến việc hợp thành các kết quả của một hành động ở con người. 9 Thức Uẩn Thức uẩn (Vinnana) được xem là sự nhận thức, nhận biết các sự vật, hiện tượng tồn tại xung quanh. Theo mô tả trong kinh Đại Bát Niết Bàn, thức uẩn sẽ là tốt nếu nó chưa bị kinh nghiệm, thành kiến hoặc một bản ngã xen vào, lúc đó thức uẩn sẽ như thực (nhận thức đúng như sự thực hiện có). Ngược lại, nếu quá trình này được diễn ra nhờ sự biên tập của tổng hợp các kinh nghiệm, thành kiến, bản ngã thì sẽ dẫn đến những kết quả sai lệch. Đó là một trong những đặc điểm rất cơ bản khi nhắc đến quan niệm về con người trong Phật giáo nguyên thủy, con người được cấu thành từ các yếu tố của ngũ uẩn như đã trình bày ở trên. Con người là một loài chúng sinh hữu tình, khi nhắc đến một chúng sinh thì cũng có thể khẳng định rằng, đó là sự tồn tại của một thực thể vẫn còn tiếp diễn trong vòng sinh tử - luân hồi. Thế nhưng, học thuyết của Phật giáo đã từng nhiều lần khẳng định: “hễ còn luân hồi là khổ!”, đồng nghĩa với việc, sự tồn tại của con người trong thế giới này cũng là khổ. Để tìm hiểu tường tận vấn đề này, chúng ta sẽ đi vào chi tiết cụ thể học thuyết luân hồi của Phật giáo nguyên thủy để làm rõ hơn về vấn đề bản chất người. Học thuyết luân hồi của Phật giáo nguyên thủy Bất kì một tôn giáo nào trên thế giới cũng luôn xây dựng cho mình một học thuyết đồ sộ nhất về những cảnh giới sau cái chết. Thế nhưng, đối với Phật giáo nguyên thủy, với chủ trương không có một Đấng sáng thế nào tồn tại trong vũ trụ này và mọi kiếp sống đều phải tuân thủ theo các quy luật, định luật của tự nhiên được biết đến như các khái niệm: nghiệp, Nhân – quả, vô thường, vô ngã v.v… Trong kinh Đại Sư Tử Hống thuộc Trung Bộ Kinh [15, tr. 130], Đức Phật đã nói về các cảnh giới tái sinh cảu các chúng sinh. Cụ thể, có các cảnh giới khác nhau như: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, Trời, Người, A-tu-la. Trong đó, các cảnh giới Trời, Người, A-tu-la được xem là những cảnh giới tái sinh thuận lợi cho các chúng sinh, bởi các chúng sinh trong các cảnh giới này được hưởng 10 những nghiệp thiện, phước báu và ngược lại, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh là các cảnh giới phải chịu đựng những nỗi thống khổ nhất định, không một ngày được vui sướng và đặc biệt là không có khả năng để đạt đến sự giải thoát hoặc rất khó so với các cảnh giới tái sinh thuận lợi. Cảnh giới tái sinh thứ nhất: Địa ngục (Niraya) Theo niềm tin của Phật giáo, chúng sinh bị tái sinh vào địa ngục vì họ tích lũy quá nhiều nghiệp nặng và xấu. Họ phải chịu vô số những hình phạt kinh khủng, đau đớn, quằn quại về thể xác và tinh thần. Theo Đức Phật, hình phạt thế gian nếu một người liên tục bị đâm vào hằng tram ngọn giáo nếu so với cảnh khổ ở Địa ngục thì chỉ giống như so sánh một hòn đá nhỏ với nguyên dãy Himalayas. Tuy nhiên, những chúng sinh bị đọa vào địa ngục không phải chịu những hình phạt này mãi mãi không bao giờ được ra, theo những kiểu tôn giáo khác dạy. “Kiếp khổ này sẽ được đoạn tận nếu chúng sinh đó được tiêu trừ nghiệp ác khi phải trả nghiệp sẽ được tái sinh lên một cảnh giới tốt hơn hiện tại nhờ các động lực tốt trong quá khứ (nghiệp tốt)” [1, tr. 183] Cảnh giới tái sinh thứ hai: Súc sinh (Tiracchana) “Là cảnh giới của những chúng sinh được mô tả là loài đi ngang, với thân nằm ngang, thay vì đi thẳng đứng như người. Sinh vào cảnh giới súc sinh thì hoàn toàn chịu khổ đau, hành hạ và đầy nỗi sợ hãi. Sinh ra làm những loài thú hoang hay thú nhỏ, và luôn lo sợ bị ăn thịt bởi những loài thú lớn, các loài thú lớn lại sợ bị săn bắn bởi các nhu cầu của con người” [1, tr. 187]. Những con vật thuộc gia súc được nuôi cũng chẳng tốt hơn bởi nhu các cầu được nuôi và sản xuất của con người như: sừng, lông, da, thịt v.v… Ở những nước ít phát triển, các loài này được dùng để cày, kéo nặng nhọc luôn bị roi vọt đau đớn, mang ách kéo xe trên cổ và đủ thứ các khổ nhục của kiếp súc sinh. Nguyên nhân dẫn tới cảnh giới này có thể được hiểu là những tác ý (nghiệp) không tốt lành nhưng chưa đến mức phải tái sinh vào cõi Địa ngục đau khổ hơn. Các chúng sinh tái sinh ở cảnh giới này đa phần là những người đã 11 “mang nợ” về mặt tinh thần hoặc vật chất ở các kiếp sống trước. Vậy nên, những thống khổ, đọa đày ở kiếp sống trong cảnh giới này được xem là cách tiêu trừ những khoản nợ tiền kiếp đó. Cảnh giới tái sinh thứ ba: Ngạ quỷ (Peta) Peta theo tiếng Sankrit tức là Quỷ Đói (Ngạ quỷ), là những chúng sinh “hồn ma”, tuyệt đối là một kiếp sống không một ngày vui sướng. Họ sống một cuộc sống khổ đau, vất vưởng, bị khổ nhục liên tục vì đớn đau và đói rét, như những người ở thế gian khố rách, áo ôm, không nhà cửa, lang thang, đói khổ. “Họ phải luôn luôn đi tìm thức ăn vì phải luôn bị đói khát, cho nên có tên là Peta – nghĩa là lang thang, vất vưởng, luôn luôn kiếm tìm – sự chi phối của nghiệp” [1, tr. 189]. Về diện mạo, trong các bản kinh của Phật giáo, chẳng hạn như Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta) và Kinh “Chuyển Ngạ Quỷ” (Petavatthu), “Ngạ quỷ xuất hiện trong những hình thù và kích thước khác nhau, tùy thuộc vào những nghiệp bất thiện của họ trong quá khứ” [1, tr.189]. Cảnh giới tái sinh thứ tư: Cõi trời (Devas) Theo học thuyết của Phật giáo, Cõi Trời là nơi thuộc về những người tích lũy nhiều nghiệp lành, và các nghiệp lành ấy chuyển thành phước báu giúp những chúng sinh ấy chuyển kiếp luân hồi tại nơi này. Cuộc sống cõi này được miêu tả là sự sung túc, giàu sướng, vô lo vô nghĩa, tuy nhiên những chúng sinh ở cõi trời vẫn phải chịu sự chi phối của các quy luật sinh tử, luân hồi. Tuy nhiên, do được hưởng nhiều phước báu và vị thế cao quý từ nhiều đời nhiều kiếp, cảnh giới này được cho là rất khó để có thể đạt đến con đường giải thoát hơn là cõi Nhân (Người). Cảnh giới tái sinh thứ năm: Cõi A-tu-la (Asura) 12 A-tu-la là những chúng sinh mạnh mẽ, đầy tài năng và đôi khi được mô tả như là kẻ thù của chúng sinh ở cõi trời. A-tu-la biểu trưng cho sự phẫn nộ và luôn luôn sân hận với những người tài giỏi hơn mình. Những người luôn mong muốn vượt trội hơn người khác, không có sự kiên nhẫn, công bằng đi đôi với những người thấp kém hơn, họ thích được sùng bái như các vị thần. Nhưng phúc đức lại kém hơn cõi trời nên dẫn đến sự thù hận và ganh ghét, điều này khiến họ tái sinh trong cảnh giới A-tu-la. Cảnh giới thứ sáu: Cõi Người (Manussa) Đây là một cảnh giới vô cùng đặc biệt và phức tạp, trong khi những cảnh giới đau khổ thì toàn là đau khổ (Ngạ quỷ, Súc sinh) và cảnh giới Trời, A-tu-la toàn là hạnh phúc thì cảnh giới của con người là sự kết tập của cả hai khía cạnh “Đau Khổ” và “Hạnh Phúc”. Vì vậy, mọi người được sinh ra với nhiều hoàn cảnh, đặc điểm khác biệt như xấu, đẹp, giàu, nghèo, mạnh, yếu, ngôn ngữ v.v..., tùy theo những “Nghiệp” tốt và xấu của mỗi người. Tuy nhiên, theo Phật giáo nguyên thủy, được sinh ra vào “Cõi Người” [1, tr. 192] để làm người thì Nghiệp tái sinh duyên cho Thức tái sinh (Patisandhi) bắt buộc phải làm các nghiệp lành mới mong được giải thoát để mưu cầu hạnh phúc đích thực của cuộc đời. Đó cũng chính là một số các đặc điểm cơ bản về sự luân hồi chuyển kiếp được trình bày trong học thuyết Phật giáo nguyên thủy. Như vây, cách thức để vận hành bánh xe luân hồi ấy sẽ như thế nào? Cụ thể hơn, chúng ta sẽ tìm hiểu các khái niệm cơ bản nhưng không kém phần quan trọng, những chi tiết gắn liền với sự sinh thành, tận diệt mà được gói gọn trong hai từ “Luân hồi”. Sự vận hành của Luân hồi trong Phật giáo nguyên thủy Trong tiếng Sankrit, từ “luân hồi” được cắt nghĩa như sau: “luân” là bánh xe, “hồi” là lăn tròn, còn về nghĩa đen: luân hồi là sự tái sinh vào một trong các cõi giới (sáu cảnh giới đã đề cập) mà ở đó có sự xuất hiện của những kết quả 13 được gây ra bởi “Nghiệp” – nhân tố quyết định vòng xoay luân hồi cho mỗi chúng sinh. Nghiệp (Karma) đóng vai trò như chiếc thang máy đưa người ta từ tầng này đến tầng khác. Những hành động tốt được dẫn lối đi lên, những hành động xấu sẽ đưa chúng sinh tác ý đi xuống. Cần phải lưu ý ở đây, đó chính là sự xuất hiện của nghiệp không phải là một quy trình thưởng – phạt của một Đấng tạo hóa nào cả, Phật giáo nguyên thủy luôn tìm mọi cách để lý giải cho việc chúng sinh làm chủ các hành động và các hậu quả mà mình gây ra. Thế nên, nếu có một thực thể tối hậu chi phối, đó phải chính là những chúng sinh đang lầm than với các nghiệp quả mà mình đã tạo tác trong nhiều đời nhiều kiếp – nhiều vòng quanh của vòng luân hồi. Mọi cá nhân là tác giả duy nhất tạo ra sự may mắn hay thiếu may mắn của họ. Trong cách nói thông thường, nghiệp được hiểu là những gì tốt và xấu xảy ra đến với mọi chúng sinh, phần nào giống như vận may hay vận rủi. Nghĩa đen của từ tiếng Phạn chỉ nghiệp, Karma, tức là “hành động”, nhưng nghiệp ở khía cảnh tôn giáo không phải liên quan đến hành động nói chung, mà là một loại hành động cụ thể. Những hành động tạo nghiệp là những hành động do tác ý, và Đức Phật định nghĩa dựa trên những tác ý và hệ quả ứng xử mà chúng sinh đưa tới. Đức Thích Ca Mâu Ni đã đinh nghĩa: “Này các tì kheo, ta bảo rằng tác ý (cetana) là nghiệp; khi đã tác ý, người ta hành động bằng thân xác, ngôn từ, ý niệm” [11, tr. 415]. Thông qua định nghĩa của Đức Phật, có thể hiểu một cách rất cơ bản về nghiệp, đó là những hành động được khởi lên từ “Thức uẩn” – tức là sự nhận biết từ bên trong của chính chủ thể nhận thức và được hiện thực hóa thông qua “sắc uẩn” – phương tiện để một chúng sinh (hữu tình) biểu đạt thông qua “hành uẩn” mà từ đó tạo thành một nghiệp tương ứng. Ví dụ, khi một chúng sinh (con người) giết hại hoặc trộm cắp, ai đó bị tước đoạt mất mạng sống hoặc của cải, lúc đó sẽ xuất hiện một lực tương ứng và sẽ xuất hiện khi có cơ hội, lực này sẽ tác động tương ứng với những gì đã tạo nên nó – được gọi là Nghiệp. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan