Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải quyết yêu cầu bồi thường tại tòa án theo luật trách nhiệm bồi thường của nh...

Tài liệu Giải quyết yêu cầu bồi thường tại tòa án theo luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước

.PDF
90
85
53

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN ĐĂNG HUY GIẢI QUYẾT YÊU CẦU BỒI THƢỜNG TẠI TÒA ÁN THEO LUẬT TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG CỦA NHÀ NƢỚC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN ĐĂNG HUY GIẢI QUYẾT YÊU CẦU BỒI THƢỜNG TẠI TÒA ÁN THEO LUẬT TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG CỦA NHÀ NƢỚC Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 8380101.04 Người hướng dẫn khoa học: TS ĐẶNG VŨ HUÂN Hà Nội – 2020 LỜI CẢM ƠN Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với ng d n c ng các t các an k íc i ớng y giáo cô giáo đã c ỉ bảo tận tìn ; Xin cảm ơn c ị bạn bè đồng ng iệp và gia đìn đã động viên k uyến giúp đỡ đóng góp ý kiến quý báu để tác giả oàn t àn bản luận văn này. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Đăng Huy DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự BPKCTT : Biện pháp khẩn cấp tạm thời CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa KNTC : Khiếu nại, tố cáo NNPQXHCN : Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa QPPL : Quy phạm pháp luật TAND : Tòa án nhân dân THADS : Thi hành án dân sự TNBTCNN : Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước TTHC : Tố tụng hành chính MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chương 1 ........................................................................................................... 7 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT YÊU CẦU ........................ 7 BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC TẠI TÒA ÁN .................................................... 7 1.1.Khái quát về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước .................................. 7 1.1.1. K ái niệm trác n iệm bồi t ng của N à n ớc .................................. 7 1.1.2. Đặc điểm trác n iệm bồi t ng của N à n ớc ................................. 12 1.1.3. Cơ quan thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ................. 18 1.2. Pháp luật về giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước tại Tòa án theo thủ tục tố tụng...................................................................................... 26 1.2.1. K ái niệm giải quyết yêu c u bồi t ng n à n ớc tại Tòa án t eo t ủ tục tố tụng...................................................................................... 27 1.2.2. Đặc điểm của giải quyết yêu c u bồi t ng n à n ớc tại Tòa án t eo t ủ tục tố tụng .............................................................................. 29 Chương 2 ......................................................................................................... 35 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT YÊU CẦU BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC TẠI TÒA ÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.......................................................................................... 35 2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước tại Tòa án theo thủ tục tố tụng ở Việt Nam .............................................. 35 2.1.1. P áp luật về giải quyết yêu c u bồi t ng n à n ớc tại Tòa án t eo t ủ tục tố tụng t eo Luật Trác n iệm bồi t ng của N à n ớc năm 2009 .................................................................................... 36 2.1.2. P áp luật về giải quyết yêu c u bồi t ng n à n ớc tại Tòa án t eo t ủ tục tố tụngt eo quy địn của Luật Trác n iệm bồi t ng của N à n ớc năm 2017 ..................................................................... 40 2.2. Thực tiễn giải quyết bồi thường nhà nước tại Tòa án theo thủ tục tố tụng tại Việt Nam ................................................................................ 44 2.2.1. Kết quả giải quyết bồi t ng n à n ớc tại Tòa án t eo t ủ tục tố tụng ...................................................................................................... 44 2.2.2. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân trong thực tiễn giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước tại Tòa án theo thủ tục tố tụng .......................... 53 Chương 3 ......................................................................................................... 61 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT YÊU CẦU BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC TẠI TÒA ÁN Ở VIỆT NAM.................................................................................................... 61 3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả giải quyết yêu cầu bồi thường Nhà nước tại Tòa án theo thủ tục tố tụng ................................................... 61 3.1.1. Bảo đảm sự lãn đạo c ỉ đạo của Đảng đối với oạt động giải quyết yêu c u bồi t ng n à n ớc tại Tòa án t eo t ủ tục tố tụng .. 61 3.1.2. P ân biệt rõ ràng và tác bạc giữa n óm các giải p áp về t ể c ế và n óm các giải p áp về tổ c ức t ực iện ....................................... 62 3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước tại Tòa án theo thủ tục tố tụng ở Việt Nam................................ 62 3.2.1. Nâng cao iệu quả giải quyết bồi t ng n à n ớc bằng t ủ tục tố tụng ...................................................................................................... 62 3.2.1. Tiếp tục oàn t iện p áp luật về trác n iệm bồi t ng của n à n ớc ..................................................................................................... 64 3.2.2. T ống n ất n ận t ức trong toàn ngàn Tòa án về oạt động giải quyết bồi t 3.2.3. Tăng c bồi t ng n à n ớc t eo t ủ tục tố tụng tại Tòa án................ 67 ng công tác tuyên truyền p ổ biến p áp luật trác n iệm ng của N à n ớc đến mọi đối t ợng qu n c úng n ân dân . 68 3.2.4. Kiện toàn tổ c ức và biên c ế t ực iện công tác bồi t ng n à n ớc trong ngàn Tòa án .................................................................... 69 3.2.5. Tăng c tác bồi t ng công tác tập uấn bồi d ỡng kỹ năng ng iệp vụ công ng n à n ớc c o đội ngũ t ẩm p án ............................... 70 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 71 PHỤ LỤC 1: BẢNG RÀ SOÁT CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC ................................................................................................. 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 75 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân nói chung và bảo đảm quyền được Nhà nước bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra nói riêng là một trong những mục tiêu cơ bản và quan trọng trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân cũng như trong quá trình đất nước ta hội nhập quốc tế. Ngày 18/6/2009, tại kỳ họp thứ V Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước[38] (Luật TNBTCNN năm 2009), Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2010. Có thể nói, đây là lần đầu tiên “trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã được quy định một cách đầy đủ và toàn diện ở tầm văn bản luật” [62], tr.20]. Trong đó, đã thể chế hóa đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng về bảo đảm quyền con người, quyền công dân nói chung, quyền được Nhà nước bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra nói riêng. Sau hơn 06 năm thi hành, Luật TNBTCNN năm 2009 đã thực sự trở thành công cụ pháp lý quan trọng để tổ chức, cá nhân bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật trong thực thi công vụ, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm trong thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức nói riêng cũng như chất lượng hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung. Kết quả thi hành Luật TNBTCNN cho thấy: “từ ngày 01/01/2010 đến ngày 31/12/2015 các cơ quan có trác n iệm bồi t t ụ lý giải quyết 258 vụ việc yêu c u bồi t ng đã ng trong đó đã giải quyết xong 204 vụ việc (đạt tỷ lệ 79%) với tổng số tiền N à n ớc p ải bồi t ng là 111 tỷ 149 triệu 416 ng ìn đồng”[53], tr.1]. Thực tiễn thi hành cũng cho thấy, Luật đã đi vào cuộc sống và cơ bản đã đạt được các mục tiêu đề ra, hoàn thành được vai trò, sứ mệnh của mình trong giai đoạn vừa qua. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Luật TNBTCNN năm 2009 cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập và những hạn chế, bất cập này đã không chỉ tác động đáng kể đến quyền được bồi thường của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại mà còn tác động cả đến hoạt động giải quyết bồi thường của cơ quan giải quyết bồi thường nói chung cũng như của Tòa án các cấp nói riêng. Từ thực tiễn đó, ngày 20/6/2017, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật TNBTCNN năm 2017, Luật này có hiệu lực từ ngày 01/7/2018. Nghiên cứu Luật này cho thấy, so với Luật TNBTCNN năm 2009, Luật TNBTCNN năm 2017 đã sửa đổi, bổ sung toàn diện các quy định về phạm vi TNBTCNN, thiệt hại được bồi thường, cơ quan giải quyết bồi thường, trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường, trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại… Đặc biệt, các quy định liên quan đến việc giải quyết bồi thường tại Tòa án theo thủ tục tố tụng đã được sửa đổi toàn diện, triệt để. Mặc dù Luật TNBTCNN năm 2017 đã có những sửa đổi, bổ sung để giải quyết những yêu cầu, bất cập phát sinh trong thực tiễn về giải quyết bồi thường tại Tòa án theo thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, qua theo dõi, nghiên cứu các quy định của pháp luật TNBTCNN và pháp luật có liên quan cũng như thực hiện gần 01 năm thi hành Luật vừa qua, nhiều vấn đề hạn chế, bất cập mới về giải quyết bồi thường tại Tòa án theo thủ tục tố tụng đã phát sinh, đòi hỏi cần tiếp tục làm rõ để bảo đảm thi hành có hiệu quả chế định TNBTCNN trên thực tiễn. Với những lý do đó, học viên lựa chọn đề tài “Giải quyết yêu cầu bồi thường tại Tòa án theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước” làm Luận văn Thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu 2 Vấn đề TNBTCNN nói chung và giải quyết bồi thường tại Tòa án theo thủ tục tố tụng nói riêng đã được một số tác giả nghiên cứu và đề xuất hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự cũng như pháp luật về TNBTCNN, có thể kể đến như: - Luận văn Thạc sĩ luật học “Hoàn t iện c ế địn k ởi kiện và t ụ lý án dân sự trong p áp luật tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thu Hiền, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012[17]; - Luận văn Thạc sĩ luật học “Hoàn t iện c ế địn òa giải trong p áp luật tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thúy, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014[61]; - Đề tài nghiên cứu cấp bộ năm 2012 của Cục Bồi thường nhà nước, Bộ Tư pháp -“Các biện p áp bảo đảm t i àn Luật Trác n iệm bồi t ng của N à n ớc”[10]; - Luận văn Thạc sĩ Luật học “Một số vấn đề lý luận và t ực tiễn về trác n iệm bồi t ng t iệt ại của N à n ớc” của tác giả Lê Thái Phương, Trường đại học Luật Hà Nội, năm 2006[58]; - Luận văn Thạc sĩ Luật học “T ực iện p áp luật về trác n iệm bồi t ng của n à n ớc trong t i àn án dân sự ở Việt Nam iện nay” của tác giả Trần Việt Hưng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2014[22]; - Luận văn Thạc sĩ Luật học “P áp luật của Việt Nam và một số quốc gia trên t ế giới về trác n iệm bồi t ng của N à n ớc” của tác giả Hoàng Xuân Hoan, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013[18]; - Luận văn Thạc sĩ luật học “Trác n iệm bồi t ng của N à n ớc trong oạt động T i àn án dân sự” của tác giả Hoàng Tuấn Tú, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015[64]; 3 - Luận văn Thạc sĩ luật học “Hoàn t iện p áp luật về Trác n iệm bồi t ng của N à n ớc ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hải Hà, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2016[16]; Ngoài ra còn có nhiều chuyên đề, bài viết, bài nghiên cứu của một số tác giả làm công tác xây dựng pháp luật với nội dung đề cập đến nhiều vấn đề cơ bản phục vụ cho quá trình soạn thảo dự án Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi) cũng như trong quá trình triển khai thi hành Luật TNBTCNN năm 2017 cũng là những tài liệu nghiên cứu quan trọng được tác giả lựa chọn tham khảo khi thực hiện đề tài nghiên cứu của Luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận về TNBTCNN nói chung, về giải quyết bồi thường nhà nước theo thủ tục tố tụng tại Tòa án nói riêng, đánh giá thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật về giải quyết bồi thường nhà nước theo thủ tục tố tụng tại Tòa án, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước theo thủ tục tố tụng tại Tòa án. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về TNBTCNN và giải quyết bồi thường nhà nước theo thủ tục tố tụng tại Tòa án. - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật về giải quyết bồi thường nhà nước theo thủ tục tố tụng tại Tòa án; chỉ ra những ưu điểm, hạn chế trong thực tiễn giải quyết bồi thường nhà nước theo thủ tục tố tụng tại Tòa án và yêu cầu hướng dẫn các quy định mới của Luật TNBTCNN năm 2017 về vấn đề này. - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước theo thủ tục tố tụng tại Tòa án. 4 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là các vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về giải quyết bồi thường nhà nước theo thủ tục tố tụng tại Tòa án. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung, luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về giải quyết bồi thường nhà nước theo thủ tục tố tụng tại Tòa án, đặc biệt là các quy định mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Luật TNBTCNN năm 2017. Tuy nhiên, để làm rõ hơn các nội dung nghiên cứu, luận văn cũng khái quát thực tiễn quá trình thi hành Luật TNBTCNN năm 2009 về vấn đề này. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu khoa học Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin với phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử. Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài, luận văn còn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp và một số phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp khác.. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Về mặt k oa ọc kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ phương diện lý luận trong khoa học pháp lý của việc giải quyết bồi thường nhà nước tại Tòa án theo thủ tục tố tụng. Ngoài ra, những giải pháp hoàn thiện pháp luật là cơ sở quan trọng để các cơ quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tương ứng. Về mặt t ực tiễn kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích không chỉ với đội ngũ giảng viên, sinh viên mà còn có giá trị đối với các cán bộ đang làm công tác hoạch định chính sách và xây dựng pháp 5 luật về giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước theo thủ tục tố tụng tại Tòa án nói chung và pháp luật về tố tụng nói riêng ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu 3 chương, cụ thể: Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước tại Tòa án Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước tại Tòa án ở Việt Nam Chƣơng 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước tại Tòa án ở Việt Nam 6 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT YÊU CẦU BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC TẠI TÒA ÁN 1.1.Khái quát về trách nhiệm bồi thƣờng của Nhà nƣớc 1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường của Nhà nước Trong tiếng Việt, thuật ngữ “trách nhiệm” gần nghĩa với thuật ngữ “nghĩa vụ”, theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học năm 2003 thì trách nhiệm là “Phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo đảm làm trong, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả; hoặc sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì phải gánh chịu phần hậu quả”[19], tr.1020], nghĩa vụ là “việc mà pháp luật hay đạo đức bắt buộc phải làm đối với xã hội, đối với người khác” [19], tr.679]. Xét về phương diện pháp lý, trách nhiệm là dạng trách nhiệm phát sinh trên cơ sở quy định của pháp luật và được bảo đảm thực hiện bằng pháp luật. Xét về phương diện đạo đức xã hội, trách nhiệm là sự ràng buộc cá nhân, tổ chức phải thực hiện những nghĩa vụ nghiêng về bổn phận mang tính luân lý, đạo đức. Ở phương diện này, trách nhiệm của Nhà nước được quan niệm với triết lý: Nhà nước là đại diện chính thức của toàn xã hội, vì vậy nhà nước có quyền thay mặt nhân dân chủ động và độc lập quyết định những vấn đề đối nội và đối ngoại. Đó là quyền lực được nhân dân ủy quyền cho Nhà nước đồng thời là trách nhiệm của Nhà nước để thực hiện chức năng quản lý nhà nước, để bảo đảm an ninh, an toàn và phát triển xã hội, bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân. Trách nhiệm của Nhà nước là khái niệm có phạm vi rộng lớn, nhiều cấp độ và phức tạp, bởi Nhà nước vốn là một trong những chủ thể chính trị - xã hội và pháp lý thuộc loại phức tạp nhất. Trách nhiệm của Nhà nước trước hết bắt nguồn từ khái niệm trách nhiệm trong đời sống xã hội. 7 Như vậy, ở góc độ chung nhất có thể hiểu, trách nhiệm là sự ràng buộc trong các mối liên hệ giữa con người với nhau, trong đó, các cá nhân, tổ chức hoặc tổ chức cao nhất của một quốc gia đó là Nhà nước phải thực hiện các nghĩa vụ đối với người khác hoặc đối với cộng đồng. Thiệt hại, dưới góc độ ngôn ngữ học, được hiểu là “mất mát, hư hỏng nặng nề về người và của”[42],tr.1571]. Trong khoa học pháp lý, theo quan niệm truyền thống thì “thiệt hại” được hiểu là “tổn thất về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân; tài sản, danh dự, uy tín của pháp nhân hoặc chủ thể khác được pháp luật bảo vệ”[66],tr.713]. Dưới góc độ luật thực định, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong BLDS năm 1995 được xác định bao gồm: “trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần” (Điều 310). Trong BLDS năm 2005 thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm: “trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần” (Điều 307). Quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong BLDS năm 2015 thì xác định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác” (Điều 584). Như vậy, theo quan điểm phổ biến hiện nay về thiệt hại thì thiệt hại bao gồm: thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại về tinh thần bao gồm “tổn thất về danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc suy sụp về tâm lý, tình cảm của cá nhân” và thiệt hại về vật chất bao gồm “tài sản bị mất, hủy hoại, bị hư hỏng; chi phí phải bỏ ra để khắc phục, ngăn chặn thiệt hại cùng những hoa lợi, lợi tức không thu được mà đáng ra thu được”. Tóm lại, thiệt hại có thể hiểu là sự không nguyên vẹn như trạng thái ban đầu của sự vật sau khi chịu sự tác động từ bên ngoài. Dưới góc độ ngôn ngữ học, “bồi thường” được hiểu là việc “đền bù những tổn thất đã gây ra”[42],tr.191]. Với quan 8 niệm thiệt hại là sự không nguyên vẹn như trạng thái ban đầu của sự vật sau khi chịu sự tác động bên ngoài như đã phân tích ở trên, thì bồi thường thiệt hại có thể hiểu là trách nhiệm khôi phục lại tình trạng ban đầu của sự vật hiện tượng; vì vậy, bồi thường thiệt hại là một dạng nghĩa vụ dân sự phát sinh do gây thiệt hại. Về mặt pháp lý, thiệt hại là những tổn thất về tài sản, tổn thất về tính mạng, sức khỏe, uy tín, danh dự, nhân phẩm; vì vậy, bồi thường thiệt hại là sự khôi phục lại những tổn thất trên bằng giá trị vật chất hoặc những cách thức và tiêu chí do pháp luật quy định. Trong pháp luật dân sự, bồi thường thiệt hại là việc đền bù những tổn thất và khắc phục những hậu quả do hành vi vi phạm gây ra; vì vậy bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Khi xem xét chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại thì Nhà nước với tư cách là một chủ thể đặc biệt, hoạt động với mục tiêu là phải bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của người dân; khi Nhà nước thực hiện quyền lực công (thông qua các hành vi thi hành công vụ của đội ngũ công chức) mà gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường. Hiện nay, có khá nhiều khái niệm về TNBTCNN được nhiều tác giả đưa ra dưới những góc độ tiếp cận khác nhau, cụ thể là: Quan điểm thứ nhất cho rằng, “TNBTCNN là hậu quả pháp lý bất lợi về vật chất và tinh thần mà Nhà nước phải gánh chịu do công chức cơ quan hành chính nhà nước thực hiện trái pháp luật trong thi hành công vụ, gây thiệt hại vật chất, tinh thần cho cá nhân, tổ chức”[24]. Quan điểm thứ hai cho rằng, “TNBTCNN là trách nhiệm khôi phục những tổn thất về tài sản, bù đắp những tổn thất về tinh thần, uy tín, danh dự khi người thi hành công vụ gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân trong quá trình thực thi quyền lực công”[22],tr.12] hoặc “TNBTCNN là trách nhiệm 9 pháp lý mà theo đó, Nhà nước phải bồi thường những thiệt hại về vật chất và bù đắp tổn hại về tinh thần khi người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật làm gây thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân trong quá trình thực thi quyền lực công”[44] hoặc “TNBTCNN là trách nhiệm pháp lý trong đó Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra trong một số lĩnh vực hoạt động của Nhà nước”[46]. Quan điểm thứ ba cho rằng, “TNBTCNN là tổng thể các quy định của pháp luật và biện pháp thi hành để thực hiện trách nhiệm của Nhà nước nhằm khắc phục những hậu quả bất lợi về vật chất, tinh thần mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã gây ra do xâm phạm quyền tư pháp bằng cách bù đắp, đền bù những tổn thất về vật chất, tinh thần và khôi phục danh dự, uy tín, nhân phẩm cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự” [71] hoặc “TNBTCNN là việc Nhà nước thực hiện thủ tục do pháp luật quy định để khôi phục, bù đắp những tổn thất tài sản, bù đắp những tổn thất tinh thần khi cán bộ, công chức có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của cá nhân; tài sản, uy tín của tổ chức trong khi thi hành công vụ”[63], tr.30]. Quan điểm thứ tư cho rằng, “TNBTCNN là hệ thống quy tắc xử sự chung thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, do các CQNN có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện trên nguyên tắc thỏa thuận, bình đẳng, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện TNBTCNN, xử lý trách nhiệm của người thi hành công vụ và hoạt động quản lý nhà nước về công tác bồi thường”[23]. Quan điểm thứ năm cho rằng, TNBTCNN là một dạng trách nhiệm dân sự nhưng theo nguyên tắc thay thế, theo đó, TNBTCNN là một dạng trách nhiệm dân sự thay thế, tức là, TNBTCNN “được hiểu là trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cho những thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây 10 ra”[65],tr.94]. Quan điểm này cho rằng, TNBTCNN là trách nhiệm của cá nhân người thi hành công vụ nhưng vì người thi hành công vụ nhân danh Nhà nước trong thực thi công vụ nên Nhà nước sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thay cho người thi hành công vụ. Cùng dưới góc độ này là quan điểm cho rằng, TNBTCNN là trách nhiệm trực tiếp của Nhà nước mà không phải là trách nhiệm thay thế cho trách nhiệm của người thi hành công vụ. Quan điểm này dựa trên lập luận cho rằng “hành vi của người thi hành công vụ được coi là hành vi của Nhà nước, vì vậy, nếu người thi hành công vụ có hành vi gây thiệt hại thì được coi là Nhà nước gây thiệt hại và đương nhiên Nhà nước có trách nhiệm bồi thường”[46],tr.13]. Quan điểm thứ sáu cho rằng “TNBTCNN là dạng trách nhiệm dân sự của Nhà nước mà trách nhiệm này không thể phát sinh nếu không có sự đồng ý, chấp nhận của chính Nhà nước hay nói cách khác, về nguyên tắc, Nhà nước không thể bị kiện bởi các cá nhân, tổ chức”[65],tr.131]. Như vậy, các khái niệm về TNBTCNN đưa ra ở trên dưới mỗi một góc độ tiếp cận khác nhau đều chỉ ra những khía cạnh hợp lý để nhận diện vấn đề TNBTCNN. Tuy nhiên, ở mỗi quan điểm, khái niệm đưa ra thì có thể TNBTCNN được đề cập đến nhiều khía cạnh nhưng trong mỗi khái niệm thì lại chỉ có một khía cạnh chính. Chính vì vậy, nếu chỉ nhận diện được một khía cạnh chính thì khó có thể giải quyết triệt để được vấn đề là điều chỉnh một cách hài hòa và toàn diện việc thực hiện TNBTCNN Từ việc nghiên cứu những quan điểm về TNBTCNN nêu trên, xem xét một cách toàn diện nhất, tác giả đưa ra khái niệm về TNBTCNN như sau: “TNBTCNN là trách nhiệm khôi phục những tổn thất về tài sản, bù đắp những tổn thất về tinh thần, uy tín, danh dự khi cán bộ, công chức nhà nước có hành vi trái pháp luật trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của cá nhân, tài sản, uy tín của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác”. 11 1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường của Nhà nước Để hiểu rõ TNBTCNN có đặc trưng gì cần hiểu rõ, trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung có những đặc điểm như thế nào, theo đó tác giả nêu nên một số đắc điểm chung của trách nhiệm bồi thường dân sự nói chung sau đây: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có bản c ất pháp lý là một loại trách nhiệm dân sự, chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại thể hiện, khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì họ phải bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại được quy định là một quan hệ tài sản do pháp luật dân sự quy định và điều chỉnh. Về điều kiện p át sin , trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ đặt ra khi thoả mãn các điều kiện nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi vi phạm nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng), có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại (không phải là điều kiện bắt buộc). Đây là những điều kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một người phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể phát sinh khi không có đủ các điều kiện trên điển hình là các trường hợp bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Về ậu quả, trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn mang đến một hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng một khoản tiền cụ thể hoặc phải được pháp luật quy định là một đại lượng vật chất nhất định là cơ sở để tính toán, do lường được nhằm phục vụ cho việc thực hiện được việc bồi thường. Do đó, những thiệt hại về tinh thần mặc dù không thể tính toán được nhưng cũng sẽ được xác định theo quy định của pháp luật dân sự để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt hại. Chính vì vậy, thực hiện trách 12 nhiệm bồi thường thiệt hại là việc làm của cơ quan, người có thẩm quyền giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại. Về c ủ t ể c ịu trác n iệm bồi t ng t iệt ại nói c ung, ngoài người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn được áp dụng cả đối với những chủ thể khác đó là cha, mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân gây ra thiệt hại, trường học, bệnh viện trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc tổ chức khác như cơ sở dạy nghề…được pháp luật dân sự quy định tương ứng với những hành vi của chủ thể. Nghiên cứu TNBTCNN cho thấy, TNBTCNN cũng là một loại trách nhiệm pháp lý, do đó, ngoài những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý nói chung như do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật và việc áp dụng đó luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng, được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế của Nhà nước…Theo đó, TNBTCNN phát sinh khi cán bộ, công chức có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại trong khi thi hành công vụ trong một số lĩnh vực hoạt động của Nhà nước trong điều chỉnh các quan hệ xã hội, trong quan hệ giữa đại diện của Nhà nước với cá nhân, tổ chức trong xã hội nhằm bảo đảm trật tự chung của xã hội. Theo nguyên tắc bồi thường thiệt hại thông thường thì người gây thiệt hại phải tự gánh chịu, buộc phải gánh chịu trách nhiệm đã gây ra và phải bồi thường. Tuy nhiên, đối với TNBTCNN có đặc điểm tương đồng như trách nhiệm của pháp nhân đối với hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại do người của pháp nhân gây ra, nhưng ở đây là Nhà nước. Nhà nước có bộ máy quyền lực, bộ máy quản lý thực hiện các biện pháp quản lý, công cụ là pháp luật, công chức làm việc nhân danh Nhà nước mà vi phạm pháp luật thì Nhà nước sẽ đứng ra thực hiện trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại, sau đó cán bộ, công chức đã gây ra thiệt hại đó sẽ phải có 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan