VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ HÙNG CƯỜNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CHIA TÀI SẢN LÀ
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN
TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CÔN ĐẢO, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ HÙNG CƯỜNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CHIA TÀI SẢN LÀ
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN
TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CÔN ĐẢO, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
Chuyên ngành
: Luật kinh tế
Mã số
: 60.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
GƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHẠM KIM ANH
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Các kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được công bố trên bất kỳ công trình nào khác.
Ngoài ra, trong luận văn có sử dụng một số nhận xét, đánh giá, bình luận,
cũng như số liệu của các tác giả khác nhưng đều có trích dẫn và chú thích
nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận văn
Hà Hùng Cường
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ L LUẬN VỀ TRANH CHẤP VÀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CHIA TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN.............................................................................8
1.1. Lý luận chung về tranh chấp chia tài sản là quyền sử dụng đất khi vợ chồng
ly hôn................................................................................................................................8
1.2. Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp về chia tài sản là quyền sử
dụng đất khi vợ chồng ly hôn tại Tòa án....................................................................18
Chương 2. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CHIA TÀI SẢN
LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN HUYỆN CÔN ĐẢO, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU.......................30
2.1. Tổng quan tình hình giải quyết tranh chấp chia tài sản là quyền sử dụng đất
khi vợ chồng ly hôn – thực tiễn tại Tòa án nhân dân huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu giai đoạn 2013 – 2016............................................................................. 30
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về chia tài sản là quyền sử dụng đất khi vợ
chồng ly hôn tại Tòa án................................................................................................32
2.3. Một số hạn chế, vướng mắc phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp về
tài sản là quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn và nguyên nhân...........................46
Chương 3. ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CHIA TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT KHI VỢ CHỒNG LY HÔN...........................................................................61
3.1. Các yêu cầu đặt ra cần phải hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về chia tài sản là quyền sử
dụng đất khi vợ chồng ly hôn......................................................................................61
3.2. Giải pháp hoàn thiện nội dung các quy định của pháp luật về phân chia
quyền sử dụng đất là tài sản chung vợ chồng khi ly hôn......................................... 64
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp về chia tài sản là quyền sử
dụng đất của vợ chồng khi ly hôn trên địa bàn huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu........................................................................................................................68
KẾT LUẬN............................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................77
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ Luật Dân Sự
BLTTDS
: Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự
GCN QSDĐ
: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
HN&GĐ
: Hôn nhân và gia đình
QSDĐ
: Quyền sử dụng đất.
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân Tối cao
UBND
: Ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề
tài
Từ xưa đến nay, gia đình luôn là tế bào của xã hội, là nơi những người có
quan hệ huyết thống, hôn nhân và nuôi dưỡng cùng chung sống. Gia đình hòa thuận
và hạnh phúc sẽ góp phần vào sự phát triển bền vững và phồn thịnh chung của xã
hội. Nhận thức được vị thế quan trọng của gia đình, Đảng và Nhà nước ta luôn quan
tâm, chú trọng đến việc xây dựng và giữ gìn gia đình êm ấm, hòa thuận, thể hiện ở
sự quan tâm đó là Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật về hôn nhân và gia đình góp phần giúp cho sự tồn tại và phát triển của gia đình
đi vào chuẩn mực, khuôn khổ, giúp tạo ra sự bền vững trong quan hệ gia đình.
Khi nam nữ kết hôn, cùng nhau xây dựng một gia đình thì sự bền vững của
quan hệ hôn nhân là mong muốn của những người vợ, người chồng, đây cũng là
mục đích của việc xây dựng gia đình mà pháp luật đặt ra. Tuy nhiên, trong nhiều
trường hợp, quan hệ hôn nhân do chịu sự tác động của nhiều yếu tố chủ quan và
khách quan, đã không giữ được ý nghĩa và giá trị như mong muốn ban đầu, cuộc
sống chung của vợ, chồng đã không còn hạnh phúc, nên pháp luật dự liệu khả năng
cho họ quyền được giải phóng khỏi quan hệ hôn nhân bằng việc ly hôn.
Thông thường, một vụ án hôn nhân gia đình cần giải quyết ba mối quan hệ
đó là quan hệ hôn nhân, quan hệ con chung và quan hệ về tài sản. Quan hệ tài sản
giữa vợ, chồng là quan hệ tài sản gắn liền với nhân thân, tồn tại trong thời kỳ hôn
nhân, không có tính đền bù ngang giá nên khi xảy ra tranh chấp thì việc phân chia
tài sản chung vợ, chồng là tương đối khó khăn, phức tạp, gây nhiều tranh cãi trong
các vụ giải quyết ly hôn tại các cấp Tòa án. Thực tế đã cho thấy các tranh chấp về
tài sản giữa vợ và chồng trong các vụ án ly hôn rất phức tạp, thường kéo dài, mất
nhiều thời gian, tiền của, công sức của các đương sự cũng như của các cơ quan tiến
hành tố tụng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là việc giải quyết
tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn chưa đúng pháp luật, chưa xác đáng,
chưa phù hợp với thực tế khách quan của quan hệ sở hữu do đó chưa bảo vệ được
quyền, lợi ích chính đáng của các đương sự.
Hiện nay cùng với xu thế phát triển của xã hội, số lượng các vụ án ly hôn có
7
tranh chấp về tài sản tăng lên, giá trị tài sản tranh chấp ngày càng lớn tạo ra rất
nhiều khó khăn và áp lực cho cơ quan tiến hành tố tụng. Một trong những vấn đề
người ta quan tâm nhất, không chỉ những cặp vợ chồng ly hôn mà hầu hết mỗi
người trong xã hội đó là vấn đề tranh chấp đất đai. Giá trị “tấc đất tấc vàng” càng
khiến cho người ta quan tâm hơn. Việc chấm dứt hôn nhân đa phần sẽ kéo theo
những vướng mắc của việc chia QSDĐ
Những năm gần đây, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường nên đời
sống xã hội cũng như kinh tế của người dân ngày càng được đảm bảo và nâng cao.
Song mặt trái của nền kinh tế thị trường đã dẫn đến nhiều người sống buông thả, coi
trọng vật chất, tình cảm giữa mọi người với nhau không còn mặn mà, được coi
trọng như trước. Giá trị tài sản lớn và sự coi trọng vật chất làm cho những tranh
chấp về tài sản giữa vợ và chồng trong các vụ án ly hôn có tính quyết liệt, căng
thẳng hơn, nên việc giải quyết cũng gặp nhiều khó khăn.
Là một huyện có mức sống trung bình so với cả nước song Côn Đảo cũng
chịu sự ảnh hưởng chung của xã hội. Những năm gần đây, số lượng các vụ tranh
chấp về chia quyền sử dụng đất của vợ chồng tăng nhanh về số lượng, phức tạp về
nội dung, nhiều vụ tranh chấp rất gay gắt, khiếu nại kéo dài gây nhiều khó khăn cho
các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như những người tham gia tố tụng. Hầu hết các
vụ án đều được giải quyết trong thời hạn luật định, thấu tình đạt lý, khách quan,
được sự đồng tình của người dân. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết vấn đề tài sản khi
ly hôn trong các vụ án hôn nhân gia đình còn gặp nhiều vướng mắc, bất cập do có
nhiều quan điểm nhận thức, đánh giá khác nhau nên vẫn còn một số vụ án bị cấp
trên cải sửa, hủy dẫn đến vụ án phải xét xử lại nhiều lần. Nguyên nhân thì có nhiều
nhưng phải kể đến các quy định của pháp luật còn chưa rõ ràng, một số quy định
còn chung chung, chưa có sự thống nhất từ các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
cá nhân thực thi pháp luật liên quan đến giải quyết tài sản của vợ chồng trong vụ án
ly hôn.
Với đề tài: “Giải quyết tranh chấp về chia tài sản là quyền sử dụng đất khi
vợ chồng ly hôn từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân huyện Côn Đảo, tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu", tác giả muốn giải quyết phần nào những vướng mắc trên
nhằm hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất là tài sản của
vợ chồng khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ vai trò quan trọng của gia đình trong xã hội nên việc nghiên cứu
về các tranh chấp trong quan hệ hôn nhân và gia đình luôn được quan tâm và chú ý,
được nhiều nhà nghiên cứu và các học giả đề cập.
Một số tài liệu chuyên khảo về hôn nhân và gia đình như: Giáo trình Luật
HN&GĐ Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật HN&GĐ của
khoa luật, Trường Đại học Cần Thơcác giáo trình này đều đề cập đến các kiến thức
pháp lý cơ bản và khái quát về tài sản chung vợ chồng. Bên cạnh đó, các bài viết
liên quan đến tài sản chung của vợ chồng như “Chế độ tài sản chung vợ chồng theo
Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Cừ; tác giả Đoàn Thị
Phương Diệp với “Nguyên tắc suy đoán tài sản chung trong Luật hôn nhân và gia
đình Việt Nam và Luật dân sự Pháp”; tác giả Nguyễn Văn Cừ - Ngô Thị Hường với
“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật hôn nhân và gia đình năm 2000”. Bài
viết “Trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với giao dịch dân sự”, tác giả Bùi
Thuỷ Nguyên - Tạp chí TAND xuất bản năm 2000. Nguyễn Thị Vĩnh - Luận văn
thạc sỹ, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007 – “Giải quyết tranh chấp về
QSDĐ của vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000”; Lê Thị Tuyết Chinh
- Luận văn thạc sỹ, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội 2014 – „Pháp luật về giải
quyết tranh chấp QSDĐ khi vợ chồng ly hôn ở Việt Nam”...
Ngoài ra, phải kể đến một số công trình nghiên cứu như “Chia tài sản chung
của vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000” của tác giả
Nguyễn Thị Lan; “Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân” của tác giả Nguyễn Hồng Hải; “Một số vấn đề chia tài sản của vợ chồng khi
ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000” của tác giả Nguyễn Thị Bích Vân; Nguyễn
Thị Thanh Xuân “Pháp luật về giải quyết tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất
khi ly hôn”, Nguyễn Thị Hạnh “Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật
Việt Nam – Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện”; Luận văn Thạc sĩ luật học
năm 2013 - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội của Nguyễn Thị Xuân về "Giải
quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại TAND qua thực tiễn huyện
Điện Bản, tỉnh Quảng Nam"; Luận văn Thạc sĩ luật học năm 2014 - Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội của Đinh Thị Minh Mẫn về "Giải quyết tranh chấp về chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn"; Bài viết: “Bảo đảm quyền của phụ nữ trong
lĩnh vực đất đai trong các Luật đất đai Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Nga Hội thảo nghiên cứu khoa học cấp Trường: “Bảo đảm quyền và thúc đẩy sự tham
gia của phụ nữ trong xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật”, Trường Đại học
Luật Hà Nội, 10/2016. Bài viết: "Quyền của phụ nữ theo pháp luật đất đai hiện
hành" của tác giả Nguyễn Thị Nga và Lê Thị Ngọc Mai, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, 4/2017;
Những công trình trên tiếp cận ở nhiều khía cạnh khác nhau về quyền tài sản
nói chung và QSDĐ của vợ và chồng, quyền của người phụ nữ trong lĩnh vực đất
đai, cũng như giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ và chồng. Các
công trình, bài viết nêu trên mang ý nghĩa sâu sắc và có tính kế thừa cao cho những
công trình nghiên cứu về sau. Kế thừa và phát huy những quan điểm pháp lý trong
các công trình nghiên cứu nêu trên, Luận văn “Giải quyết tranh chấp về chia tài
sản là quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn từ thực tiễn xét xử của Toà án nhân
dân huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu” mang lại cái nhìn chi tiết hơn, sâu
sắc hơn từ thực tiễn giải quyết tranh chấp QSDĐ khi ly hôn tại một Toà án cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn về tranh chấp chia tài sản là quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn tại Toà
án.
Trên cơ sở phân tích các quy định của, Luật đất đai 2013, Luật HN&GĐ năm
2014, Bộ luật dân sự năm 2015 cùng các văn bản pháp luật có liên quan để tìm hiểu
những quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp QSDĐ khi ly hôn của vợ
chồng. Đồng thời, từ thực tiễn giải quyết tranh chấp về chia tài sản là QSDĐ khi vợ
chồng ly hôn tại TAND huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu để đưa ra những
vướng mắc, bất cập của các quy định pháp luật trong quá trình áp dụng giải quyết
tranh chấp, từ đó kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về
vấn đề này.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Thứ nhất, nghiên cứu và chỉ ra những vấn đề lý luận về tranh chấp và giải
quyết tranh chấp về chia tài sản là QSDĐ của vợ chồng khi ly hôn;
Thứ hai, phân tích thực tiễn giải quyết tranh chấp chia tài sản là QSDĐ khi
vợ chồng ly hôn tại Toà án nhân dân huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;
Thứ ba, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
về chia tài sản là QSDĐ khi vợ chồng ly hôn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Thứ nhất, đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài “Giải quyết tranh chấp về chia tài sản là
quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn từ thực tiễn xét xử của Toà án nhân dân
huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu” là:
- Những quy định của pháp luật về tài sản chung của vợ chồng;
- Vấn đề tài sản là QSDĐ của vợ chồng;
- Vấn đề giải quyết tranh chấp về QSDĐ của vợ chồng khi ly hôn.
Tìm hiểu nguyên nhân của những tranh chấp về QSDĐ của vợ chồng khi ly
hôn thông qua thực tiễn xét xử tại Toà án nhân dân huyện Côn Đảo, từ đó đưa ra
một số giải pháp khắc phục cũng như phương hướng hoàn thiện pháp luật điều
chỉnh vấn đề này ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu xoay quanh các quy định của pháp
luật liên quan đến vấn đề tranh chấp về QSDĐ của vợ chồng khi ly hôn, bao gồm:
các chế định về tài sản chung hợp nhất, tài sản theo phần, tài sản có thể phân chia,
tài sản không thể phân chia quy định trong Bộ luật Dân sự; các quy định về quyền
sử dụng đất của vợ chồng quy định trong Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và Gia đình
và các quy định tố tụng có liên quan đến giải quyết tranh chấp tại Tòa ánThông qua
thực tiễn xét xử tại Toà án nhân dân huyện Côn Đảo để đưa ra những nhận xét, đánh
giá về thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật vào giải quyết tranh chấp, đồng thời
kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện nghiên cứu này, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cơ bản sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin;
- Ngoài ra, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
i) Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp đối chiếu …
được sử dụng tại Chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật giải
quyết chia tài sản là quyền sử dụng đất khi ly hôn;
ii) Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê,
phương pháp tổng hợp số liệu ... được sử dụng tại Chương 2 khi nghiên cứu thực
trạng giải quyết tranh chấp về chia tài sản là quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly
hôn tại Toà án nhân dân huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;
iii) Phương pháp bình luận, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn giải …
được sử dụng tại Chương 3 khi nghiên cứu giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
thi hành pháp luật về chia quyền sử dụng đất khi ly hôn từ thực tiễn giải quyết tranh
chấp tại Tòa án nhân huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;
6. nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn là một công trình nghiên cứu tương đối khoa học, đầy đủ và có
hệ thống về vấn đề liên quan đến việc giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng
khi ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 qua thực tiễn xét xử tại Toà
án nhân dân huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận, đề tài còn tìm hiểu thực tiễn áp dụng
pháp luật thông qua hoạt động xét xử tại địa phương, đồng thời đề xuất một số biện
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật để giải quyết những vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng pháp luật, nâng cao hiệu quả xét xử của TAND huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm ba Chương:
- Chương 1. Những vấn đề lý luận về tranh chấp và giải quyết tranh chấp tài
sản là quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn.
- Chương 2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp tài sản là quyền sử dụng đất khi
vợ chồng ly hôn tại tòa án nhân dân huyện Côn Đảo và các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động xét xử của tòa án về tranh chấp tài sản khi vợ chồng ly hôn.
- Chương 3. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh
chấp về tài sản là quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ L LUẬN VỀ TRANH CHẤP VÀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP VỀ CHIA TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA VỢ CHỒNG
KHI LY HÔN
1.1. Lý luận chung về tranh chấp chia tài sản là quyền sử dụng đất khi
vợ chồng ly hôn
1.1.1. Khái niệm tài sản chung của vợ chồng trong hôn nhân
Trong quá trình vợ chồng chung sống, ngoài tình cảm thì giữa vợ chồng còn
cần có tài sản chung để duy trì hôn nhân, đây được coi là một trong những điều kiện
không thể thiếu để duy trì mối quan hệ vợ, chồng.
Tài sản theo nghĩa Từ điển tiếng Việt là của cải, vật chất dùng vào mục đích
sản xuất và tiêu dùng, theo quy định tại Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:
“Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động
sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản
hình thành trong tương lai”.
Theo đó, tài sản chung của vợ chồng được hiểu là các tài sản (vật, tiền, giấy
tờ có giá, quyền tài sản hiện có hoặc hình thành trong tương lai thuộc quyền sở hữu
chung hợp nhất của vợ chồng, là hình thức sở hữu chung đặc biệt do vợ chồng cùng
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt vì nhu cầu chung của gia đình. Quan hệ tài sản này
xuất phát từ quan hệ hôn nhân, sự tồn tại của chế độ tài sản chung vợ chồng phụ
thuộc vào sự tồn tại của quan hệ hôn nhân và chấm dứt khi một trong hai vợ chồng
chết hoặc có bản án, quyết định của Tòa án cho vợ chồng ly hôn.
Do tính chất cộng đồng của hôn nhân và với vai trò là hạt nhân của gia đình
đòi hỏi giữa vợ và chồng phải có một lượng tài sản chung nhất định để bảo đảm các
chi phí cho cuộc sống chung và để thực hiện các chức năng xã hội cơ bản của gia
đình, đặc biệt trong việc chăm sóc giáo dục và bảo vệ các con. Dựa trên cơ sở đó,
kế thừa và phát triển Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 33 Luật
hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: " 1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài
sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa
lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn
nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà
vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ
chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau
khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa
kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo
đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. 3. Trong trường
hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài
sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung."
Có thể thấy, tài sản chung của vợ chồng là tài sản do vợ, chồng tạo ra do lao
động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu thập hợp pháp khác của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, tặng cho
chung và những tài sản vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung, quyền sử dụng đất của
vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Khác với tài sản
chung đơn thuần, tài sản chung vợ, chồng có nguồn gốc tạo ra từ thời kỳ hôn nhân,
có thể là do vợ, chồng lao động tạo ra hoặc từ những hành vi pháp lý diễn ra trong
thời kỳ hôn nhân (thỏa thuận tài sản riêng trở thành tài sản chung, thừa kế, tặng
cho...).
Từ quy định này có thể thấy, ngoài việc dự liệu căn cứ, nguồn gốc, thành
phần các loại tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, tại khoản 3, Điều 33 nhà
làm luật còn đưa ra nguyên tắc suy đoán để xác định đối với những tài sản mà vợ
chồng có tranh chấp nhưng các bên không đưa ra được căn cứ chứng minh cho việc
tài sản tranh chấp là tài sản thuộc sở hữu riêng của mình thì được coi là khối tài sản
chung của vợ chồng. Xuất phát từ cuộc sống hôn nhân của vợ chồng không phải
ngày một ngày hai mà kéo dài qua nhiều năm tháng, các loại tài sản hầu như sẽ
được sử dụng để đảm bảo cho đời sống gia đình mà không có sự phân biệt tài sản
chung, tài sản riêng “của anh - của tôi”. Do đó, khi phát sinh tranh chấp rất khó để
có thể xác định đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng. Vì vậy, nguyên tắc suy
đoán đảm bảo được sự công bằng trên cơ sở lợi ích chung của gia đình và vợ chồng.
Để đảm bảo cho nguyên tắc suy đoán được áp dụng một cách chính xác, khách
quan, các nhà làm luật đã dựa vào “thời kỳ hôn nhân” và nguồn gốc của các loại tài
sản. Vậy thời kỳ hôn nhân là gì?
Thời kỳ hôn nhân theo quy định tại khoản 13, Điều 3 Luật Hôn nhân gia
đình năm 2014 được xác định như sau: “Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian
tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm
dứt hôn nhân”.
Như vậy, “thời kỳ hôn nhân” được tính từ khi hai bên nam, nữ kết hôn (thời điểm
phát sinh quan hệ vợ chồng trước pháp luật); việc kết hôn đó được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền công nhận theo đúng thủ tục và các điều kiện luật định. Những
tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân (trừ tài sản riêng của vợ chồng)
đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Ví dụ: tiền lương của mỗi bên trước khi
kết hôn sẽ là tài sản riêng của người đó, nhưng sau khi kết hôn, tiền lương của mỗi
bên vợ chồng đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Việc xác định “thời kỳ
hôn nhân” có ý nghĩa vô cùng quan trọng để xác định đâu là tài sản chung của vợ
chồng.
Bên cạnh đó, Luật hôn nhân và gia đình đã xác định thời điểm hình thành và
nguồn gốc phát sinh tài sản chung của vợ chồng. Kể từ sau khi kết hôn, những tài
sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập hợp pháp của vợ chồng, tài sản mà vợ chồng mua
sắm được từ những thu nhập hợp pháp đều thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ
chồng mà không phụ thuộc vào công sức đóng góp của vợ chồng ít hay nhiều, có
lao động trực tiếp hay không. Quan điểm này đã được cha ông ta ghi nhận qua câu
nói “Của chồng công vợ”, tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết do hai vợ
chồng trực tiếp tạo ra hoặc tạo ra ngang bằng nhau. Tài sản chung có thể chỉ do vợ,
hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. Quy định này thể hiện sự gắn kết “Như
hai mà một” của quan hệ hôn nhân... Đây là điểm khác biệt của tài sản chung vợ
chồng so với các tài sản chung theo phần khác.
Tính hợp nhất trong việc sở hữu tài sản chung của vợ chồng còn được thể
hiện khi vợ, chồng chưa phân chia tài sản thì không xác định được tỷ lệ tài sản của
mỗi người. Khi hai bên thỏa thuận phân chia xong hoặc có quyết định phân chia của
Tòa án thì phần tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung mới được xác định.
Đây là điểm khác biệt đặc trưng của tài sản chung vợ, chồng so với các tài sản
chung theo phần.
Mặc khác, pháp luật còn quy định quyền và nghĩa vụ ngang nhau của vợ
chồng đối với việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt khối tài sản chung và mục đích
của việc sử dụng tài sản chung là nhằm đáp ứng nhu cầu chung của gia đình, đảm
bảo cho vợ chồng cùng nhau xây dựng gia đình và lao động tạo ra tài sản vì lợi ích
chung của gia đình. Có thể thấy, những quy định này là phù hợp với quan điểm,
truyền thống đạo đức của Việt Nam cũng như định hướng xây dựng mối quan hệ vợ
chồng bền vững của Đảng và Nhà nước ta.
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa tài sản chung của vợ chồng là
những tài sản được hình thành hoặc tạo ra phù hợp với những căn cứ xác lập tài sản
chung vợ chồng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
1.1.2. Khái niệm tài sản chung là QSDĐ của vợ chồng trong hôn nhân
Như ở phần trên đã phân tích, quyền tài sản cũng là một loại tài sản. Do đó,
quyền sử dụng đất một loại quyền tài sản cũng có thể trở thành tài sản chung của vợ
chồng. Do tính chất đặc thù của chế độ sở hữu đất đai ở Việt Nam: “Sở hữu toàn
dân mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu" [23, Điều 53] nên quyền sử dụng đất của
các chủ thể sử dụng đất cụ thể, trong đó có quyền sử dụng đất của vợ và chồng được
xác lập trên cơ sở được Nhà nước cho phép sử dụng thông qua các hình thức pháp
lý như: giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Ở khía cạnh pháp lý
này thì QSDĐ là những quyền năng mà Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu thông
qua công cụ pháp lý để quy định, thừa nhận cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
(người sử dụng đất) được hưởng, được làm trong quá trình sử dụng đất [22, tr.16].
Tuy nhiên, ở khía cạnh kinh tế, thì QSDĐ là quyền khai thác các lợi ích, các công
dụng và hoa lợi từ đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất để thỏa
mãn các nhu cầu khác nhau của mỗi chủ thể. Trong trường hợp này, QSDĐ được
tách ra khỏi quyền sở hữu và trở thành tài sản độc lập của các chủ thể sử dụng đất.
Chủ thể có quyền sử dụng đất hợp pháp có quyền khai thác, sử dụng và định đoạt
quyền sử dụng đất của mình theo ý chí và nguyện vọng của mình mà không trái với
quy định của pháp luật. Theo đó, quyền sử dụng đất được hình thành hợp pháp của
vợ và chồng thì đó là tài sản của vợ chồng và vợ chồng được quyền quyết định cách
thức khai thác, sử dụng và định đoạt đối với tài sản đó.
Theo khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 thì "Quyền sử dụng
đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường
hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông
qua giao dịch bằng tài sản riêng”.
Như vậy, có thể hiểu quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng được sở hữu sau
khi kết hôn trừ trường hợp việc sở hữu đó được thực hiện dưới hình thức thừa kế
riêng, được tặng cho riêng hoặc sử dụng tài sản riêng để giao dịch mua quyền sử
dụng đất, thì đều được coi là tài sản chung của vợ chồng. Theo đó, quyền sử dụng
đất chung của vợ chồng bao gồm:
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng mua bằng thu nhập do lao động, hoạt động
sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân.
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung.
- Quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc mỗi bên vợ hoặc chồng được
Nhà nước giao, kể cả giao khoán sau khi kết hôn;
- Quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc chỉ một bên vợ hoặc chồng
được Nhà nước cho thuê sau khi kết hôn;
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
- Quyền sử dụng đất mà các bên không chứng minh được đó là tài sản riêng
Với cách xác định trên về tài sản chung của vợ chồng là QSDĐ cho thấy,
nguồn gốc mà QSDĐ được xác định là tài sản chung của vợ chồng trước tiên phải là
tài sản đó được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. Sự kiện kết hôn làm phát sinh mối
quan hệ vợ chồng không chỉ dưới khía cạnh tình cảm, mà còn ở khía cạnh pháp lý
ràng buộc về quyền và nghĩa vụ lẫn nhau trong mọi mối quan hệ của đời sống xã
hội. Trong đó, dưới khía cạnh kinh tế, các tài sản - trong đó có QSDĐ được cả hai
vợ chồng cùng tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân hoặc được nhận thừa kế, tặng cho
chung thì chúng là của chung của cả vợ và chồng, mọi giấy tờ pháp lý đối với tài
sản đó phải được xác nhận của vợ chồng. Điều đó cũng đồng nghĩa rằng, mọi sự
định đoạt đối với tài sản là QSDĐ chung đó trong tất cả các quan hệ dân sự, kinh tế,
xã hội đều phải được sự đồng ý, thống nhất ý chí của cả vợ và chồng. Bên cạnh đó,
theo xu hướng mở, pháp luật còn ghi nhận kể cả những QSDĐ có được từ những
giao dịch riêng của vợ hoặc chồng, do được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời
kỳ hôn nhân, hoặc QSDĐ của vợ hoặc chồng có trước thời kỳ hôn nhân về nguyên
tắc chúng là tài sản riêng của vợ hoặc chồng, song vợ hoặc chồng đồng ý sáp nhập
vào khối tài sản chung của vợ chồng thì đó cũng được xác định QSDĐ là tài sản
chung của vợ chồng. Về vấn đề này, Luật Đất đai 2013 cũng đã ghi nhận: Quyền sử
dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất hoặc quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản chung của vợ
và chồng thì phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng vào Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, trừ trường hợp vợ và
chồng có thỏa thuận ghi tên một người.
Trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất là tài sản chung của vợ và chồng mà Giấy chứng nhận đã cấp chỉ ghi họ, tên
của vợ hoặc chồng thì được cấp đổi sang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất để ghi cả họ, tên vợ và họ, tên
chồng nếu có yêu cầu [26, Khoản 4 Điều 98].
Với những tiếp cận và phân tích nêu trên, có thể hiểu quyền sử dụng là tài
sản chung của vợ chồng như sau: Tài sản chung là QSDĐ của vợ chồng trong hôn
nhân là tài sản mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản do vợ
chồng thỏa thuận là tài sản chung.
1.1.3. Khái niệm tranh chấp về chia tài sản là quyền sử dụng đất hi vợ
chồng ly hôn
Tranh chấp về tài sản là quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn là một dạng
cụ thể của tranh chấp đất đai. Vì vậy, trước khi nghiên cứu khái niệm tranh chấp
thừa kế quyền sử dụng đất theo pháp luật thì chúng ta hãy tìm hiểu tranh chấp đất
đai là gì? Hiện nay có khá nhiều các tài liệu đưa ra khái niệm về tranh chấp đất đai.
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng: “Tranh chấp: bất đồng, trái ngược nhau”
[40, tr. 808]. Theo Giáo trình Luật đất đai của Đại học Huế: “Tranh chấp đất đai:
Đó là các mâu thuẫn, xung đột giữa các chủ thể sử dụng đất khi họ cho rằng các
quyền và lợi ích hợp pháp về quyền sử dụng đất của mình bị xâm hại” [7, tr.341342]. Tương tự, Giáo trình Luật Đất đai của Viện Đại học Mở Hà Nội cũng giải
thích: “Tranh chấp đất đai là các mâu thuẫn, xung đột giữa các chủ thể sử dụng đất
khi họ cho rằng, các quyền và lợi ích hợp pháp về quyền sử dụng đất của mình bị
xâm hại” [9, tr. 271]. Theo Luật Đất đai năm 2013: “Tranh chấp đất đai là tranh
chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong
quan hệ đất đai” [26, Khoản 24 Điều 3].
Từ nhiều cách tiếp cận trong các tài liệu khác nhau nêu trên song đều có
chung một nhận định rằng, tranh chấp đất đai trước tiên được thể hiện bằng hình
thức bề ngoài đó là những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng của hai hoặc nhiều bên
trong quan hệ đất đai. Ở khía cạnh nội dung, tranh chấp đó là tranh chấp về
quyền, lợi ích hoặc thậm chí là nghĩa vụ của các chủ thể đối với tài sản là quyền
sử dụng đất khi họ cho rằng, chủ thể bên kia đã xâm hại tới quyền và lợi ích hợp
pháp về quyền sử dụng đất hoặc việc không thực hiện mà lẽ ra phải thực hiện
nghĩa vụ đối với QSDĐ của một chủ thể làm tổn hại tới lợi ích, QSDĐ hợp pháp
của phía bên kia.
Tranh chấp về tài sản là QSDĐ khi vợ chồng ly hôn cũng có những biểu hiện
của những bất đồng, mâu thuẫn, xung đột về lợi ích liên quan đến đất đai của vợ
chồng song sự khác biệt đó là tranh chấp đó nảy sinh từ một sự kiện pháp lý là vợ
chồng ly hôn.
Trong thực tế, khi đã thiết lập mối quan hệ vợ chồng, cùng chung sống với
nhau xây dựng gia đình, chăm sóc con cái, điều các cặp vợ chồng luôn mong muốn
nhất đó là gia đình tồn tại bền vững, hạnh phúc. Tuy nhiên, trong cuộc sống vợ
chồng, khó tránh khỏi những mâu thuẫn mà nếu vợ chồng không cùng giải quyết thì
sẽ dẫn đến những rạn nứt, đỗ vỡ có thể dẫn đến ly hôn. Ly hôn là mặt trái của hôn
nhân nhưng đó lại là mặt không thể thiếu khi hôn nhân tan vỡ. Khi đời sống vợ
chồng mâu thuẫn trầm trọng thì ly hôn là sự cần thiết cho cả hai, vì nó giải phóng
- Xem thêm -