Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản thực trạng và giải pháp ...

Tài liệu Giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản thực trạng và giải pháp

.DOC
60
249
84

Mô tả:

Lời cảm ơn Đe hoàn thành khóa luận tốt nghiệp cuối khóa, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, em đã nhận được sự giúp đờ của Hội đồng khoa học Luật, các Thầy giáo, Cô giáo trong tố bộ môn Luật Dân sự; cán bộ nhân viên Tòa án Nhân dân Tỉnh Nghệ An. Đặc biệt là sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình, chu đáo của Cô giáo - Thạc sỹ Nguyễn Thị Thanh. Xin trân trọng cảm ơn Cô giáo - Thạc sỳ Nguyễn Thị Thanh - người trực tiếp hướng dẫn khóa luận, xin chân thành cảm ơn Hội đồng khoa học Luật, các Thầy giáo, Cô giáo trong tố bộ môn Luật Dân sự, cán bộ nhân viên Tòa án nhân dân Tỉnh Nghệ An đã tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình triển khai đề tài khóa luận. Với năng lực và kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế, đề tài sẽ không tránh khỏi thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được góp ý kiến của của Hội đồng khoa học Luật, các Thầy giáo, Cô giáo cũng như những người quan tâm đến vấn đề này. Xin chân thành cảm ơn! Vinh, tháng 5 năm 201 ỉ Sinh viên Hoàng Thị Thúy Hà NHỮNG TỪ VIỂT TẮT TRONG ĐỀ TÀI Bộ luật dân sự dụng BLDS TTLT BLTTDS TCTD Thông tư liên tịch Bộ luật tố tụng dân sự Tổ chức tín MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU....................................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài và tính cấp thiết của đề tài..................................................... 2 2. Tình hình nghiên cứu............................................................................................2 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cún của đề tài.........................................2 4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................3 5. Những đóng góp mới của khóa luận.....................................................................3 6. Ket cấu của khóa luận...........................................................................................3 NỘI DUNG................................................................................................................4 Chương 1 : NHỮNG VẤN ĐÈ LÝ LUẬN cơ BẢN VÈ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN............................................................................................................................4 1.1.Khái niệm, đặc điểm, phân loại họp đồng vay tài sản...........................................4 1.1.1. Khái niệm.........................................................................................................4 1.1.2. Đặc điểm hợp đồng vay tài sản.........................................................................5 1.1.3. Phân loại họp đồng vay tài sản.........................................................................6 1.2.Họp đồng vay tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. . .6 1.2.1. Quy định về hợp đồng vay tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam thời kỳ phong kiến......................................................................................................6 1.2.2. Quy định về họp đồng vay tài sản trong pháp luật Dân sự Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc......................................................................................................8 1.1.3. Quy định về họp đồng vay tài sản trong pháp luật Dân sự Việt Nam từ 1945 đến nay..........................................................................................................9 1.3. Quy định về họp đồng vay tài sản trong pháp luật một số nước trên Thế giới...................................................................................................................12 Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ THỰC TIẺN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐÒNG VAY TÀI SẢN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN .................................................................................................................................15 2.1. Thực trạng các quy định của BLDS năm 2005 về hợp đồng vay tài sản .... 15 2.1.1. Quy định pháp luật về giao kết hợp đồng vay tài sản......................................15 2.1.2. Nội dung hợp đồng vay tài sản.......................................................................17 2.1.3. Hiệu lực hợp đồng vay tài sản.........................................................................26 2.1.4. Thực hiện hợp đồng vay tài sản......................................................................28 2.1.5. Họ, hụi, biêu, phường.....................................................................................30 2.2. Thực giải quyết các tranh chấp về họp đồng vay tài sản tại Tòa án nhân dân....35 2.2.1. Tình hình giải quyết tranh chấp họp đồng vay tài sản tại Tòa án Nhân dân............................................................................................................................35 2.2.2. Đánh giá tình hình giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản tại Tòa án nhân dân hiện nay................................................................................................43 Chương 3: MỘT SÓ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐÒNG VAY TÀI SẢN TẠI TÒA ÁN NHÂN DẦN...................46 3.1. Sự cần thiết đối với việc hoàn thiện quy định pháp luật dân sự về họp đồng vay tài sản........................................................................................................46 3.2. Những yêu cầu đối với việc hoàn thiện các quy định về họp đồng vay tài sản.......................................................................................................................48 3.3. Những kiến nghị và giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp họp đồng vay tài sản..........................................49 3.3.1. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật...................................................49 3.3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản tại Tòa án.......................................................................................56 KẾT LUẬN..............................................................................................................58 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài và tính cấp thiết của đề tài. Chúng ta không thể phủ nhận vai trò đặc biệt của họp đồng trong đời sống hiện đại. Không phải ngẫu nhiên mà trong hệ thống pháp luật của bất kỳ quốc gia nào chế định hợp đồng luôn được coi là một chế định quan trọng vào bậc nhất. Bởi họp đồng tạo ra những tiền đề pháp lý cho sự vận động linh hoạt các giá trị vật chất trong xã hội. Hợp đồng vay tài sản có vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, đặc biệt trong bổi cảnh kinh tế ngày càng phát triến, các giao lưu dân sự, thương mại ngày càng đa dạng. Các quy định về hợp đồng vay tài sản được quy định trong BLDS đã góp phần đảm bảo sự on định của xã hội, đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng vay. Tuy nhiên, các quy định trong pháp luật dân sự quy định về hợp đồng vay tài sản còn nhiều vấn đề cần giải quyết và thực tiễn áp dụng pháp luật không tránh khỏi những vướng mắc. Trong thực tế, tranh chấp về hợp đồng vay tài sản ngày càng gia tăng. Trong bối cảnh kinh tế xã hội ngày càng phát triến, yêu cầu hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng vay tài sản nhằm đảm bảo lợi ích cho các chủ thế được đề ra một cách cấp thiết hơn. Từ đó tác giả nhận thấy, việc nghiên cứu quy định của pháp luật dân sự về hợp đồng vay tài sản, thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản tại Toà án nhân dân đế có một nhận thức toàn diện về vấn đề này là rất cần thiết. Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả làm rõ các vấn đề lý luận về hợp đồng vay tài sản, phân tích thực trạng trong công tác xét xử hợp đồng vay tài sản của Toà án nhân dân tù' đó đề ra các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật. Tuy nhiên với kiến thức còn nhiều hạn chế và sự eo hẹp về thời gian nghiên cứu nên khóa luận này không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp bô ích đê khóa luận được hoàn thiện hơn. 2.Tình hình nghiên cứu. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế- xã hội thì vấn đề về hợp đồng vay tài 1 sản ngày càng phức tạp và có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. BLDS năm 1995 cũng như BLDS năm 2005 đã đề cập đến họp đồng vay tài sản một cách có hệ thống. Tuy nhiên chưa có một công trình nào nghiên cún một cách toàn diện và đầy đủ về vấn đề này. Đó cũng là lý do mà tác giả chọn đề tài này. Đã có nhiều bài viết liên quan như “ Chế định hợp đồng vay tài sản” của Trần Văn Biên, “ về cách tính lãi suất trong các hợp đồng vay tài sản” của Trương Thanh Đức, “Hậu quả pháp lí của hợp đồng vay tài sản bị vô hiệu một phần” của Thanh Tuệ, "Lãi suất của hợp đồng vay tiên và ảnh hưởng của nó đên nên kinh tê hiện nay” của Dương Thu Phương ... Đây là những vấn đề nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau của hợp đồng vay tài sản, là cơ sở tham khảo để tác giả hoàn thành tốt đề 3.Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài. Trong giới hạn nghiên cứu của khóa luận, tác giả tập trung nghiên cún tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Nội dung khóa luận là rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết tranh chấp họp đồng vay tài sản theo quy định của luật dân sự Việt Nam. Mục đích của khóa luận làm sáng rõ nhừng quy định của pháp luật dân sự hiện hành về họp đồng vay tài sản và thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản tại Tòa án nhân dân. Từ đó đưa ra một số kiến nghị và giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vay tài sản theo quy định của pháp luật. Nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận đó là thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả tập trung làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng vay tài sản cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng vay tài sản. Từ đó đề ra các giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và việc áp dụng pháp luật tại các cấp Tòa án về vấn đề này. 4. Phương pháp nghiên cún. Khoá luận được sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp lịch sử, so sánh, phân tích, 2 tổng hợp, quy nạp và diễn dịch đế phục vụ cho hoạt động nghiên cún khoá luận. 5. Những đóng góp mới của khóa luận. Khóa luận làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản của hợp đồng vay tài sản: khái niệm, đặc điếm, thực trạng các quy định của pháp luật về hợp đồng vay tài sản tại BLDS năm 2005. Bên cạnh đó, tác giả phân tích thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án nhân dân về hợp đồng vay tài sản theo quy định tại BLDS năm 2005. Thông qua đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng vay tài sản trong xu hướng BLDS năm 2005 đang có sự thay đổi và bố sung. 6. Kết cấu của khóa luận. Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm ba chương, tám tiết. Cụ thể là: Chương /: Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng vay tài sản. Chương 2: Các quy định của pháp luật về họp đồng vay tài sản và thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp về họp đồng vay tài sản tại Tòa án nhân dân. Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vay tài sản. NỘI DUNG Chưo’ng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN cơ BẢN VÈ HỢP ĐỒNG VAY TÀĨ SẢN 1.1. Khái niệm, đặc điếm họp đồng vay tài sản. /. /. 1. Khái niệm. Trong cuộc sống hàng ngày đế giải quyết những khó khăn tạm thời về kinh tế cũng như đáp ứng nguồn vốn đế sản xuất kinh thì họp đồng vay tài sản là phương tiện pháp lí đế thỏa mãn các nhu cầu đó. Nhà nước đã tạo điều kiện cho nhân dân vay vốn của ngân hàng với mức lãi suất phù hợp, các hộ nông dân nghèo có thế phát 3 triến được sản xuất kinh doanh. Mặt khác, nhân dân vay, mượn tài sản của nhau đế tiêu dùng cho những việc cần thiết trong gia đình hoặc để kinh doanh là việc làm phổ biến và có ý nghĩa cần được Nhà nước khuyến khích. Theo quy định tại Điều của BLDS năm 2005 thì “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khỉ đên hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đủng so lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định ”. Tài sản ở đây hiểu theo định nghĩa của BLDS năm 2005 là: “Vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” (quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ). Quy định như vậy là xuất phát tù' thực tế không phải bất cứ một hợp đồng vay tài sản nào cũng phải trả lãi mà chỉ khi các bên có thỏa thuận về một mức lãi suất nhất định hoặc pháp luật có quy định thì bên vay mới phải trả lãi suất. 1.1.2. Đặc điếm hợp đồng vay tài sản. Họp đồng vay tài sản là một dạng thức trong hợp đồng dân sự nên nó vay tài sản vừa có nhừng đặc điếm chung của hợp đồng dân sự vừa có những đặc điểm đặc trang. Đó là: về phương diện chủ thế: Tham gia ký kết và thực hiện hợp đồng vay tài sản bao gồm 2 bên: Bên cho vay và bên đi vay. Bên cho vay trong họp đồng vay tài sản là các tố chức, cá nhân có tài sản hoặc có đủ điều kiện theo luật định đối với những hợp đồng tín dụng. Bên đi vay là những cá nhân, tố chức cần đến sự giúp đỡ về vật chất của bên cho vay. về đổi tượng của hợp đồng vay tài sản: Thông thường, đối tượng của hợp đồng vay tài sản là một khoản tiền. Tuy nhiên, trong thực tế, đối tượng của hợp đồng cho vay có thế là vàng, kim khí, đá quý hoặc một số lượng tài sản khác. Đối tượng của hợp đồng vay tài sản được chuyển tù' bên cho vay sang bên vay làm sở hữu. Bên vay có quyền định đoạt đối với tài sản vay. Khi hết hạn của hợp đồng vay tài sản, bên vay có nghĩa vụ trả cho bên kia một tài sản khác cùng loại với tài sản đã vay hoặc số tiền đã vay. 4 Ngoài ra, họp đồng vay tài sản có những đặc điểm pháp lý sau đây: Thứ nhất, hợp đồng vay tài sản thường là hợp đồng đơn vụ. Họp đồng đơn vụ là họp đồng mà trong đó chỉ có một bên có nghĩa vụ, bên kia chỉ hưởng quyền mà không thực hiện nghĩa vụ gì. Xét về nguyên tắc, hợp đồng cho vay là đơn vụ đối với những trường họp cho vay không có lãi suất, bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay phải hoàn trả vật cùng loại tương ứng với số lượng, chất lượng của tài sản cho bên cho vay. Bên vay không có quyền đối với bên cho vay. Tuy nhiên, đối với hợp đồng cho vay có lãi suất thì bên cho vay có nghĩa vụ chuyển tiền đúng thời hạn, nếu vi phạm phải chịu trách nhiệm dân sự. Thứ hai, họp đồng vay tài sản là họp đồng chuyển quyền sở hữu đối với tài sản từ bên cho vay sang bên vay, khi bên vay nhận tài sản. Vì vậy bên vay có toàn quyền đối với tài sản vay, trù' trường hợp vay có điều kiện sử dụng. 1.1.3. Phân loại họp đồng vay tài sản. Theo quy định tại các Điều 477 và Điều 478 BLDS năm 2005 thì hợp đồng vay tài sản gồm có 02 loại là hợp đồng vay tài sản không có kỳ hạn và hợp đồng vay tài sản có kỳ hạn. Hợp đồng vay tài sản không có kỳ hạn là hợp đồng không thỏa thuận về kỳ hạn, bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay thực hiện hợp đồng bất kỳ thời điếm nào. Trong hợp đồng vay không có kỳ hạn bao gồm: Hợp đồng không kỳ hạn không có lãi và hợp đồng vay không kỳ hạn có lãi. Họp đồng vay tài sản có kỳ hạn là hợp đồng có thỏa thuận về kỳ hạn. Trong hợp đồng vay tài sản có kỳ hạn bao gồm hai loại là hợp đồng vay có kỳ hạn không có lãi và họp đồng vay có kỳ hạn có lãi. 1.2. Họp đồng vay tài sản trong pháp luật dân sụ- Việt Nam qua các thòi kỳ lịch sử. 1.2.1. Quy định về hợp đồng vay tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam thời kỳ phong kiến. về mặt pháp luật, dưới thời Lê, các quy định về khế ước được nằm trong bộ Quốc Triều Hình luật. Một trong nhừng khế ước tiêu biểu, phổ biến trong xã hội 5 phong kiến, đó là khế ước vay nợ. Qua nghiên cứu một số quy định trong Quốc Triều hình luật thì thấy rõ nguyên tắc phải thực hiện đúng cam kết đã vay là phải trả đủ. Ví dụ như quy định: bên vay là hai vợ chồng, thì hai người này phải trả bằng của nổi. Neu của nối không đủ để trả hoặc không có của nổi để trả cho bên cho vay, thì số nợ được chia làm hai phần bằng nhau, cụ thể: phần nợ của người chồng được trả từ tài sản của người chồng, phần nợ của người vợ được trả từ tài sản của người vợ. Pháp luật từ thế kỷ XV đã dự liệu tới khả năng vợ chồng bị khánh kiệt thì phần nợ vẫn còn đó và cha mẹ, họ hàng không phải trả thay. Bên cho vay có quyền đòi một phần nợ, nếu chồng chết thì đòi vợ và ngược lại nhưng không được đòi cha mẹ, họ hàng, anh em. Qua đó ta thấy nguyên tắc ai vay, người đó phải trả và không chuyển nợ sang cho người thân thích. Đồng thời Bộ luật này cũng có nhừng chế tài đối với hành vi gian dối trong thực hiện họp đồng vay: “nợ đã trả rồi mà còn cố ỷ không trả văn tự, hay nói là văn tự đã đánh mat, mà không câp giây làm băng cho người trả nợ, thì xử phạt 50 roi, biếm một tư. Đã giao giấy mà làm bang rồi mà lại đem văn tự đòi nợ lân thứ hai, thì xử phạt 50 roi, biếm một tư và bôi thường gấp đôi sổ tiền nợ cho người đã trả nợ” (Điều 589 Bộ Quốc triêu Hình luật). Neu người vay nợ trốn mất, thì người đứng bảo lĩnh phải trả thay tiền gốc, nếu trong văn tự có nói người nào trá thay thì người đó phải trả như người mắc nợ, nếu kẻ mắc nợ có con thì được đòi con. Theo Điều 588: nếu chủ nợ đế quá hạn 30 năm đối với người trong họ, 20 năm đổi với người ngoài họ mà không đòi được nợ, thì bị mất đòi bên vay trả phải trả nợ. Đây là một chế định về thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ theo cách hiếu hiện nay. Dưới triều Nguyễn, sau khi lên ngôi năm 1802, Vua Gia Long đã chỉ dụ cho các đại thần xem xét lại Bộ luật Hồng Đức và Luật Đại Thanh cua Trung Quốc để soạn ra bộ luật thích hợp. Năm 1812, Bộ Hoàng Việt Luật Lệ (còn gọi là Bộ luật Gia Long) được ban hành. Trong Hoàng Việt luật lệ pháp luật chỉ quy định một số khế ước quan trọng, trong đó có khế ước cho vay. Đối với sự vay nợ đơn thuần, hình thức của khế ước có thể chỉ là một sự vay miệng, không làm giấy tờ, nếu số tiền hoặc số thóc cho vay 6 không lớn, nhất là vay ngắn hạn, tiền lãi trả mỗi ngày hoặc trả cùng với số vốn khi đáo hạn. Hoàng Việt Luật Lệ cũng có những quy định về chế tài dân sự khi vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Ví dụ tại Điều 134 Hoàng Việt Luật lệ, khi đáo hạn nếu người thụ trái không trả nợ họ sẽ bị phạt tùy theo số tiền nợ và sự chậm trả nợ, nhưng bao giờ cũng cho họ khất 1 hạn là 3 tháng đế thi hành các nghĩa vụ đã cam kết trong khế ước. Hoặc tại Điều 23 Hoàng Việt Luật lệ quy định tiền phạt, tiền tịch thu, tiền bồi thường, tiền thiếu nợ đối với công quỹ hay đối với tư gia. Đối với tư gia nếu số tiền thiếu nợ quá 30 lạng bạc, có thế cầm tù đương sự trong thời hạn hơn một năm để cưởng bách trả cho chủ. Quá hạn một năm nếu quả thật đương sự không còn khả năng đế hoàn trả số tiền thiếu thì tâu lên Vua để tùy Vua định liệu. Trường họp số tiền không tới 30 lạng bạc, sau khi người thụ trái bị tạm giữ một năm, nếu quả thật họ không có đủ khả năng, họ sẽ không bị đòi nợ nữa mà chỉ phải chịu trừng phạt theo quy định của pháp luật. Dù chưa quy định một cách có hệ thống nhưng pháp luật phong kiền bước đầu đã ghi nhận khế ước vay. Pháp luật đã quy định chi tiết các trường hợp của hợp đồng vay tài sản: về hình thức, về chủ thế, về thời hạn cũng như chế tài áp dụng khi một trong các bên không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ. Đó cũng là sự tiến bộ của pháp luật Việt Nam. 1.2.2. Quy định về hợp đồng vay tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc. Thời Pháp thuộc, lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, luật dân sự được ban hành với tư cách là một ngành luật độc lập. Các bộ luật trong thời kỳ này gồm có Bộ Dân Luật Giản yếu năm 1883, Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 và Bộ Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật năm 1936 - còn được gọi là Bộ Dân luật Trung Kỳ. Nhìn chung, các bộ luật này chịu ảnh hưởng trục tiếp của Bộ dân luật Pháp 1804, nhưng có nhiều quy định được sửa đổi cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của Việt Nam. 7 Theo quy định của pháp luật thời Pháp thuộc họp đồng vay tài sản được ghi nhận trong bộ luật, tuy chưa đầy đủ. Ví dụ như tại Bộ Dân luật giản yếu 1883 có quy định về lãi suất trong hợp đồng cho vay. Theo đó, trong hợp đồng vay, chủ cho vay chi được ăn lời mỗi năm mười hai phần trăm, tương đương cho vay một trăm đồng bạc, mỗi năm ăn lời mười hai đồng. Trong Bộ Dân luật Bắc kỳ 1931, tại Quyển thứ hai, Thiên thứ hai, chương TX - Nói về khế ước lập hội có Điều 1204 quy định: “Phàm những hội đế dành tiền và những hội cho vay lẫn nhau, như chơi họ, hội hiếu hỉ, hội tư văn, là tuân theo dân luật, tục lệ, cùng khế ước của người đương sự lập ra”. Hay “Thế lệ luật này nếu không trái gì với luật, lệ hay tục riêng về việc thương mại, thời cũng đem thi hành đối với các hội buôn. Đối với các hội đế dành tiền và nhừng hội cho vay lẫn nhau như chơi họ cũng vậv” (Điều 1435 Bộ Hoàng việt Trung kỳ hộ luật 1936-1939). Các quy định về hụi, họ, biêu phường cũng được quy định từ rất sớm. Bộ luật dân sự Bắc kỳ đã quy định như sau: “phàm những hội đế dành tiền và những hội cho vay lẫn nhau như chơi họ, hội hiếu hỉ, hội tư văn là tuân theo dân luật tục lệ, cùng khế ước của người đượng sự được lập ra” (Điều 1204) Bộ Luật Việt Trung kỳ hộ luật cũng ghi nhận tại Điều 1435 “thế lệ luật này nếu không trái gì với luật lệ hay tục riêng về việc thương mại, thời cũng đem thi hành đối với các hội buôn. Đối với các hội đế dành tiền và những hội cho vay lẫn nhau như chơi họ cũng vậy”. 1.2.3. Quy định về hợp đồng vay tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam từ sau năm 1945 đến nay. Thời kỳ nước ta mới dành được độc lập chưa có điều kiện ban hành văn bản pháp luật để thay thế nhừng bộ luật của chế độ cũ, Nhà nước thời bấy giờ đã cho phép tạm sử dụng một số luật lệ đã ban hành ở Bắc - Trung - Nam với nguyên tắc: những luật lệ ấy không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa. Có nghĩa là ba văn bản pháp luật: Dân luật giản yếu Nam kỳ 1883, Dân luật Bắc kỳ 1931 và Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật 1936 được tiếp tục áp dụng. Tuy nhiên, trong thực tiễn xuất hiện nhiều quy định trong bộ luật cũ không phù họp với bản chất của Nhà nước mới, nên ngày 22/ 5/1950, Chủ 8 tịch Hồ Chí Minh đã ký sẳc lệnh 97/SL “Sửa đối một số quy lệ và chế định trong dân luật”, với các nguyên tắc mới là: + Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành xử nó đúng với quyền lợi của nhân dân; + Người ta chỉ hưởng dụng và sử dụng các vật thuộc quyền sở hữu của mình một cách họp pháp và không gây thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân; + Người đàn bà có chồng có toàn năng lực về một hộ; + Khi lập ước mà có sự tốn thiệt do sự bóc lột của một bên vì điều kiện kinh tế của hai bên chênh lệch thì khế ước đó có thế bị coi là vô hiệu. Sau khi có Hiến pháp mới 1959, TANDTC đã ra Chỉ thị số 772/CT- TATC về việc đình chỉ áp dụng luật lệ của đế quốc, phong kiến, ở Miền Nam, tháng 121972, chính phủ Nguyễn Văn Thiệu cũng công bố thi hành BLDS của chính quyền Sài Gòn. Sau khi thống nhất đất nước, Nhà nước ta tiếp tục ban hành các văn bản pháp luật quy định rõ hơn về các giao dịch dân sự trong đó có các văn bản pháp luật quy định về hợp đồng. Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, pháp luật dân sự phát triển mạnh mẽ, nhiều đạo luật quan trọng ra đời đã tạo nên khung pháp lý cho các hoạt động giao dịch dân sự nói chung và họp đồng phát triển. Ví dụ như việc ban hành Pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991. Theo Pháp lệnh họp đồng dân sự 1991, về nguyên tắc, hợp đồng dân sự được giao kết theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, không trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Pháp lệnh không quy định cụ thể về hợp đồng vay tài sản mà chỉ quy định chung những vấn đề của họp đồng dân sự như: điều kiện có hiệu lực; giao kết, sửa đổi, bổ sung, thực hiện họp đồng dân sự... ở thời kỳ này còn có sự phân tách họp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế dựa trên căn cứ là mục đích giao kết hợp đồng và chủ thế giao kết hợp đồng có đăng ký kinh doanh hay không. Họp đồng kinh tế được điều chỉnh bởi Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989. Đen năm 1995, BLDS được ban hành và có hiệu lực kể tù' ngày 01/07/1996 9 đồng thời chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh Hợp đồng dân sự 1991 là một bước tiến quan trọng trong lĩnh vực lập pháp của nước ta. BLDS có tầm quan trọng “sau hiến pháp” điều chỉnh các quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp, làm nền tảng và định hướng cho việc phát triến các quan hệ dân sự, kinh tế. Quy định về hợp đồng vay tài sản đã được quy định trong phần quy định về hợp đồng BLDS năm 1995 từ Điều 467 đến Điều 475. Ke từ sau khi có BLDS, về cơ bản chúng ta áp dụng các quy định trong đó đế điều chỉnh các quan hệ hợp đồng dân sự phát sinh sau khi BLDS ra đời. Tuy nhiên thực tiễn giải quyết tranh chấp dân sự tại Tòa án còn nhiếu phức tạp, nhiều điều khoản còn chưa phù hợp thực tế cuộc sống của nhân dân. Đe khắc phục vấn đề này Nhà nước đã ban hành một số văn bản quan trọng như: Nghị quyết số 58/1998/NQƯBTVQH ngày 20/08/1998 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/07/1991; Nghị quyết số 01/2003 ngày 10/04/2003 của Hội đồng thẩm phán TANNDTC về hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 02/2004/NQ/HĐTP ngày 10/08/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình. BLDS năm 1995 ra đời nhưng Pháp lệnh hợp đồng kinh tế vẫn có hiệu lực. Sau đó, Luật Thương mại ra đời (năm 1997) dẫn tới tình trạng tách rời chế định họp đồng dân sự và hợp đồng thương mại, việc áp dụng các nguyên tắc của dân luật đế giải quyết các tranh chấp hợp đồng phát sinh không được áp dụng ở nước ta. Điều này có điểm khác với các nước trên thế giới theo truyền thống civil law. Để khắc phục tình trạng chưa thống nhất trong việc áp dụng pháp luật, nhằm hoàn thiện hơn các quy định pháp luật dân sự nói chung cũng như về giao dịch dân sự nói riêng, BLDS năm 2005 ra đời. Có thế nói BLDS lần này có nhiều điểm ưu việt hơn, vì đã xóa bỏ được nhừng điểm chưa hợp lý trong các quy định luật đồng thời tiếp thu được những tinh hoa của pháp luật trước đó và pháp luật quốc tế. Từ 1995 đến nay chúng ta áp dụng quy định về hợp đồng vay tài sàn tại BLDS 10 năm 1995 và BLDS năm 2005. về cơ bản quy định của BLDS năm 2005 về họp đồng vay tài sản giống với BLDS năm 1995. Điểm khác biệt trong quy định về hợp đồng vay tài sản đó là quy định về tính lãi suất. BLDS năm 1995 quy định: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 50% của lãi suất cao nhất do Ngân hàng nhà nước quy định đoi với các loại cho vay tương ứng”. Đen BLDS năm 2005 có sửa đối như sau: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bo đoi với các loại cho vay tương ứng". BLDS năm 2005 là đạo luật chung điều chỉnh quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát sinh trong lĩnh vực quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và cũng chấm dứt tình trạng chế định hợp đồng dân sự và thương mại tách biệt. Đối với một số loại hợp đồng đặc thù ngành luật thương mại sẽ áp dụng luật chuyên ngành trước khi áp dụng nguyên tắc chung của luật dân sự để giải quyết. Tuy nhiên Bộ luật vẫn còn những điểm chưa hợp lý cần phải được xem xét tiến tới việc bố sung, sửa đổi cho hoàn thiện hơn. 1.3. Quy định về họp đồng vay tài sản trong pháp luật một số nước trên Thế giới. Hầu hết BLDS của các nước trên thế giới đều có quy định về hợp đồng vay tài sản vì đây là loại hợp đồng phố biến và thường xuyên được sử dụng. Trong pháp luật dân sự Pháp, cho vay là một vấn đề thực tại: Hợp đồng được giao kết bằng cách chuyến giao tài sản từ người cho vay sang người vay. Cho đến khi chuyến giao tài sản, các thỏa thuận đạt được giữa hai bên về việc cho vay chỉ mang tính chất của một lời hứa cho vay. Neu đã hứa mà lại không phát vay, người hứa cho vay chỉ có thể buộc bồi thường thiệt hại. Luật Việt Nam không coi hợp đồng vay tài sản là hợp đồng thực Pháp luật của Pháp quy định về lãi suất cho vay: Lãi vay phải được thỏa thuận bằng văn bản, dù hợp đồng vay là hợp đồng thực tại và có thể được chứng minh bằng mọi phương tiện. Không có văn bản, thỏa thuận về lãi vay vô hiệu và hợp đồng 11 vay được thực hiện với lãi suất do pháp luật ấn định, trừ trường hợp người vay tự nguyện trả lãi theo thỏa thuận mà không có kiện cáo. Điều này khác với quy định của BLDS của Việt Nam về hình thức hợp đồng vay tài sản. Pháp luật quy định: người vay mà không có trả lãi, thì người cho vay có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng và yêu cầu hoàn trả ngay lập tức cả nợ gốc và tiền lãi trên nợ gốc tính đến thời điếm đình chỉ. Song, nếu nợ gốc được hoàn trả theo ý chí của một bên, thì bên này phải thông báo cho bên kia biết trước trong một thời gian họp lý (BLDS Điều 474 khoản 2). Neu họp đồng vay không có kỳ hạn và không có lãi, thì các bên có thể thỏa thuận về việc một bên có thể đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng mà không cân thông báo trước (BLDS Điều 474 khoản 1 ). Ngoài ra trong luật của Pháp, điều khoản quy đối tù' tiền thành tài sản khác trong hợp đồng vay chỉ được thừa nhận là có giá trị, nếu vật quy đổi có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động nghề nghiệp hoặc hoạt động đầu tư của người vay hoặc của người cho vay hoặc với mục đích sử dụng tài sản vay. Ví dụ, tiền phát vay cho người kinh doanh ngành ăn uống được thỏa thuận quy đổi theo giá của những chai nước khoáng. Có nghĩa rằng các bên trong hợp đồng vay có kỳ hạn mà không có lãi chỉ có thế thỏa thuận về việc trả lãi đối với nợ quá hạn với nội dung như trên. Nói cách khác, các bên chỉ có quyền thỏa thuận về việc giảm nhẹ lãi suất đối với nợ quá hạn theo hợp đồng vay không có lãi, không được quyền thỏa thuận về mức lãi cao hơn. BLDS Nhật cũng có các quy định về hợp đồng vay tại Điều 587. Theo hợp đồng vay, người cho vay một khoản tiền hoặc một vật nhất định và có nghĩa vụ hoàn trả lại cùng khối lượng, cùng chủng loại và chất lượng. Tương tự như pháp luật Việt Nam, Luật dân sự Nhật Bản quy định chặt chẽ về hợp đồng vay. Theo đó, các quy định luật về kỹ kết hợp đồng vay, lãi suất trong họp đồng vay cũng như trách nhiệm của bên vay và bên cho vay...Ví dụ như tại Điều 591 Bộ luật Dân sự Nhật bản quy định: “nếu hợp đồng vay có xác định thời hạn thì người vay có nghĩa vụ hoàn trả vật đúng thời hạn. Neu hợp đồng không xác định thời hạn thì người nhận công trái có thể hoàn trả vật vào bất cứ thời điếm nào, và 12 người cho vay có thế yêu cầu hoàn trả sau khi đã định ra thời hạn hợp lý với người vay”. Có thể thấy quy định này có điếm tương đồng với Luật dân sự Việt Nam. Đặc biệt, BLDS Nhật có quy định về thỏa thuận trước về vay tại Điều 589. Theo đó, trong trường hợp có thỏa thuận trước về vay thì người vay có quyền yêu cầu ký kết hợp đồng, còn người cho vay có nghĩa vụ tương ứng. Tuy nhiên, nếu không có sự chuyển giao đối tượng của họp đồng thì hợp đồng không được ký kết. Neu trong thời hạn sau khi có thỏa thuân trước về vay và trước khi ký kết họp đồng vay mà một bên phá sản thì thỏa thuận trước về vay sẽ mất hiệu lực. Qua nghiên cứu các quy định pháp luật về họp đồng vay tài sản tronmg pháp luật thời kỳ phong kiến đến hiện nay cũng như pháp luật một số nước trên Thế giới. Có thể thấy rằng hợp đồng vay tài sản đã được quy định khá cụ thể. Điều đó chứng minh rằng khế ước trong hợp đồng đã có từ lâu đời và có vai trò lớn trong mọi đời sống xã hội. Chuong 2 CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÈ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ THỤC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐÈ GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VÈ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN 2.1. Thực trạng các quy định của BLDS năm 2005 về họp đồng vay tài sản. BLDS năm 2005 ghi nhận hợp đồng vay tài sản tù’ Điều 471 đến Điều 479. Theo đó, BLDS năm 2005 đã quy định khá đầy đủ các vấn đề của hợp đồng vay tài sản từ giao kết hợp đồng vay tài sản, lãi suất trong hợp đồng vay cũng như hiệu lực hợp đồng... Xem xét cụ thể các điều luật, chúng ta có thế thấy rõ: BLDS năm 2005 quy định khá hoàn thiện. Tuy nhiên, vẫn còn một số vướng mắc. 2.1.1. Quy định pháp luật về giao kết hợp đồng vay tài sản. Giao kết hợp đồng vay tài sản là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo 13 nguyên tắc và trình tự thủ tục nhất định qua đó các bên xác lập với nhau các quyền và nghĩa vụ về việc vay tài sản. Nguyên tắc giao kết họp đồng vay tài sản là tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Theo nguyên tắc này, mọi các nhân, tổ chức khi có đủ tư cách chủ thể đều có quyền tham gia giao kết bất kì một loại hợp đồng vay tài sản nào, nếu họ muốn và không ai có quyền ngăn cản. Bằng ý chí tự do của mình, các chủ thế có quyền giao kết những hợp đồng vay tài sản đã dược pháp luật quy định. Tuy nhiên, sự tự do ý chí đó phải nằm trong khuôn khố nhất định. Bên cạnh việc chú ý đền quyền lợi của mình, các chủ thế phải hướng tới việc bảo đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi ích của toàn xã hội. Như vậy tự do của mỗi chủ thể phải không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Nằm trong mối liên hệ tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ, mỗi một chủ thể vừa có quyền “tự do giao kết hợp đồng” vừa có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật và đạo đức xã hội. Lợi ích của cộng đồng và đạo dức xã hội được coi là “sự giới hạn” ý chí tự do của mỗi một chủ chủ thế trong việc giao kết hợp đồng dân sự nói chung cũng như đới với mọi hành vi chung của họ. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tính cộng đồng và đạo đức xã hội không cho phép các cá nhân được tự do ý chí tuyệt đối để biến các họp đồng vay tài sản thành phương tiện bóc lột. Trong hợp đồng vay tài sản, các bên tự nguyện và bình đắng trong giao kết hợp đồng . Nguyên tắc này thế hiện bản chất của quan hệ vay tài sản. Quy luật giá trị đòi hỏi các bên khi thiết lập quan hệ trao đối phải bình đắng với nhau. Không một ai được lấy lí do khác biệt về thành phần xã hội, dân tộc, giới tính, tôn giáo, hoàn cảnh kinh tế...để làm biến dạng các quan hệ vay tài sản. Mặt khác, chỉ khi nào các bên bình đắng với nhau về mọi phương diện trong giao kết hợp đồng thì ý chí tự nguyện của các bên mới thật sự được đảm bảo. Vì vậy theo nguyên tắc trên những hợp đồng được giao kết thiếu bình đẳng và không có sự tự nguyện của các bên sẽ không được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên đánh giá một họp đồng vay tài sản có phải là tự nguyện của các bên hay không là một công việc tương đối phức tạp và 14 khó khăn trong thực tế. về trình tự giao kết họp đồng vay tài sản: các bên chủ thể bày tỏ ý chí với nhau bằng cách trao đối ý kiến để đi đến thỏa thuận trong việc cùng nhau làm xác lập những quyền và nghĩa vụ dân sự với nhau. Thực chất đó là quá trình mà hai bên “mặc cả” về những điều khoản trong nội dung của hợp đồng Quá trình này diễn ra thông qua hai giai đoạn đó là: Đe nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết họp đồng. - Đe nghị giao kết họp đồng vay tài sản là việc một bên biểu lộ ý chí của mình trước người khác bằng cách bày tỏ cho phía bên kia biết ỷ muốn tham gia giao kết với người đó một họp đồng vay tài sản. Để người mình muốn giao kết hợp đồng với họ có thế hình dung được họp đồng đó như thế nào, người đề nghị phải đưa ra những điều khoản của hợp đồng vay tài sản một cách rõ ràng. Việc đề nghị này có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau: trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua điện thoại, qua việc chuyển công văn, giấy tờ qua đường bưu điện... Thời hạn trả lời là một khoảng thời gian do hai bên ấn định. - Chấp nhận giao kết hợp đồng vay tài sản là việc bên nhận được đề nghị và đồng ý tiến hành việc giao kết hợp đồng với người đẫ đề nghị, về nguyên tắc, bên được đề nghị phải trả lời ngay là có đồng ý hay không. Trong những trường hợp cần có thời gian đế bên được đề nghị cân nhắc, suy nghĩ mà các bên đầ ấn đinh thời hạn trả lời thì bên được đề nghị phải trả lời trong thời hạn đó. Neu sau thời hạn nói trên, bên được đề nghị mới trả lời về việc chấp nhận giao kết họp đồng thì lời chấp nhận đó được coi như một lời đề nghị mới của bên chậm trả lời. Nếu việc trả lời được chuyển qua đường bưu điện thì ngày gửi đi theo dấu bưu điện được coi là thời điếm trả lời. Căn cứ vào thời điếm đó đe bên đã đề nghị xác định việc trả lời có chậm hay không so với thời hạn đã ấn định. Người được đề nghị có thể chấp nhận toàn bộ nội dung đề nghị cũng có thể chỉ chấp nhận một phần trong nội dung đó hoặc cũng có thể chấp nhận việc giao kết họp đồng nhưng không đồng ý nội dung mà giao kết đưa 15 2.1.2. Nội dung hợp đồng vay tài sản. Nội dung của họp đồng là tống họp các điều khoản mà các chủ thể tham gia giao kết họp đồng đã thỏa thuận. Các điều khoản đó xác định những quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên trong họp đồng. Nội dung của họp đồng vay tài sản quy định về đối tượng; kỳ hạn; lãi suất và quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia họp đồng vay. 2.1.2.1. Đổi tượng của hợp đồng vay. Thông thường, đối tượng của hợp đồng vay tài sản là một khoản tiền. Tuy nhiên, trong thực tế, đối tượng của họp đồng vay tài sản có thế là vàng, kim quý hoặc đá quý hoặc một số lượng tài sản khác. Đối tượng của hợp đồng vay tài sản được chuyển tù' bên cho vay sang bên vay làm sở hũu. Bên vay có quyền định đoạt đối với tài sản vay. Khi hết hạn của họp đồng vay tài sản, bên vay có nghĩa vụ trả cho bên kia một tài sản khác cùng loại với tài sản đã vay hoặc số tiền đã vay. 2.1.2.2. Vê kỳ hạn của hợp đông vay tài sản. Họp đồng vay tài sản có thể có hoặc không có kỳ hạn (xác định, không xác định). Neu hợp đồng vay tài sản không thỏa thuận về kỳ hạn thì hợp đồng vay tài sản được coi là không có kỳ hạn. Bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay phải thực hiện hợp đồng bất kỳ thời điếm nào. Tuy nhiên, đế tạo điều kiện cho bên vay chuấn bị tiền hoặc tài sản khi trả, bên cho vay phải báo cho bên vay một thời gian hợp lý đế thực hiện hợp đồng. Het thời gian đó, bên vay buộc phải thực hiện nghĩa vụ của mình (Điều 477 BLDS năm 2005). Neu hợp đồng không có kỳ hạn thì bên vay có thể thực hiện hợp đồng vào bất cứ thời gian nào, bên cho vay không được tù’ chối tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ của bên vay. Xác định thời diểm chấm dứt hợp đồng vay có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm dân sự của các bên và thời hiệu của họp đồng. Trường hợp hết hạn hợp đồng mà bên vay không trả được thì phải chịu trách nhiệm dân sự do vi phạm họp đồng. Neu là vay có lãi thì bên vay còn phải trả lãi trên nợ gốc và lãi quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan