Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải quyết tranh chấp đất đai từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân huyện Đông...

Tài liệu Giải quyết tranh chấp đất đai từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội (Luận văn thạc sĩ)

.PDF
91
66
67

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI NGUYỄN TIẾN DŨNG GI¶I QUYÕT TRANH CHÊP §ÊT §AI Tõ THùC TIÔN XÐT Xö CñA TßA ¸N NH¢N D¢N HUYÖN §¤NG ANH, THµNH PHè Hµ NéI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI NGUYỄN TIẾN DŨNG GI¶I QUYÕT TRANH CHÊP §ÊT §AI Tõ THùC TIÔN XÐT Xö CñA TßA ¸N NH¢N D¢N HUYÖN §¤NG ANH, THµNH PHè Hµ NéI Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến HÀ NỘI - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Tiến Dũng MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI 8 Ở VIỆT NAM 1.1. Lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai 8 1.1.1. Khái niệm về tranh chấp đất đai 8 1.1.2. Khái niệm về giải quyết tranh chấp đất đai 17 1.2. Lý luận pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai 26 1.2.1. Khái niệm pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai 26 1.2.2. Sự cần thiết điều chỉnh quan hệ giải quyết tranh chấp đất đai bằng 28 pháp luật 1.2.3. Các yếu tố đảm bảo thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai 29 1.2.4. Lược sử hình thành và phát triển pháp luật về giải quyết tranh chấp 32 đất đai Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT 37 ĐAI TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH - THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1. Nội dung pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai 37 2.1.1. Nội dung các quy định về hòa giải tranh chấp đất đai 37 2.1.2. Nội dung các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai 42 2.1.3. Nội dung các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về trình tự, thủ 47 tục giải quyết vụ án tranh chấp đất đai 2.2. Đánh giá thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai từ 52 thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh - thành phố Hà Nội 2.2.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, dân số, tình hình kinh tế - xã hội của huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội tác động đến thực tiễn xét xử các vụ án tranh chấp đất đai 52 2.2.2. Đánh giá thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai từ 57 thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh - thành phố Hà Nội Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH 66 CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH THÀNH PHỐ HÀ NỘI 3.1. Về phương diện lập pháp 3.1.1. Tiếp tục ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành Luật 66 66 đất đai năm 2013 3.1.2. Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự 69 năm 2015 3.1.3. Tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai thi hành Luật 71 Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 3.2. Về phương diện bồi dưỡng nghiệp vụ 71 3.2.1. Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ 71 3.2.2. Xây dựng nội dung bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ 72 3.3. Về phương diện hướng dẫn thi hành pháp luật giải quyết tranh chấp 73 đất đai 3.3.1. Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai 73 3.3.2. Về giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 76 đất vô hiệu 3.3.3. Giải quyết tranh chấp về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất 77 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BĐS : Bất động sản BLDS : Bộ luật dân sự BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự GCNQSDĐ : Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất QSDĐ : Quyền sử dụng đất TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TCĐĐ : Tranh chấp đất đai TN&MT : Tài nguyên và môi trường UBND : Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kể từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường (đặc biệt là những năm gần đây), tình hình tranh chấp đất đai (TCĐĐ) ngày càng gia tăng về số lượng và phức tạp về nội dung, tính chất. Các dạng TCĐĐ phổ biến trong thực tế là tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất (QSDĐ); tranh chấp do lấn, chiếm đất; tranh chấp QSDĐ và tài sản gắn liền với đất; TCĐĐ là tài sản chung của vợ chồng trong các vụ án ly hôn... Đã có nhiều công trình nghiên cứu, tìm hiểu về TCĐĐ chỉ ra nguyên nhân, bao gồm nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan; đồng thời, đề xuất các giải pháp khắc phục. Pháp luật về giải quyết TCĐĐ ra đời với mong muốn hướng dẫn các bên tranh chấp có thái độ, cách hành xử văn minh khi giải quyết bất đồng, mâu thuẫn về đất đai; đồng thời, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động giải quyết TCĐĐ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà một trong những cơ quan nhà nước đó là Tòa án nhân dân (TAND). Thực tiễn áp dụng pháp luật đất đai trong giải quyết các TCĐĐ của các cơ quan nhà nước nói chung và của TAND nói riêng thời gian qua đã đạt được những kết quả tích cực như giải quyết ổn thỏa nhiều vụ việc TCĐĐ phức tạp, kéo dài dựa trên cơ sở pháp luật; nâng cao ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật không chỉ của các bên đương sự mà còn của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, thẩm phán… thực hiện nhiệm vụ giải quyết TCĐĐ. Song bên cạnh những kết quả đạt được, việc áp dụng pháp luật trong giải quyết TCĐĐ từ hoạt động xét xử của TAND còn bộc lộ một số hạn chế như vẫn còn một số lượng không nhỏ vụ án xét xử sơ thẩm bị kháng nghị, hủy quyết định của cấp sơ thẩm; hoạt động xét xử TCĐĐ của TAND gặp không ít khó khăn, trở ngại và đạt hiệu quả thấp… Điều này có nguyên nhân từ việc áp dụng chưa đúng, chưa chính xác pháp luật trong giải quyết TCĐĐ của các thẩm phán cho dù pháp luật đất đai (trong đó có các quy định về giải quyết TCĐĐ) thường xuyên được sửa đổi, bổ sung nhằm phù hợp với thực tiễn. Để khắc phục hạn chế này thì việc tiếp tục nghiên cứu áp dụng pháp luật để giải quyết TCĐĐ qua thực tiễn xét xử của TAND vẫn là việc làm cần thiết. Đặc biệt là trong bối cảnh Luật đất đai năm 2013, Luật tổ chức TAND năm 2014, Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 và Bộ luật 1 Dân sự (BLDS) năm 2015… được ban hành với những sửa đổi, bổ sung liên quan đến việc giải quyết TCĐĐ của TAND. Đông Anh là huyện ngoại thành của Thủ đô Hà Nội có tiềm năng phát triển nông nghiệp áp dụng công nghệ cao kết hợp du lịch sinh thái, công nghiệp, thương mại, dịch vụ… Những năm gần đây tốc độ phát triển kinh tế nói chung và tốc độ đô thị hóa nói riêng của địa phương này tăng trưởng mạnh mẽ, ngoạn mục do hệ thống cơ sở hạ tầng được Nhà nước đầu tư đồng bộ, hiện đại với việc xây dựng cầu Nhật Tân, cầu Đông Trù, đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng; đường cao tốc Nhật Tân Nội Bài… đã kết nối Đông Anh với các quận nội thành Hà Nội, với các địa phương khác nhanh chóng, thuận tiện. Đặc biệt khu vực đất dọc hai bên trục đường cao tốc Nhật Tân - Nội Bài - tuyến đường được đặt tên vị đại tướng huyền thoại, anh hùng dân tộc Võ Nguyên Giáp - được Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố Hà Nội phê duyệt quy hoạch xây dựng trung tâm thương mại, tài chính mới của Thủ đô. Đây là những điều kiện quan trọng để huyện Đông Anh cất cánh, phát triển mạnh mẽ trong một tương lai gần. Giá đất ở địa phương này tăng với tốc độ chóng mặt kéo theo các tranh chấp, khiếu kiện về đất đai phức tạp, kéo dài. Mặt khác, phát huy truyền thống cách mạng trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân huyện Đông Anh đã không ngừng vượt khó để xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Cùng với sự chuyển mình đi lên của đất nước, tốc độ phát triển kinh tế của huyện Đông Anh năm sau cao hơn năm trước góp phần nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân. Đóng góp vào thành tựu phát triển chung của huyện Đông Anh không thể không ghi nhận hoạt động xét xử nói chung và áp dụng pháp luật để giải quyết TCĐĐ nói riêng của TAND huyện Đông Anh nhằm duy trì sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Dẫu vậy, việc áp dụng pháp luật giải quyết TCĐĐ từ hoạt động xét xử của TAND huyện Đông Anh vẫn để lại những suy nghĩ trăn trở khi số lượng không nhỏ các vụ việc TCĐĐ được xét xử bị kháng cáo, kháng nghị hoặc hủy bản án. Điều này đặt ra yêu cầu phải có sự nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân và đưa ra giải pháp khắc phục. Mặt khác, việc tìm hiểu áp dụng pháp luật giải quyết TCĐĐ từ hoạt động xét xử của TAND đã được nhiều công trình khoa học nghiên cứu. Tuy nhiên, tìm hiểu và đánh giá việc áp dụng pháp luật để giải quyết TCĐĐ từ thực tiễn xét xử của TAND huyện Đông Anh một cách có hệ thống, đầy đủ, toàn diện trên phương diện 2 lý luận và thực tiễn tham chiếu với các đạo Luật đất đai năm 2013, BLTTDS năm 2015, BLDS năm 2015, Luật tổ chức TAND năm 2014… thì dường như vẫn còn ít công trình khoa học nghiên cứu. Vì vậy, đề tài này vẫn còn nhiều dư địa để nghiên cứu, tìm hiểu. Với những lý do cơ bản trên đây, học viên lựa chọn đề tài "Giải quyết tranh chấp đất đai từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội" làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về pháp luật giải quyết TCĐĐ và thực tiễn áp dụng chế định pháp luật này từ hoạt động xét xử của TAND đã có nhiều công trình được công bố. Trong những công trình này, chúng ta có thể nêu ra một số công trình tiêu biểu sau đây: Lê Xuân Thân (2004), Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Chu Đức Thắng (2004), Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân ở cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Lưu Tiến Dũng (2005), Bàn về áp dụng pháp luật trong công tác xét xử, Tạp chí TAND, số 5; Phạm Thanh Hải (2005), Trao đổi thêm về việc áp dụng Điều 136 Luật đất đai năm 2003, Tạp chí TAND, số 5; Nguyễn Văn Cường (2005), Những vấn đề cần trao đổi khi áp dụng Điều 136 Luật đất đai năm 2003, Tạp chí TAND, số 8; Thủy Nguyên (2005), Áp dụng Luật hôn nhân gia đình khi giải quyết vụ án có yếu tố nước ngoài, Tạp chí TAND, số 9; Ban Biên tập Tạp chí TAND (2005), Những vấn đề trao đổi khi áp dụng Điều 136 Luật đất đai năm 2003, Tạp chí TAND, số 9; Hoàng Việt Trung (2014), Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học Xã hội; Tưởng Duy Lượng (2005), Bình luận về một số vụ án hôn nhân và gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Phan Thị Hương Thủy (2005), 99 tình huống và tư vấn pháp luật về thừa kế nhà và quyền sử dụng đất, Nxb Tư pháp, Hà Nội; Nguyễn Hữu Ước (2008), Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao từ năm 2000 - 2007, Nxb Tư pháp, Hà Nội; Nguyễn Thị Lan Phương (2017), Áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai qua thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Quảng Bình, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà 3 Nội; Trần Phương Thảo (2016), Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh - Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Trần Đức Thịnh (2017), Thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình - tỉnh Hòa Bình, Luận văn thạc sĩ Luật học, Viện Đại học Mở Hà Nội... Các công trình trên đây đã phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về TCĐĐ, giải quyết TCĐĐ, áp dụng pháp luật giải quyết TCĐĐ như phân tích khái niệm, đặc điểm, hậu quả của TCĐĐ, các dạng TCĐĐ phổ biến, nguyên nhân của TCĐĐ; khái niệm, đặc điểm, các nguyên tắc và yêu cầu giải quyết TCĐĐ; khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, yêu cầu và các điều kiện đảm bảo áp dụng pháp luật giải quyết TCĐĐ; đánh giá thực trạng và đề xuất định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật giải quyết TCĐĐ trong phạm vi cả nước hoặc ở một địa phương cụ thể. Tuy nhiên, tìm hiểu pháp luật về giải quyết TCĐĐ từ thực tiễn xét xử của TAND huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội một cách có hệ thống, đầy đủ và toàn diện thì dường như vẫn còn ít được nghiên cứu. Chính vì vậy, rất cần có một công trình nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề này một cách hệ thống toàn diện cả về lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở tham khảo và kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài đã công bố, luận văn đi sâu tìm hiểu về giải quyết TCĐĐ từ thực tiễn xét xử của TAND tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu tổng quát của luận văn là đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết TCĐĐ và nâng cao chất lượng của hoạt động xét xử TCĐĐ của TAND huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn xác định những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau đây: Một là, nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật giải quyết TCĐĐ tham chiếu với hoạt động xét xử của TAND thông qua việc giải quyết những vấn đề cụ thể sau: - Phân tích khái niệm và đặc điểm của TCĐĐ; các dạng TCĐĐ; nguyên nhân và hậu quả của TCĐĐ. 4 - Phân tích khái niệm và đặc điểm của giải quyết TCĐĐ; ý nghĩa của giải quyết TCĐĐ; các nguyên tắc giải quyết TCĐĐ; các hình thức giải quyết TCĐĐ; đặc điểm và tính ưu việt của giải quyết TCĐĐ thông qua TAND; yêu cầu của việc giải quyết TCĐĐ thông qua TAND… - Làm rõ khái niệm và đặc điểm của áp dụng pháp luật giải quyết TCĐĐ thông qua hoạt động xét xử của TAND; ý nghĩa, nguyên tắc và yêu cầu của áp dụng pháp luật giải quyết TCĐĐ thông qua hoạt động xét xử của TAND. - Phân tích cơ sở lý luận, khái niệm và đặc điểm của pháp luật về giải quyết TCĐĐ thông qua TAND; cấu trúc pháp luật về giải quyết TCĐĐ thông qua TAND; các yếu tố bảo đảm thi hành pháp luật về giải quyết TCĐĐ thông qua TAND … Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về giải quyết TCĐĐ và thực tiễn thi hành tại TAND huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Ba là, đưa ra định hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về giải quyết TCĐĐ và nâng cao hiệu quả thi hành tại TAND huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Dựa trên mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn xác định đối tượng nghiên cứu khu trú vào các nội dung cụ thể sau đây: - Quy định về giải quyết TCĐĐ của Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành. - Quy định của BLTTDS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành. - Quy định của Luật tổ chức TAND năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của TAND. - Các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn về đường lối xét xử các vụ án TCĐĐ thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND. - Các quan điểm lý luận, trường phái lý thuyết về TCĐĐ, giải quyết TCĐĐ và áp dụng pháp luật về giải quyết TCĐĐ từ hoạt động xét xử của TAND. - Các văn bản về nghiệp vụ xét xử các vụ việc TCĐĐ của TAND thành phố Hà Nội. - Thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết TCĐĐ tại TAND huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội… 5 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ có hạn của một bản luận văn thạc sĩ luật học, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài vào một số nội dung cụ thể sau đây: - Về địa bàn, phạm vi: Thực tiễn áp dụng pháp luật của TAND từ hoạt động xét xử các vụ TCĐĐ tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. - Về thời gian: Từ năm 1993 (thời điểm Luật đất đai năm 1993 được ban hành) đến nay. - Về nội dung nghiên cứu: Giải quyết TCĐĐ từ thực tiễn xét xử của TAND huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội là đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng. Tuy nhiên, luận văn này chỉ giới hạn ở việc tìm hiểu chế định giải quyết TCĐĐ của TAND cấp sơ thẩm. Bởi lẽ, theo quy định của Luật tổ chức TAND năm 2014, TAND cấp huyện có thẩm quyền xét xử sở thẩm các vụ án dân sự nói chung và các vụ án TCĐĐ nói riêng. Đề tài của luận văn nghiên cứu vấn đề giải quyết TCĐĐ tham chiếu từ thực tiễn xét xử của TAND huyện Đông Anh, nên việc giới hạn phạm vi nghiên cứu của chế định giải quyết TCĐĐ của TAND cấp sơ thẩm là phù hợp. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây: - Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. - Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương pháp phân tích, phương pháp bình luận, phương pháp luận giải v.v... được sử dụng khi nghiên cứu Chương 1. Lý luận pháp luật về giải quyết TCĐĐ thông qua hoạt động của TAND ở Việt Nam. Phương pháp diễn giải, phương pháp phân tích kết hợp với luận giải được sử dụng nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thi hành pháp luật về giải quyết TCĐĐ từ hoạt động xét xử của TAND; các tiêu chí đánh giá hiệu quả áp dụng pháp luật về giải quyết TCĐĐ từ hoạt động xét xử của TAND; yêu cầu của áp dụng pháp luật về giải quyết TCĐĐ từ hoạt động xét xử của TAND… Phương pháp bình luận, phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh, phương pháp nghiên cứu hệ thống… được sử dụng khi đánh giá thực trạng thi hành pháp 6 luật về giải quyết TCĐĐ từ hoạt động xét xử của TAND tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp… được sử dụng khi đề cập định hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về giải quyết TCĐĐ từ hoạt động xét xử của TAND tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Phương pháp lập luận logic được sử dụng khi nghiên cứu đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về giải quyết TCĐĐ từ hoạt động xét xử của TAND tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Trên cơ sở tham chiếu với Luật đất đai năm 2013, luận văn đã có một số đóng góp nhất định. Những đóng góp này được khu trú vào một số vấn đề cụ thể sau: - Luận văn hệ thống hóa và góp phần bổ sung cơ sở lý luận pháp luật về giải quyết TCĐĐ từ hoạt động xét xử của TAND ở nước ta. - Luận văn phân tích, bình luận, đánh giá về thực trạng thi hành pháp luật về giải quyết TCĐĐ từ hoạt động xét xử của TAND tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. - Luận văn đề xuất định hướng và giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về giải quyết TCĐĐ và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về giải quyết TCĐĐ từ hoạt động xét xử của TAND tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích cho những ai quan tâm tìm hiểu về lĩnh vực pháp luật này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh - thành phố Hà Nội Chương 3: Giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và nâng cao hiệu quả thi hành từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh - thành phố Hà Nội. 7 Chương 1 LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM 1.1. Lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai 1.1.1. Khái niệm về tranh chấp đất đai 1.1.1.1. Khái niệm về tranh chấp Trước tiên, để làm rõ nội hàm khái niệm TCĐĐ thì cần phải hiểu "tranh chấp" là gì; bởi lẽ, TCĐĐ là một dạng cụ thể của tranh chấp nói chung? Trong đời sống xã hội, các tranh chấp có nhiều loại và xảy ra trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Tùy theo từng loại tranh chấp mà có các khái niệm khác nhau về "tranh chấp" như: Theo giải thích của Từ điển tiếng Việt thì tranh chấp nói chung được hiểu là việc "Giành nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào" [51, tr. 989]. Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: "Tranh chấp: 1. Giành giật, giằng co nhau cái không rõ thuộc về bên nào; 2. Bất đồng, trái ngược nhau" [58, tr. 808]. Theo Từ điển giải thích từ ngữ luật học, khái niệm tranh chấp trong các lĩnh vực dân sự, kinh doanh, hợp đồng được khái quát với các nội dung sau: Tranh chấp dân sự có thể hiểu là những mâu thuẫn, bất hòa về quyền và nghĩa vụ hợp pháp giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự. Tranh chấp kinh doanh là những mâu thuẫn, bất đồng, xung đột giữa những chủ thể kinh doanh với nhau trong các hoạt động kinh doanh hay tranh chấp hợp đồng được hiểu là những xung đột, bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên về việc thực hiện hoặc không thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng [54, tr. 35]. Như vậy, từ các khái niệm trên đây, chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của tranh chấp như sau: - Tranh chấp phát sinh giữa hai hay nhiều bên trong một quan hệ. Điều này có nghĩa là chủ thể của quan hệ tranh chấp phải có ít nhất từ hai bên trở lên; không thể có một người tự tranh chấp với chính bản thân mình. - Bản chất của tranh chấp là những mâu thuẫn, bất đồng giữa hai bên (hay nói cách khác tranh chấp phản ánh mâu thuẫn, bất đồng giữa các bên) mà họ không thể thỏa hiệp, tự thương lượng để hóa giải được. Những bất đồng, mâu thuẫn phát sinh trở thành xung đột/tranh chấp giữa các bên. - Đối tượng của tranh chấp có thể là lợi ích vật chất/kinh tế hay quyền và nghĩa vụ của các bên trong một quan hệ nhất định. 8 - Tranh chấp là kết quả của những mâu thuẫn, bất động giữa các bên phát sinh trong một khoảng thời gian nhất định. Trên thực tế, không có loại tranh chấp nào phát sinh thức thì, ngay lập tức khi xuất hiện mâu thuẫn v.v... 1.1.1.2. Quan niệm về tranh chấp đất đai Tranh chấp đất đai là một hiện tượng xã hội xảy ra trong bất kỳ hình thái kinh tế, xã hội nào. Trong xã hội tồn tại lợi ích giai cấp đối kháng thì TCĐĐ mang màu sắc chính trị. Đất đai luôn là đối tượng tranh chấp giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, bởi lẽ, đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng nhất, là tài sản quý giá nhất của một quốc gia. Việc giải quyết triệt để các TCĐĐ ở các xã hội này được thực hiện bằng một cuộc cách mạng xã hội. Ở xã hội không tồn tại mâu thuẫn về lợi ích giai cấp đối kháng, TCĐĐ thường là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đất đai. Việc giải quyết TCĐĐ do các bên tự tiến hành thông qua các con đường thương lượng, hòa giải hoặc do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện dựa trên việc áp dụng các quy định của pháp luật. Theo Từ điển Giải thích Thuật ngữ Luật học: Tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai [54, tr.74]. Theo Giáo trình Luật đất đai của Trường Đại học Luật Hà Nội: Tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai [53, tr.455]. Theo Điều 3 Luật Đất đai năm 2013: Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai [31, khoản 24]. Trong thực tế, TCĐĐ được hiểu là sự tranh chấp về quyền quản lý, quyền sử dụng trên một khu đất cụ thể. Các bên tranh chấp không thể cùng nhau tự giải quyết các tranh chấp đó mà phải yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phân xử. Cần làm rõ TCĐĐ ở nước ta chính là tranh chấp QSDĐ hay bao gồm cả tranh chấp QSDĐ và các tranh chấp liên quan đến QSDĐ? Về nội dung này, trong khoa học pháp lí hiện nay còn tồn tại hai quan điểm như sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, TCĐĐ chỉ là tranh chấp về QSDĐ. Theo đó, TCĐĐ không xác định được là tranh chấp tổng thể các quyền và nghĩa vụ hay chỉ là tranh chấp từng quyền và nghĩa vụ đơn lẻ của người sử dụng đất do pháp luật đất đai quy định, hay bao gồm cả tranh chấp những quyền và nghĩa vụ mà người sử dụng đất có được khi tham gia vào các quan hệ pháp luật khác. Bên cạnh đó, chủ thể tranh chấp vốn được gọi là "hai hay nhiều bên" cũng không được xác định rõ 9 ràng là chỉ bao gồm người sử dụng đất hay là tất cả các chủ thể có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất trong quan hệ TCĐĐ. Chính sự chung chung này đã khiến cho nội dung của TCĐĐ nhiều lúc được mở rộng tối đa ở mức độ có thể. Trường phái này cho rằng: Việc mở rộng khái niệm TCĐĐ trong điều kiện của nước ta hiện nay là chưa hợp lý vì xuất phát từ chế độ sở hữu toàn dân đối với toàn bộ đất đai mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu thì người sử dụng đất chỉ có quyền sử dụng đối với đất đai. Vì vậy, cái mà họ tranh chấp khi TCĐĐ chỉ có thể là QSDĐ. Mặt khác, các thuật ngữ TCĐĐ và tranh chấp QSDĐ đã được sử dụng như những thuật ngữ thay thế nhau kể từ khi có Luật Đất đai năm 1987 đến nay mà không có sự phân biệt. Hơn nữa, các tranh chấp có liên quan đến QSDĐ của người sử dụng đất cũng đã từng được quy định cụ thể trong một số văn bản hướng dẫn về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến đất đai với tên gọi là tranh chấp liên quan đến QSDĐ chứ không phải TCĐĐ một cách chung chung [44, tr. 24]. Theo đó, họ cho rằng, định nghĩa TCĐĐ theo Khoản 24, Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 do có nội hàm rất rộng nên đã gây nhiều cách hiểu không chính xác. Do đó, TCĐĐ cần được hiểu là tranh chấp quyền sử dụng đối với diện tích đất cụ thể giữa các chủ thể trong hoạt động quản lý, sử dụng đất. Còn các dạng tranh chấp khác, đều được hiểu là tranh chấp liên quan đến đất đai và được giải quyết bởi cơ quan tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự, mà không có sự ràng buộc với những quy định về giải quyết tranh chấp trong pháp luật đất đai. Quan điểm thứ hai, nhận định TCĐĐ bao gồm cả tranh chấp QSDĐ và các tranh chấp liên quan đến QSDĐ; bởi lẽ, trong pháp luật đất đai, trước khi Luật Đất đai năm 2003 được thông qua và có hiệu lực thi hành thì khái niệm TCĐĐ hầu như chưa được ai đề cập một cách chính thống và giải thích cụ thể. Mặc dù vậy, hiện tượng TCĐĐ trong xã hội được pháp luật ghi nhận và quy định việc giải quyết. Luật Đất đai năm 2003 lần đầu tiên giải thích thuật ngữ TCĐĐ. Và kế thừa quy định đó Khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 ghi nhận: "Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai". Vậy, đối tượng tranh chấp là quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Nghĩa là, bao gồm cả tranh chấp QSDĐ và các tranh chấp liên quan đến QSDĐ. Mặt khác, xem xét ở góc độ thực tiễn xét xử, ngành tòa án ở nước ta vẫn thống kê các tranh chấp liên quan đến QSDĐ vào mục TCĐĐ nói chung. Bên cạnh đó, Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTNMT ngày 03/01/2002 hướng dẫn về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan 10 đến QSDĐ sử dụng thuật ngữ khác là "các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất" thuộc thẩm quyền của Tòa án. Theo đó, các tranh chấp liên quan đến QSDĐ thuộc thẩm quyền của Tòa án bao gồm: - Tranh chấp về việc ai là người có QSDĐ; - Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại QSDĐ và thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị QSDĐ; - Thừa kế QSDĐ; - Tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất. Vậy, thuật ngữ "các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất" là một thuật ngữ có nội hàm rất rộng, bao gồm cả tranh chấp về QSDĐ và tài sản gắn liền với đất. Theo suy luận logic thì tranh chấp về QSDĐ sẽ bao gồm ba loại: tranh chấp về việc ai là người có QSDĐ (thực chất là tranh chấp QSDĐ hay cụ thể hơn là kiện đòi đất đang bị người khác chiếm giữ, tranh chấp mốc giới); tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại QSDĐ và thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị QSDĐ; tranh chấp thừa kế QSDĐ. Không thể phủ nhận rằng, ở mỗi quan điểm trên đây đều được lập luận dựa trên những căn cứ nhất định. Song thiết nghĩ, việc hiểu và vận dụng "tranh chấp đất đai" bao gồm cả tranh chấp QSDĐ và tranh chấp liên quan đến QSDĐ là hợp lý cả về vấn đề logic ngôn ngữ và thực tiễn áp dụng pháp luật trong giai đoạn hiện nay. 1.1.1.3. Đặc điểm của tranh chấp đất đai Quan hệ đất đai là một dạng đặc biệt của quan hệ dân sự, nên bên cạnh những đặc điểm chung của một tranh chấp dân sự, TCĐĐ còn mang những đặc trưng riêng khác với tranh chấp dân sự, tranh chấp lao động, tranh chấp kinh doanh, thương mại… Sự khác biệt đó thể hiện ở những điểm chủ yếu sau đây: Thứ nhất, chủ thể TCĐĐ chỉ có thể là chủ thể của quyền quản lý và QSDĐ, mà không phải là chủ thể của quyền sở hữu đất đai; bởi lẽ, đất đai ở nước ta thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, Nhà nước trao QSDĐ cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thông qua việc giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ. Do đó, QSDĐ của các chủ thể được xác lập dựa trên quyết định giao đất, cho thuê đất của Nhà nước hoặc Nhà nước cho phép nhận QSDĐ hợp pháp đối với diện tích đất đang sử dụng. Như vậy, chủ thể của TCĐĐ là các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tham gia với tư cách là người quản lý hoặc người sử dụng đất. Thứ hai, nội dung của TCĐĐ rất đa dạng và phức tạp. Hoạt động quản lý và sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường diễn ra rất đa dạng, phong phú với việc sử dụng đất vào nhiều mục đích khác nhau với diện tích, nhu cầu sử dụng khác nhau. 11 Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý và sử dụng đất không đơn thuần chỉ là việc quản lý và sử dụng một tư liệu sản xuất. Đất đai đã trở thành một loại hàng hóa đặc biệt, có giá trị thương mại. Giá đất lại có biến động theo quy luật cung cầu trên thị trường. Vì vậy, việc quản lý và sử dụng nó không đơn thuần chỉ là việc khai thác giá trị sử dụng, mà còn bao gồm cả giá trị sinh lời của đất thông qua các hành vi kinh doanh QSDĐ. Tất nhiên, khi nội dung quản lý, sử dụng đất phong phú, phức tạp hơn thì những mâu thuẫn, bất đồng xung quanh việc quản lý và sử dụng đất đai cũng trở nên gay gắt và trầm trọng hơn. Thứ ba, TCĐĐ phát sinh gây hậu quả xấu về nhiều mặt như có thể gây mất ổn định về chính trị, phá vỡ mối quan hệ xã hội, làm mất đoàn kết nội bộ nhân dân, phá vỡ trật tự quản lý đất đai, gây đình trệ sản xuất, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích không những của bản thân các bên tranh chấp, mà còn gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và xã hội. Thứ tư, đối tượng của TCĐĐ là quyền quản lý và QSDĐ. Đất đai là loại tài sản đặc biệt, không thuộc quyền sở hữu các bên tranh chấp mà thuộc quyền sở hữu của toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu… 1.1.1.4. Các dạng tranh chấp đất đai phổ biến Trước những năm 1980, Nhà nước ta thừa nhận nhiều hình thức sở hữu đối với đất đai; bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân… Do đó ở thời kỳ này, TCĐĐ gồm: tranh chấp về quyền sở hữu đất đai, quyền quản lý và sử dụng đối với đất đai. Kể từ khi Hiến pháp năm 1980 ra đời (ngày 18/12/1980) với quy định "Đất đai… là của Nhà nước thuộc sở hữu toàn dân" (Điều 19) thì pháp luật thừa nhận một hình thức sở hữu đất đai duy nhất - sở hữu toàn dân về đất đai; nên kể từ đó trở đi, TCĐĐ chỉ bao gồm tranh chấp quyền quản lý đất đai và QSDĐ. Tiếp đó, Luật Đất đai năm 1993 được ban hành quy định người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất được chuyển QSDĐ trong thời hạn giao đất, cho thuê đất (Điều 1). Vì vậy, trên thực tế hiện nay, TCĐĐ xuất hiện dưới một số dạng phổ biến cơ bản sau đây: Thứ nhất, tranh chấp hợp đồng chuyển đổi QSDĐ. Dạng tranh chấp này xảy ra đối với việc chuyển đổi đất nông nghiệp giữa các hộ gia đình, cá nhân với nhau trong cùng một xã, phường, thị trấn. Bởi lẽ, theo điểm b khoản 1 Điều 179 Luật Đất đai năm 2013 quy định hộ gia đình, cá nhân được chuyển đổi QSDĐ nông nghiệp trong cùng một xã, phường, thị trấn với hộ gia đình, cá nhân khác. Thứ hai, tranh chấp hợp đồng cho thuê, cho thuê lại QSDĐ. Việc phát sinh dạng tranh chấp này là do một bên hoặc cả hai bên vi phạm các điều khoản của hợp 12 đồng như: Hết thời hạn thuê đất nhưng không chịu trả lại đất cho bên cho thuê; người thuê không trả tiền thuê đất; sử dụng đất không đúng mục đích khi thuê; bên cho thuê đòi lại đất khi chưa hết thời hạn hợp đồng thuê đất v.v... Thứ ba, tranh chấp hợp đồng thế chấp QSDĐ. Dạng tranh chấp này thường phát sinh khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ cam kết, nhưng bên thế chấp QSDĐ (bên vay tiền) đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ, đúng thời hạn như đã cam kết trong hợp đồng cho bên nhận thế chấp QSDĐ là các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng. Thứ tư, tranh chấp thừa kế QSDĐ. Dạng tranh chấp này thường xảy ra do các nguyên nhân chủ yếu sau: - Người có QSDĐ chết không để lại di chúc; những người thừa kế theo pháp luật không thỏa thận được với nhau về việc phân chia di sản thừa kế. - Người có QSDĐ chết có để lại di chúc nhưng di chúc không tuân thủ các quy định của pháp luật, định đoạt toàn bộ di sản chỉ cho một người thừa kế, những người được hưởng thừa kế khác không thực hiện việc phân chia theo di chúc dẫn đến tranh chấp… Thứ năm, tranh chấp về chuyển nhượng QSDĐ. Đây là dạng tranh chấp phổ biến với số lượng lớn. Tranh chấp về chuyển nhượng QSDĐ xảy ra khi các bên hoặc một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết gây thiệt hại cho bên kia; ví dụ: Bên chuyển nhượng nhận tiền nhưng không chịu bàn giao đất hoặc bàn giao đất không đúng thời hạn thỏa thuận; bên nhận chuyển nhượng không thanh toán đầy đủ, đúng thời hạn cam kết số tiền cho bên chuyển nhượng v.v... Thứ sáu, tranh chấp do lấn, chiếm đất. Loại tranh chấp này xảy ra do một hoặc cả hai bên đã chiếm dụng đất của nhau. Có trường hợp trước đây khi thi hành chính sách cải tạo nông nghiệp, Nhà nước đã giao đất cho người khác sử dụng, nay chủ cũ tự động chiếm lại đất canh tác và dẫn đến tranh chấp. Thứ bảy, tranh chấp về đòi lại đất đã giao cho người khác khi thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ví dụ: Con cháu địa chủ, phong kiến về đòi lại đất của cha ông bị tịch thu khi thực hiện cải cách ruộng đất chia cho nông dân sử dụng; tranh chấp về đòi lại đất nông nghiệp góp vào hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, nay hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp bị giải thể v.v... 13 Thứ tám, tranh chấp về tài sản chung là nhà đất của vợ chồng khi ly hôn. Dạng tranh chấp này giải quyết khá phức tạp khi trước đây giấy chứng nhận QSDĐ chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng và có không ít trường hợp vợ chồng khi kết hôn không ra UBND cấp xã xin cấp giấy đăng ký kết hôn. Thứ chín, tranh chấp về cản trở việc thực hiện QSDĐ. Loại tranh chấp này tuy số lượng tranh chấp phát sinh ít nhưng tính chất lại rất phức tạp. Thông thường, do mâu thuẫn phát sinh, bên sử dụng đất ở gần lối đi công cộng (bên sử dụng đất bên ngoài) không cho người sử dụng đất ở bên trong đi qua phần đất nhà mình trong trường hợp không có ngõ đi chung hoặc bịt lại lối đi chung, dẫn đến phát sinh tranh chấp. Thứ mười, TCĐĐ liên quan đến địa giới hành chính. Dạng tranh chấp này phát sinh giữa các đơn vị hành chính cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh trong trường hợp chia tác, sáp nhập, thành lập mới đơn vị hành chính v.v... 1.1.1.5. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp đất đai Tranh chấp đất đai xảy ra là hậu quả của những nguyên nhân nhất định. Nó là biểu hiện cụ thể của những mâu thuẫn, bất đồng về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể sử dụng đất với nhau. Trong những năm qua, TCĐĐ xảy ra ở hầu hết các địa phương trên cả nước, mỗi tranh chấp có những đặc điểm, bản chất khác nhau. Tuy nhiên, phân tích đánh giá các TCĐĐ xảy ra hiện nay có thể thấy nó phát sinh chủ yếu từ những nguyên nhân sau: i) Nguyên nhân khách quan Thứ nhất, do quan hệ đất đai ở nước ta có nhiều xáo trộn qua các thời kỳ. Việc thay đổi chế độ sở hữu đất đai từ đất đai thuộc nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân (trước Hiến pháp năm 1980) đến đất đai thuộc sở hữu toàn dân (sau Hiến pháp năm 1980) đã khiến nhiều TCĐĐ xảy ra. Ngoài ra, các chính sách kinh tế, các chủ trương hợp tác hóa trong sản xuất nông nghiệp, xây dựng các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp đã gây ra không ít tranh chấp về đất nông nghiệp ở khu vực nông thôn. Bên cạnh đó, các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai qua các thời kỳ lịch sử do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác nhau ban hành không những nhiều về số lượng mà còn có sự không thống nhất, thiếu đồng bộ về mặt nội dung. Chính điều này đã làm cho thực tế các quan hệ đất đai nảy sinh qua các thời kỳ là rất phức tạp, khi phát sinh tranh chấp thì không biết phải áp dụng văn bản quy phạm pháp luật nào để giải quyết. Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, đất đai ngày càng có giá trị. Trước đây, trong nền kinh tế tập trung, bao cấp kế hoạch hóa cao độ, đất đai không được 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất