Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh t...

Tài liệu Giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở việt nam hiện nay (tt)

.PDF
27
124
81

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HOÀNG VĂN KHẢI GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2019 Công trình đƣợc hoàn thành tại: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS Vũ Hồng Sơn 2. PGS, TS Đặng Quang Định Phản biện 1: …………………………………………… …………………………………………. Phản biện 2: …………………………………………… ....……………………………………….. Phản biện 3: …………………………………………… ………………………………………….. Luận án sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận án cấp Nhà nƣớc họp tại: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Vào hồi…. giờ…. ngày…. tháng…. năm…. Có thể tìm hiểu luận án tại: Thƣ viện quốc gia Hà Nội hoặc Thƣ viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Hoàng Văn Khải (2016), “Phát triển cá nhân - cơ hội và thách thức trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Thông tin Khoa học chính trị, Số 2 (3). 2. Hoàng Văn Khải (2016), “Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển cá nhân trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, Số 5 (138). 3. Hoàng Văn Khải (2016), “Về quan điểm đánh giá sự phát triển cá nhân trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học, (21). 4. Hoàng Văn Khải (2016), “Ảnh hưởng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến phát triển cá nhân ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học chính trị, (7). 5. Hoàng Văn Khải (2018), “Giải pháp phát triển cá nhân trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, (4). 6. Hoàng Văn Khải (2019), “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường”, Tạp chí Thông tin Khoa học chính trị, số 1 (14). 7. Hoàng Văn Khải (2019), “Nâng cao nhận thức của các chủ thể lợi ích trong việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Giáo chức Việt Nam, (149). 8. Hoàng Văn Khải (2019), “Cơ hội và thách thức của biến đổi khí hậu với giải quyết vấn đề lao động, việc làm vùng Tây Nam bộ hiện nay Từ góc nhìn lợi ích của người nông dân”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Vấn đề lao động, việc làm ở nông thôn vùng Tây Nam bộ đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, Học viện Chính trị khu vực IV - Đề tài KHCN-TNB.ĐT14-19/x20 9. Hoàng Văn Khải - Trần Văn Thắng (2019), “Giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (12). 10. Hoàng Văn Khải (2019), “Giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích - động lực quan trọng để thực hiện tư tưởng đại đoàn kết theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản, (931). 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lợi ích là một trong những động lực hoạt động của con người, của sự biến đổi xã hội và là một trong những vấn đề căn bản, có ý nghĩa quyết định bản chất các mối quan hệ trong xã hội. Trong quá trình tồn tại và phát triển xã hội, sự tác động lẫn nhau giữa các chủ thể lợi ích nhằm thỏa mãn nhu cầu sẽ hình thành quan hệ lợi ích. Mối quan hệ giữa các lợi ích, đặc biệt giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội tạo nên những vector thúc đẩy hoạt động của con người và sự vận động của xã hội theo những chiều hướng khác nhau, mạnh yếu khác nhau. Tuy nhiên, quan hệ lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội luôn nảy sinh vấn đề phức tạp, bởi lợi ích luôn biến đổi theo sự biến đổi của nhu cầu xã hội. Cho đến hiện nay, ở tất cả các cấp độ của lý luận về lợi ích nói chung và lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội nói riêng vẫn đặt ra những vấn đề cần phải nghiên cứu, nhất là trong bối cảnh kinh tế thị trường, các loại lợi ích thể hiện vai trò của mình một cách đặc thù, khác biệt so với các điều kiện xã hội khác. Ở nước ta, trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trương định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò làm động lực của lợi ích đối với sự tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, trong khoảng 20 năm trở lại đây, khi chúng ta đi ngày càng sâu vào nền kinh tế thị trường, vấn đề lợi ích nói chung, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nói riêng lại trở nên phức tạp, tạo ra những vấn đề “nóng” cần phải giải quyết, xuất hiện những biểu hiện của sự mất cân bằng, thiên lệch trong giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Một số lực lượng xã hội nhân danh lợi ích xã hội, để mưu cầu lợi ích cá nhân không chính đáng, xâm phạm lợi ích xã hội. Những hiện tượng tham ô, tham nhũng, lãng phí, gây thất thoát tài sản Nhà nước, buôn lậu, trốn thuế, hàng giả, hàng kém chất lượng, lừa đảo, lợi ích nhóm tiêu cực lũng đoạn việc quản lý, điều hành, phân phối nói chung... Thực chất đó là việc đề cao quá mức lợi ích cá nhân, bất chấp luật pháp, đạo đức để đạt được lợi ích cá nhân. Song ở thái cực ngược lại, lại có những lợi ích cá nhân chính đáng chưa được quan tâm đúng mức, tạo điều kiện phát triển, nhiều giá trị cho sự phát triển cá nhân chưa được tạo lập, thành phần kinh tế tư nhân chưa thực sự phát huy một cách hiệu quả tối đa... Cùng với đó, càng hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường mạnh mẽ thì càng đặt ra vấn đề là phải làm cho cá nhân thỏa mãn lợi ích chính đáng, đồng thời phải thúc đẩy đạt được những lợi ích xã hội để vừa bảo đảm sự phát triển, vừa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. 2 Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn và lý luận nêu trên và với mong muốn góp phần đóng góp vào việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, nghiên cứu sinh chọn vấn đề “Giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án của mình. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận, thực trạng, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất những giải pháp chủ yếu để giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ những vấn đề lý luận về việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội như khái niệm, nội dung, phương thức và các nhân tố tác động. - Phân tích thực trạng, nguyên nhân của những hạn chế và những vấn đề đặt ra từ giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. - Đề xuất những giải pháp chủ yếu để giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội góp phần thúc đẩy sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận án nghiên cứu việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội là vấn đề rất rộng, ở đây, luận án chỉ giới hạn nghiên cứu việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội chủ yếu thông qua lợi ích kinh tế trong lĩnh vực sở hữu và phân phối; chủ thể giải quyết quan hệ lợi ích này chủ yếu là Đảng, Nhà nước và cá nhân. Luận án cũng chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu lợi ích xã hội ở đây chính là lợi ích của cả xã hội với tính cách là một dân tộc - quốc gia. 3 - Về không gian: nghiên cứu quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam. - Về thời gian: Việc nghiên cứu được tiến hành chủ yếu trong giai đoạn từ khi bắt đầu đổi mới đất nước (1986) cho đến nay. 4. Những đóng góp mới của luận án - Làm rõ nội dung giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, những nhân tố tác động tới việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. - Phân tích những kết quả đạt được, những hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra của việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay trên các lĩnh vực chủ yếu như sở hữu và phân phối. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu và tổ chức thực hiện tốt trên thực tế để giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, góp phần tạo động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cá nhân, xã hội, lợi ích, quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội... Ngoài ra, luận án cũng kế thừa thành quả của những công trình nghiên cứu trước đó về những vấn đề liên quan trực tiếp đến nội dung của luận án. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch s để phân tích bản chất của lợi ích, điều kiện hình thành, tồn tại, biến đổi và tính lịch s của lợi ích, lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội, quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội... Luận án s dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp tổng kết thực tiễn, phương pháp thống kê, các phương pháp thu thập và lý số liệu, thông tin (thứ cấp)... để phân tích thực trạng việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay bằng các dẫn liệu cụ thể. 6. Ý nghĩa của luận án Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho những người làm công tác quản lý xã hội xây dựng và thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước nhằm giải quyết 4 quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong những điều kiện cụ thể nhất định ở nước ta hiện nay. Cùng với đó, những nội dung này có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu giảng dạy triết học, các ngành khoa học xã hội và nhân văn tại các học viện, trường đại học, cao đẳng, trường chính trị tỉnh (thành phố). 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm: 04 chương, 12 tiết. Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ LỢI ÍCH, LỢI ÍCH CÁ NHÂN, LỢI ÍCH XÃ HỘI, CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI VIỆC GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về phạm trù lợi ích Tiêu biểu là các công trình như: cuốn sách Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội của tác giả Lê Hữu Tầng; cuốn sách Lợi ích - động lực của sự phát triển xã hội của tác giả Nguyễn Linh Khiếu; cuốn sách Nhu cầu: động lực và định hướng xã hội của tác giả Lê Thị Kim Chi; công trình Lợi ích - động lực của sự phát triển bền vững của tác giả Hoàng Văn Luân... Qua các công trình này, các tác giả đã chỉ ra khái niệm, bản chất của lợi ích, vai trò của lợi ích và phân loại lợi ích (cả cách tiếp cận của các học giả Liên Xô và phương Tây)... Chúng tôi kế thừa được nhiều giá trị về mặt lý luận và cả thực tiễn về vấn đề lợi ích từ những công trình này. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về khái niệm lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội và lợi ích kinh tế Các công trình đã đề cập trực tiếp đến các khái niệm lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội tiêu biểu như: công trình Thống nhất lợi ích kinh tế giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay của tác giả Đặng Quang Định; trong công trình Vấn đề lợi ích trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở vùng Nam bộ hiện nay của tác giả Lê Văn B u... Vấn đề lợi ích kinh tế đã được các công trình đề cập tới trực tiếp như: cuốn sách Bàn về các lợi ích kinh tế của các tác giả Đào Duy Tùng, Lê Xuân Tùng, Vũ Hữu Ngoạn; công trình Giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay của tác giả Đỗ Huy Hà... Những công trình này đã góp phần giúp chúng tôi ác định rõ nội hàm, ngoại diên của các khái niệm 5 lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội và lợi ích kinh tế và phân tích các vấn đề liên quan được nêu trong luận án. 1.1.3. Những công trình nghiên cứu về quan hệ và giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội Đây là nội dung chưa có công trình chuyên biệt nào đề cập tới, song đã có một số công trình đã đề cập tới ở nhiều mức độ, khía cạnh khác nhau, tiêu biểu như: cuốn sách Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích của tác giả Nguyễn Linh Khiếu; công trình Quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay của tác giả Trần Văn Phòng; bài viết Mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích công cộng và lợi ích cá nhân của Tang Shan Qing (Trung Quốc); bài viết Đổi mới nhận thức về mâu thuẫn và Vấn đề mâu thuẫn trong giai đoạn cách mạng mới ở nước ta của tác giả Phạm Ngọc Quang; công trình Quản trị xung đột lợi ích - các lý thuyết và vấn đề đặt ra ở Việt Nam hiện nay tác giả Hoàng Văn Luân; công trình Bàn về mâu thuẫn xung đột lợi ích hiện nay tác giả Hồ Bá Thâm… Qua các công trình này đã gợi mở để chúng tôi đưa ra những nội dung, phương thức của việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay. 1.1.4. Những công trình nghiên cứu về các nhân tố ảnh hƣởng tới việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội Các công trình nêu trên ít nhiều đều đã đề cập tới các nhân tố ảnh hưởng tới việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, song có thể kể đến một số công trình khác nữa như: bài viết Mối quan hệ giữa trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay của tác giả Lê Thi và nhất là công trình Quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay của tác giả Trần Văn Phòng đã phác thảo các nhân tố ảnh hưởng tới việc giải quyết quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Đây là những gợi mở hữu ích cho chúng tôi trong quá trình thực hiện luận án. 1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI Qua khảo cứu các công trình nghiên cứu về lợi ích chúng tôi nhận thấy, chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt về thực trạng giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Song, có thể nói, đã có khá nhiều công trình đề cập tới thực trạng việc giải quyết quan hệ giữa cá nhân và xã hội, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ở những khía cạnh cụ thể trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Các công trình có thể kể 6 đến như: công trình Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam hiện nay của tác giả Phạm Văn Đức; công trình Lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội: từ góc nhìn lịch sử đạo đức học của tác giả Nguyễn Văn Phúc; công trình Vấn đề mâu thuẫn xã hội ở nông thôn Việt Nam hiện nay của tác giả Trần Đắc Hiến; công trình Vấn đề lợi ích kinh tế của người nông dân trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay của tác giả Trần Thanh Giang; công trình Mâu thuẫn về lợi ích giữa các nhóm xã hội trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay của tác giả Trần Thị Bích Huệ… Đề cập ở góc độ khác, một số công trình đã đề cập tới những biểu hiện phức tạp của quan hệ lợi ích hiện nay như lợi ích nhóm, chủ nghĩa cá nhân, “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, như: công trình Lợi ích nhóm - Thực trạng và giải pháp của tác giả Lê Quốc Lý; bài viết ợi ích nh m và hủ nghĩa tư bản thân hữu - cảnh báo nguy cơ của tác giả Vũ Ngọc Hoàng; cuốn sách Tư bản thân hữu Trung Quốc của tác giả Minxin Pei; bài viết Chủ nghĩa cá nhân - nguy cơ của một đảng cầm quyền và hướng khắc phục của tác giả Nguyễn Văn Huyên… Đi vào đánh giá thực trạng của phương thức giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ở những khía cạnh cụ thể trên một số phương diện như sở hữu, phân phối đã có nhiều công trình đã đề cập tới, tiêu biểu như: Bài viết Thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay: mâu thuẫn và phương pháp giải quyết của Nguyễn Tấn Hùng và Lê Hữu Ái; công trình Biến đổi của quan hệ sản xuất ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay: Thực trạng và những vấn đề đặt ra của tác giả Lê Thị Vinh… Có thể nói, những công trình nêu trên đã phác họa nên một số khía cạnh cụ thể của thực trạng giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ở nước ta. Trên cơ sở đó, luận án đã có những phân tích, luận giải cụ thể để đánh giá kết quả tích cực đạt được, hạn chế, nguyên nhân và nêu một số vấn đề đặt ra trong việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, nhất là trong lĩnh vực sở hữu và phân phối, thông qua phương thức tác động của các chủ thể lợi ích. 1.3. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN GIẢI PHÁP ĐỂ GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI Các công trình nghiên cứu nêu trên đều đã đưa ra một số các quan điểm có tính định hướng và giải pháp giải quyết các quan hệ lợi ích trên một số phương diện cụ thể. Mỗi công trình đưa ra một số giải pháp không hoàn toàn giống nhau, song khái quát lại có thể thấy các công trình này đều thống nhất ở khía cạnh cho rằng cần đưa ra các giải pháp kết hợp các 7 lợi ích và cơ chế phát huy các lợi ích, thực hiện công bằng xã hội cũng như tăng cường x lý các vi phạm phát sinh liên quan đến các quan hệ lợi ích. Một số công trình tiêu biểu như: công trình Lợi ích xã hội và pháp luật của tác giả Võ Khánh Vinh; bài viết Quan điểm của Đảng về giải quyết vấn đề lợi ích tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới của tác giả Đặng Quang Định; công trình Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội - động lực phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam của tác giả Phạm Thị Hằng; bài viết Thực hiện công bằng xã hội đối với các hình thức sở hữu vì sự phát triển con người ở nước ta hiện nay của tác giả Trần Văn Rón và Lương Đình Hải; bài viết Tạo sự hài hòa về lợi ích giữa công nhân và doanh nhân ở Việt Nam hiện nay của tác giả Vũ Tiến Dũng… Đây đều là những công trình có giá trị tham khảo tốt cho chúng tôi trong việc gợi mở các giải pháp được đề xuất trong luận án. 1.4. GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG CÔNG TRÌNH TRÊN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC GIẢI QUYẾT 1.4.1. Giá trị của những công trình nghiên cứu nêu trên Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đã khái quát khá hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về lợi ích, phân loại, vị trí, vai trò của lợi ích, về lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội, về cá nhân và xã hội, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và ảnh hưởng của nó tới các quan hệ xã hội hiện nay. Thứ hai, các công trình cũng đã bước đầu phân tích về quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội; các công trình cũng đã có những thống nhất khi khẳng định: việc giải quyết các mâu thuẫn lợi ích có thể bằng cách thông qua tạo lập cơ chế mới để kết hợp hài hòa các lợi ích đối lập, chứ không phải bằng các biện pháp hành chính để triệt tiêu lợi ích nào đó. Thứ ba, các công trình trên đây, đã có những đánh giá về thực trạng giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trên phương diện tổng quát, thông qua quan hệ giữa cá nhân và xã hội, cũng như các khía cạnh cụ thể là các mâu thuẫn liên quan đến lợi ích nhóm, lĩnh vực đất đai, thu nhập, việc làm… trong điều kiện kinh tế thị trường hay trong bối cảnh công nghiệp hóa, đô thị hóa và hội nhập quốc tế... Thứ tư, các công trình trên cũng đã đưa ra các gợi mở về những giải pháp để giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, nhưng chủ yếu đề cập qua việc giải quyết hài hòa quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Các công trình cũng đã đi vào phân tích, đề xuất các giải pháp ở những góc độ khá cụ thể như: thực hiện đa dạng trong sở hữu, thực hiện phân phối hợp lý, thực hiện an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; đảm bảo hài hòa của 8 các chủ thể như nông dân, công nhân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa... 1.4.2. Một số vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị đã đạt được, các công trình nêu trên cũng có những mặt chưa được làm rõ, chúng tôi mong sẽ bổ sung, làm sâu sắc thêm ở công trình của mình những nội dung sau: Thứ nhất, làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về lợi ích cá nhân, những biểu hiện phức tạp của lợi ích cá nhân không chính đáng (lợi ích nhóm xấu, nhân danh lợi ích khác để tư lợi cá nhân) và những biểu hiện đa dạng, yêu cầu của thực hiện lợi ích xã hội trong điều kiện hiện nay. Cùng với đó, luận án phân tích nội dung và phương thức giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay ở lĩnh vực sở hữu và phân phối (lợi ích kinh tế) thông qua các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Thứ hai, phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Đó là các nhân tố như kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; nhận thức của xã hội và các chủ thể lợi ích và yếu tố văn hóa, lối sống của xã hội. Thứ ba, luận án phân tích những kết quả đạt được và hạn chế trong việc việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay dựa trên các nội dung căn bản đã được ác định trong phần lý luận. Cùng với đó luận án phân tích những nguyên nhân và vấn đề đặt ra trong việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ở nước ta hiện nay, đó là: nhận thức của các chủ thể lợi ích, các chính sách liên quan đến sở hữu, các chính sách liên quan đến phân phối. Thứ tư, luận án sẽ tập trung phân tích hệ thống các giải pháp giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ở lĩnh vực sở hữu và phân phối. Theo đó, luận án sẽ phân tích các giải pháp chủ yếu để giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay đó là: 1- Nâng cao nhận thức của các chủ thể lợi ích trong việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội; 2- Tiếp tục thực hiện và tổ chức thực hiện trên thực tế các chính sách đảm bảo công bằng xã hội; 3- Khuyến khích cá nhân thực hiện lợi ích chính đáng của mình đồng thời thúc đẩy thực hiện lợi ích xã hội; 4- Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách tiền lương, kết hợp thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. 9 Chƣơng 2 GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN 2.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1.1. Khái niệm lợi ích, lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội 2.1.1.1. Lợi ích Thứ nhất, về khái niệm, bản chất của lợi ích Lợi ích là cái phản ánh quan hệ nhu cầu giữa các chủ thể và dùng để thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể xã hội (cá nhân, tập đoàn, giai cấp, tầng lớp...) trong những điều kiện lịch s - xã hội nhất định. Nói cách khác, lợi ích là tất cả những gì chủ thể (cá nhân, tập thể, toàn xã hội) có thể chiếm hữu hoặc cần phải có (cần sở hữu). Lợi ích là đối tượng thỏa mãn nhu cầu. Thứ hai, về vai trò của lợi ích Lợi ích có vai trò quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Với tính cách là lợi ích cụ thể của một con người, lợi ích là động cơ thúc đẩy hay “động cơ tư tưởng”, là nguyên nhân của những trạng thái căng thẳng thôi thúc chủ thể hoạt động thực hiện lợi ích đó để thỏa mãn nhu cầu. Lợi ích chính là nhân tố quan trọng nhất trong chuỗi quy định nhân quả dẫn dắt sự hoạt động của con người: Nhu cầu - lợi ích - mục đích - hoạt động. Với tính cách là mâu thuẫn và quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa các loại lợi ích của chủ thể và giữa lợi ích của các chủ thể khác nhau, lợi ích là động lực của sự phát triển. Thứ ba, về phân loại lợi ích Dựa trên những căn cứ khác nhau, các nhà nghiên cứu đã chia lợi ích thành nhiều loại khác nhau: dựa vào các lĩnh vực của đời sống xã hội: chia thành lợi ích kinh tế, lợi ích văn hoá, lợi ích chính trị.... khái quát hơn là lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần; dựa vào phạm vi hoạt động của chủ thể: chia thành lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích giai cấp, lợi ích toàn xã hội, lợi ích quốc gia, lợi ích nhân loại... khái quát hơn là lợi ích riêng và lợi ích chung; dựa vào thời gian tồn tại của lợi ích: chia thành lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài; dựa vào tầm quan trọng của lợi ích: chia thành lợi ích căn bản và lợi ích không căn bản, lợi ích cấp bách và lợi ích không cấp bách; dựa vào tính chất và các biện pháp thực hiện lợi ích: chia thành lợi ích chính đáng và lợi ích không chính đáng; dựa vào xu hướng khách quan của sự phát triển xã hội, chia thành lợi ích tiến bộ, lợi ích bảo thủ … 10 2.1.1.2. Lợi ích cá nhân Lợi ích cá nhân là cái phản ánh quan hệ nhu cầu giữa cá nhân và các chủ thể xã hội khác dùng để thỏa mãn nhu cầu riêng tư cụ thể của cá nhân đó, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân. Bao gồm: lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị,... Đó chính là những lợi ích cụ thể phản ánh nhu cầu, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân thể hiện qua các quyền của con người như: quyền sống, quyền tự do, được an toàn, được lao động, được học tập, được chăm sóc y tế, được hưởng các giá trị an sinh xã hội - phúc lợi xã hội, quyền về kinh tế, quyền về chính trị... Lợi ích kinh tế của cá nhân ngày nay được biểu hiện khá phong phú, đa dạng, dưới nhiều dạng như: các nguồn thu nhập (tiền công, tiền lương, lợi tức, cổ phiếu, thu nhập từ lao động, các nguồn thu nhập khác), việc làm, tài sản gắn với cá nhân (đất đai, nhà ở, sở hữu trí tuệ, tài sản khác),... 2.1.1.3. Lợi ích xã hội Lợi ích xã hội là tất cả lợi ích phản ánh quan hệ nhu cầu của xã hội và là cái dùng để thỏa mãn nhu cầu chung của toàn xã hội về một (một số) đối tượng (vật chất, tinh thần) nhất định, bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của xã hội trong từng giai đoạn lịch s , thể hiện các quan hệ cơ bản và lâu dài của xã hội. Lợi ích xã hội ở đây không phải là lợi ích của một nhóm người, một giai tầng, mà đó là lợi ích của cả dân tộc, trong đó có lợi ích chung của các cá nhân cấu thành dân tộc, của cả dân tộc và không mâu thuẫn với lợi ích chung của nhân loại tiến bộ. 2.1.1.4. Bản chất và đặc trưng của kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay Bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chính là nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những đặc trưng cốt lõi đó là: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 2.1.2. Nội dung của giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam hiện nay Thực chất của việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay là quá trình 11 tác động vào việc nhận thức và thực hiện lợi ích của cá nhân và xã hội, tạo ra sự hài hòa, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội một cách hài hòa, tạo động lực cho sự phát triển xã hội trên cơ sở các nội dung sau: Thứ nhất, giải quyết tốt lợi ích cá nhân chính đáng tạo cơ sở, điều kiện để giải quyết lợi ích xã hội. Trong quá trình sống, nhu cầu của mỗi cá nhân được phản ánh trong ý thức, biến thành mục đích, thành động cơ tư tưởng và chính động cơ tư tưởng đó trực tiếp thúc đẩy mỗi cá nhân hành động để đạt được lợi ích nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân, qua đó tham gia, đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội trên các lĩnh vực của đời sống. Thứ hai, giải quyết tốt lợi ích xã hội sẽ tạo tiền đề để lợi ích cá nhân chính đáng được thực hiện. Lợi ích xã hội với ý nghĩa là những lợi ích hướng vào thỏa mãn những nhu cầu chung của nhiều thành viên hợp thành cộng đồng nên nó lại là điều kiện và đóng vai trò định hướng cho việc thực hiện lợi ích cá nhân. Khi lợi ích xã hội được giải quyết, đó cũng chính là lợi ích cá nhân được đáp ứng tương ứng. Bởi trong lợi ích xã hội đã bao gồm một phần lợi ích cá nhân. Lợi ích xã hội, mà cốt lõi là lợi ích kinh tế được giải quyết, tạo nền tảng để mỗi cá nhân có điều kiện thỏa mãn nhu cầu, thực hiện lợi ích của mình một cách tối đa nhất; mặt khác, lợi ích xã hội được tạo lập sẽ tạo cơ sở để hiện thực hóa lợi ích cá nhân tồn tại ngay trong nó. Thứ ba, nếu giải quyết không đúng đắn quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội sẽ triệt tiêu cả lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội là mâu thuẫn cơ bản của xã hội, việc giải quyết nó một cách hợp quy luật khách quan sẽ tạo động lực cho sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, nếu không giải quyết một cách hài hòa quan hệ lợi ích này sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội, kìm hãm sự phát triển cá nhân, cả lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội đều không được thực hiện, thậm chí có thể đẩy xã hội vào trạng thái khủng hoảng, lệch hướng. 2.1.3. Chủ thể và phƣơng thức tác động tới việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam hiện nay 2.1.3.1. Về chủ thể giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay Nói đến lợi ích là nói đến quan hệ lợi ích, trong từng các quan hệ cụ thể, với tính cách là các mặt đối lập, các mặt đối lập này có quan hệ thống nhất, đấu tranh (tương sinh, tương khắc) với nhau. Các chủ thể lợi ích thướng có u hướng củng cố, gia tăng các lợi ích của mình với nhiều cách 12 thức khác nhau và sự vi phạm lợi ích có thể dẫn đến sự đối kháng và thù địch giữa các chủ thể lợi ích. Việc giải quyết các quan hệ lợi ích, trong đó có quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội theo u hướng nào, tính chất, mức độ ra sao lại tùy thuộc vào nhân tố chủ quan, đó chính là các chủ thể lợi ích (Đảng, Nhà nước, cá nhân). Trong đó, chủ thể quan trọng nhất trong việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay chính là Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2.1.3.2. Về phương thức tác động tới việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay Phương thức chủ yếu để giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, được thể hiện trên những khía cạnh sau: Một là, thông qua các đường lối, chính sách, pháp luật về sở hữu để giải quyết các nội dung trong quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội (chủ thể sở hữu, hình thức sở hữu, đối tượng sở hữu, phạm vi và quy mô của sở hữu, quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể sở hữu, mối tương quan giữa các chủ thể sở hữu…). Hai là, thông qua các đường lối, chính sách, pháp luật về phân phối để giải quyết các nội dung trong quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội về phân phối (bao gồm phân phối: điều kiện sản xuất và kết quả sản xuất). Thứ ba, thông qua năng lực thực thi chính sách trên thực tế của các chủ thể lợi ích (nhất là chủ thể Nhà nước) và mức độ tham gia thực hiện các chính sách của các chủ thể lợi ích khác. Để đảm bảo sự tác động của các nhân tố chủ quan vào giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội một cách hài hòa, theo đúng quy luật khách quan, tạo ra một trạng thái cân bằng năng động, tạo động lực cho sự phát triển, cần định hướng các chủ trương, chính sách, pháp luật tác động theo các hướng sau: Một là, Đảng, Nhà nước thông qua đường lối, chính sách tạo môi trường, điều kiện, phương tiện để cá nhân và xã hội thực hiện được lợi ích trên các lĩnh vực chủ yếu như sở hữu, phân phối; Hai là, Đảng, Nhà nước thông qua đường lối, chính sách điều chỉnh, khắc phục các vấn đề mất cân bằng trong quan hệ lợi ích đảm bảo sự hài hòa, tập trung ở các lĩnh vực sở hữu, phân phối; Ba là, Đảng, Nhà nước thông qua đường lối, chính sách giải quyết các mâu thuẫn lợi ích cụ thể - trực tiếp tác động đến cá nhân và xã hội: 13 mâu thuẫn lợi ích giữa các chủ thể trong quá trình giải phóng mặt bằng, đền bù, giải tỏa đất đai, trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa; mâu thuẫn lợi ích giữa nhóm người đầu tư, s dụng lao động và người lao động trong các doanh nghiệp;... 2.2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.2.1. Tác động của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa tới việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ở Việt Nam hiện nay 2.2.1.1. Những tác động tích cực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tới việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế tạo cơ sở để các chủ thể lợi ích thực hiện lợi ích một cách tích cực, hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển xã hội. Thứ hai, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế tạo cơ sở để lành mạnh hóa các quan hệ kinh tế, quan hệ sở hữu, quan hệ phân phối qua đó tạo lập tiền đề để giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. 2.2.1.2. Những tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường tới việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội Thứ nhất, mặt trái của kinh tế thị trường thúc đẩy nhanh quá trình phân hóa giàu - nghèo, phân tầng xã hội và có u hướng tuyệt đối hóa lợi ích vật chất, hiệu quả kinh tế, có thể làm méo mó quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội theo hướng tiêu cực, mâu thuẫn lợi ích giữa cá nhân và xã hội ngày càng phức tạp. Thứ hai, mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế là môi trường tốt để tạo ra những hiện tượng “lợi ích nhóm”, “tư bản thân hữu” hay việc nhân danh xã hội chủ nghĩa để thực hiện lợi ích cá nhân gây những tổn hại trực diện tới việc giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, tạo ra những hành vi gây tổn hại đến lợi ích giữa các chủ thể. 2.2.2. Chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nƣớc trong giải quyết lợi ích kinh tế, nhất là trong sở hữu và phân phối Nhân tố này có thể tác động tới việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và xã hội chủ nghĩa theo cách nó có thể tạo môi trường công bằng, xây dựng cơ chế để tạo động lực để kích thích hoạt động của các chủ thể lợi ích nhằm đạt được các mục tiêu phát triển nhất định. 14 2.2.3. Nhận thức của xã hội và các chủ thể lợi ích Trình độ nhận thức của xã hội và các chủ thể lợi ích tác động rất lớn đến việc ác định động cơ, lập trường tư tưởng, định vị lợi ích bản thân trong quan hệ với các lợi ích khác và cách thức hành động, giải quyết quan hệ lợi ích trong đời sống của mỗi chủ thể lợi ích. 2.2.4. Sự tác động của văn hóa, lối sống xã hội tới việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội Những yếu tố văn hóa có thể có những tác động tích cực hoặc tiêu cực tới nhận thức và hành vi của mỗi chủ thể, nhất là chủ thể cá nhân trong việc hình thành thói quen, lối sống và thực hiện lợi ích của bản thân, qua đó góp phần giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Chƣơng 3 GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 3.1. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA LỢI ÍCH CÁ NHÂN VÀ LỢI ÍCH XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1.1. Những kết quả đạt đƣợc của việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam hiện nay 3.1.1.1. Cả lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội bước đầu đã được quan tâm giải quyết theo hướng thúc đẩy sự phát triển Thứ nhất, lợi ích cá nhân chính đáng được tạo điều kiện phát triển qua đ tạo cơ sở bước đầu giải quyết lợi ích xã hội phù hợp Đời sống của mỗi cá nhân không ngừng được nâng lên, quyền và lợi ích chính đáng được pháp luật bảo vệ, nhất là trong sở hữu và phân phối, kinh tế tư nhân được coi là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Lợi ích của các giai tầng cụ thể, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế trong xã hội, đồng bào vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo được quan tâm đúng mức, tỷ lệ hộ nghèo giảm, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội được thực hiện tốt... Lợi ích cá nhân dần dần được chú ý một cách thỏa đáng trong việc giải quyết quan hệ lợi ích cá nhân và xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở nhiều phương diện, song rõ nhất trong những thay đổi về sở hữu, chủ thể sở hữu tư nhân được thừa nhận và tạo điều kiện phát triển, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các vấn đề khác liên quan đến lợi ích cá nhân 15 được quan tâm như: thực hiện tốt chính sách óa đói, giảm nghèo, thực hiện tốt các chương trình phát triển nông nghiệp - nông dân - nông thôn, đầu tư cho vùng sâu, vùng a, thực hiện tốt phúc lợi xã hội và an sinh xã hội, quan tâm đến những đối tượng chính sách, người yếu thế trong xã hội... Thứ hai, lợi ích xã hội bước đầu được thực hiện tốt đã tạo tiền đề, điều kiện để lợi ích cá nhân chính đáng được thực hiện Những kết quả tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội cùng việc thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội trong những năm qua đã tạo lập những giá trị mới của xã hội, tạo lập sự công bằng về cơ hội trong việc hưởng thụ, tiếp cận các giá trị xã hội, tăng cơ hội phát triển; tạo thêm các động lực phát triển cho các chủ thể khi các quyền và lợi ích hợp pháp trên các lĩnh vực, nhất là trên lĩnh vực kinh tế được pháp luật công nhận, bảo bộ; đào tạo lao động được tăng cường, số việc làm được tạo ra ngày càng tăng; kết cấu hạ tầng dần hoàn thiện, an ninh - trật tự xã hội được củng cố... Thứ ba, từng bước khắc phục được tư duy tuyệt đối hóa lợi ích xã hội trong việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội Đó là việc chủ thể sở hữu tư nhân được thừa nhận và tạo điều kiện phát triển, kinh tế tư nhân từ chỗ không được thừa nhận, đến chỗ thừa nhận và hiện nay coi đó “là một động lực quan trọng của nền kinh tế”; dần tạo lập môi trường bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế trong việc tiếp cận các nguồn lực phát triển, các thành phần kinh tế thực sự bình đẳng trước pháp luật; quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân được đảm bảo trong các vấn đề cụ thể liên quan đến tài sản của công dân (sở hữu đất đai, sở hữu tài sản khác). 3.1.1.2. Đảng và Nhà nước đã ban hành và tổ chức thực hiện ngày một tốt hơn những chủ trương, chính sách đúng đắn về tạo cơ hội phát triển của cả lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội Một là, sự thay đổi chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước về sở hữu. Trước hết, về chủ thể sở hữu: chuyển từ việc chỉ thừa nhận vai trò độc tôn của chủ thể sở hữu là Nhà nước đối với các tư liệu sản xuất cơ bản sang công nhận nhiều chủ thể sở hữu (nhà nước, tư nhân, hỗn hợp). Về đối tượng sở hữu, ngoài những đối tượng sở hữu truyền thống như đất đai, tài nguyên, máy móc,... xuất hiện các đối tượng sở hữu mới như các sản phẩm trí tuệ, thông tin, thị trường, thương hiệu, tên miền internet, tài nguyên số, không gian vũ trụ, thậm chí là sở hữu cơ hội phát triển... đều được công nhận và đóng vai trò to lớn hơn trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Về hình thức sở 16 hữu: nếu như trước đổi mới, chúng ta chỉ thừa nhận hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, thì từ đổi mới đến nay, xây dựng trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, các hình thức sở hữu ở Việt Nam đã được ghi nhận bao gồm: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu tư bản nhà nước, sở hữu có yếu tố nước ngoài và sở hữu hỗn hợp; tương ứng với nó là các thành phần kinh tế. Hai là, sự thay đổi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về phân phối đã có tác động rất lớn đến việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ở nước ta hiện nay. Từ khi đổi mới đến nay, Đảng, Nhà nước đã có những thay đổi chủ trương, chính sách về phân phối một cách hợp lý hơn. Tại Đại hội IX, Đảng chỉ rõ: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế; đồng thời phân phối theo mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Về chủ thể phân phối, đã ác định rõ vai trò của ba chủ thể phân phối là Nhà nước, doanh nghiệp và thị trường, trong đó, thị trường là một kênh phân phối nguồn lực hiệu quả, phân phối thu nhập quan trọng và góp phần đắc lực vào phân phối cơ hội phát triển cho mọi chủ thể kinh tế tự do làm giàu trong lĩnh vực mà pháp luật không cấm nhằm tối đa hóa lợi ích riêng của mình, đồng thời góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Về khách thể phân phối, không chỉ là phân phối về thu nhập, mà đó còn là phân phối nguồn lực, cơ hội phát triển, phân phối phát triển. Đó còn là sự đa dạng về hình thức phân phối như Đại hội XII khẳng định đó là: phân phối theo lao động, phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh, phân phối thông qua phúc lợi xã hội, phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội. 3.1.2. Những hạn chế và nguyên nhân của việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam hiện nay 3.1.2.1. Những hạn chế của việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay Thứ nhất, tình trạng nhân danh lợi ích xã hội để vi phạm lợi ích cá nhân chính đáng của nhân dân lao động vẫn tồn tại và tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp. Biểu hiện của tình trạng này đó là những hiện tượng tham ô, tham nhũng, lãng phí, những biểu hiện của “lợi ích nhóm” tiêu cực, hay “tư bản thân hữu”... trong rất nhiều lĩnh vực của xã hội, nhất là trong sở hữu, quản lý tài sản của Nhà nước, lĩnh vực đất đai, ây dựng. Thực chất của những biểu hiện này chính là việc đề cao lợi ích cá nhân không chính đáng, vi phạm đến 17 lợi ích xã hội, lợi ích của nhân dân lao động và của cá nhân khác. Những vụ án về tham ô, tham nhũng, lãng phí thời gian được đưa ra ánh sáng là những minh chứng cho điều đó. Thứ hai, tình trạng đề cao lợi ích cá nhân không chính đáng, vi phạm lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân khác gây ra những tổn hại cho sự phát triển xã hội vẫn c xu hướng phức tạp. Hiện tượng buôn lậu, trốn thuế của nhiều cá nhân, doanh nghiệp; các hiện tượng hàng giả, hàng kém chất lượng; thực phẩm “bẩn”, cho đến những hành vi xây dựng nhà ở, khu đô thị, phá vỡ quy hoạch chung của thành phố, xây nhà không phép, lấn chiếm lòng đường, vỉa hè, hành lang an toàn, không gian công cộng, xây dựng các chung cư không theo quy định, không đảm bảo tiện ích theo quy định xảy ra ở nhiều nơi, nhất là ở thành phố lớn; những hiện tượng xe quá khổ, quá tải, xâm hại, lấn chiếm các công trình công cộng, công trình Nhà nước… đang làm cho lợi ích xã hội mà Nhà nước là đại diện bị những tổn hại rất lớn. Hay những vấn đề phức tạp khác về an ninh, trật tự từ thành thị đến nông thôn trong thời gian qua… đang gây những hệ lụy không nhỏ đối với cuộc sống của nhiều cá nhân, gia đình, gây phức tạp tình hình kinh tế - xã hội. Thứ ba, nhiều lợi ích xã hội chưa được thực hiện một cách phổ quát, song lại vẫn còn tồn tại những biểu hiện đề cao lợi ích xã hội, trong khi lợi ích cá nhân chính đáng chưa được chú ý một cách đúng mức. Cụ thể khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư còn lớn, đời sống một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn; thu nhập, đời sống của người lao động còn thấp; lương của cán bộ, công chức, viên chức chưa cao; tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo ở vùng sâu, vùng xa, nhất là trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao (một số huyện, ã lên đến 50%), cả nước có khoảng 1% số người vẫn trong tình trạng thiếu đói. Một số nội dung của an sinh xã hội (chính sách bảo đảm việc làm, thu nhập và giảm nghèo; chính sách bảo hiểm xã hội; chính sách trợ giúp xã hội nhằm hỗ trợ đột xuất và thường uyên cho người dân; chính sách dịch vụ xã hội cơ bản) và phúc lợi xã hội chưa được thực hiện tốt, vẫn diễn ra “nghịch lý an sinh xã hội”, thể hiện đặc biệt rõ qua việc so sánh tỷ trọng trợ cấp an sinh xã hội mà các hộ gia đình giàu và nghèo nhận được. Ở khía cạnh khác, mặc dù, Đảng ta khẳng định: các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật, tuy nhiên có thể thấy lĩnh vực kinh tế tư nhân còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn lực, thậm chí gặp những rào cản trong quá trình phát triển (nhiều thủ tục hành chính còn rườm rà, nhận thức về kinh tế tư nhân còn chưa thông suốt, tình trạng tham nhũng, tham ô, sách nhiễu đối với kinh tế tư nhân còn nhiều...). Chính vì vậy, trong năm 2018, số doanh nghiệp tư nhân
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan