Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải quyết mâu thuẫn vợ chồng ở dân tộc Cơ Ho hiện nay (Nghiên cứu trường hợp xã...

Tài liệu Giải quyết mâu thuẫn vợ chồng ở dân tộc Cơ Ho hiện nay (Nghiên cứu trường hợp xã Gia Hiệp, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng (Luận văn thạc sĩ)

.PDF
107
89
63

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐÀO THỊ HIẾU GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN VỢ CHỒNG Ở DÂN TỘC CƠ HO HIỆN NAY (Nghiên cứu trường hợp xã Gia Hiệp, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng) LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC HÀ NỘI - 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐÀO THỊ HIẾU GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN VỢ CHỒNG Ở DÂN TỘC CƠ HO HIỆN NAY (Nghiên cứu trường hợp xã Gia Hiệp, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng) Ngành: Xã hội học Mã số: 8.31.03.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC CHIỆN HÀ NỘI - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu phân tích trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu của luận văn chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Luận văn đã thừa kế các kết quả nghiên cứu của một số nghiên cứu khác dưới hình thức trích dẫn. Các nguồn trích dẫn đã được liệt kê trong mục tài liệu tham khảo của luận văn. Ngƣời thực hiện Đào Thị Hiếu LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện đề tài “Giải quyết mâu thuẫn vợ chồng ở dân tộc Cơ Ho hiện nay” tôi đã nhận được sự giúp đỡ của rất nhiều người. Trước tiên, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Đức Chiện, người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi từ việc gợi mở ý tưởng về đề tài nghiên cứu cho đến những nhận xét và góp ý quý báu để giúp tôi hoàn thành tốt luận văn của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Trường Đại học Đà Lạt, Ban Chủ nhiệm Khoa Công tác xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi để cho tôi tham gia khoá đào tạo cao học năm 2016 - 2018 tại Học viện Khoa học Xã hội. Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn tới các thầy giáo, cô giáo của Học viện Khoa học Xã hội đã trang bị cho tôi những kiến thức và bài học bổ ích trong quá trình tôi học tập. Tôi xin được cảm ơn các em sinh viên và đồng nghiệp tại Khoa Công tác xã hội, thư viện Trường Đại học Đà Lạt đã nhiệt tình đồng hành cùng tôi trong quá trình phỏng vấn các hộ gia đình tại địa bàn khảo sát, tìm kiếm tài liệu để tôi có được những tư liệu phục vụ cho nghiên cứu. Tôi cũng xin cảm ơn các cán bộ của UBND xã Gia Hiệp, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng đã nhiệt tình tiếp đón và cung cấp những thông tin hữu ích cho tôi hoàn thành nghiên cứu. Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, người thân, bạn bè đã luôn ủng hộ, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình tôi học tập và làm luận văn. Hà Nội, ngày tháng 06 năm 2018 Ngƣời thực hiện Đào Thị Hiếu MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI..................... 24 1.1. Cơ sở lý luận ................................................................................................ 24 1.2. Địa bàn nghiên cứu và vài nét về gia đình người dân tộc Cơ Ho ................ 31 1.3. Tiểu kết ......................................................................................................... 35 Chƣơng 2 HÌNH THỨC MÂU THUẪN VÀ CÁCH GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN VỢ CHỒNG TRONG GIA ĐÌNH DÂN TỘC CƠ HO ....... 36 2.1. Giai đoạn và hình thức mâu thuẫn vợ chồng trong gia đình dân tộc Cơ Ho ........................................................................................................................ 36 2.2. Cách thức giải quyết mâu thuẫn vợ chồng trong gia đình người dân tộc Cơ Ho .................................................................................................................. 45 2.3. Tiểu kết ......................................................................................................... 54 Chƣơng 3 YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG CÁCH GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN VỢ CHỒNG TRONG GIA ĐÌNH DÂN TỘC CƠ HO .................. 56 3.1. Nhóm yếu tố cá nhân.................................................................................... 56 3.2. Nhóm yếu tố gia đình, dòng họ, cộng đồng (Luật tục) và tôn giáo ............. 63 3.3. Nhóm yếu tố chính quyền (Tổ hòa giải) và luật pháp trong việc giải quyết mâu thuẫn vợ chồng của người dân tộc Cơ Ho hiện nay .......................... 69 3.4. Tiểu kết ......................................................................................................... 75 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 76 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 1 DANH MỤC VIẾT TẮT STT Viết tắt Viết đầy đủ 1 CNH Công nghiệp hóa 2 HĐH Hiện đại hóa 3 PVS Phỏng vấn sâu 4 THCS Trung học cơ sở 5 THPT Trung học phổ thông 6 UBND Ủy ban nhân dân DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1: Dân cư người dân tộc Cơ Ho ở xã Gia Hiệp ...................................... 20 Bảng 1.2: Cơ cấu mẫu điều tra định lượng phân chia theo thôn và giới tính ..... 20 Bảng 1.3: Các tiêu chí cụ thể của mẫu điều tra định lượng ................................ 21 Bảng 2.1: Mức độ xảy ra mâu thuẫn giữa vợ chồng .......................................... 40 Bảng 2.2: Hình thức giải quyết mâu thuẫn giữa vợ chồng ................................. 45 Bảng 2.3: Đánh giá vai trò của người tham gia vào giải quyết mâu thuẫn vợ chồng ....................................................................................................... 52 Bảng 3.1: Mối quan hệ giữa nhóm tuổi và hình thức giải quyết mâu thuẫn vợ chồng .................................................................................................. 56 Bảng 3.2: Mối quan hệ giữa trình độ học vấn và hình thức giải quyết mâu thuẫn vợ chồng ........................................................................................ 57 Bảng 3.3: Mối quan hệ giữa mức sống hộ gia đình và hình thức giải quyết mâu thuẫn ................................................................................................ 58 Bảng 3.4: Mối quan hệ giữa mức sống hộ gia đình và cách giải quyết mâu thuẫn bằng lời nói .................................................................................... 59 Bảng 3.5: Mối quan hệ giữa nghề nghiệp chính và hình thức giải quyết mâu thuẫn vợ chồng ........................................................................................ 61 Bảng 3.6: Kiểu loại gia đình và hình thức giải quyết mâu thuẫn vợ chồng ........ 64 Bảng 3.7: Mối quan hệ giữa kiểu loại gia đình và cách giải quyết mâu thuẫn bằng hành động ....................................................................................... 65 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1: Vấn đề thường gây ra mâu thuẫn trong đời sống hôn nhân ........... 37 Biểu đồ 2.2: Hình thức biểu hiện của mâu thuẫn giữa vợ chồng ........................ 42 Biểu đồ 2.3: Hình thức biểu hiện mâu thuẫn giữa vợ chồng bằng lời nói .......... 42 Biểu đồ 2.4: Hình thức biểu hiện mâu thuẫn giữa vợ chồng bằng hành động.... 43 Biểu đồ 2.5: Cách giải quyết mâu thuẫn của vợ chồng thông qua hình thức lời nói ...................................................................................................... 46 Biểu đồ 2.6: Cách giải quyết mâu thuẫn của vợ chồng thông qua hình thức ..... 47 Biểu đồ 2.7: Những người tham gia giải quyết mâu thuẫn giữa vợ chồng ......... 48 Biểu đồ 2.8: Giải quyết mâu thuẫn vợ chồng bằng cách phân tích, khuyên bảo ........................................................................................................... 50 Biểu đồ 2.9: Giải quyết mâu thuẫn vợ chồng bằng cách chia sẻ, thông cảm ..... 51 Biểu đồ 3.1: Luật tục về hôn nhân tác động đến cách giải quyết mâu thuẫn vợ chồng .................................................................................................. 66 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ xưa đến nay, gia đình luôn giữ một vị trí rất quan trọng. Nó không đơn giản là nơi hội tụ các thành viên có quan hệ hôn nhân, cùng chung một dòng máu với nhau mà là một môi trường xã hội hóa trẻ em, ổn định nhân cách của người lớn và tham gia vào hoạt động kinh tế để giúp xã hội phát triển. Đối với người Việt Nam, gia đình mang trong đó cả một sự thiêng liêng. Nhưng trong những năm gần đây, gia đình cũng đang có sự thay đổi cùng với sự biến đổi của kinh tế, xã hội. Có thể nói, gia đình Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều vấn đề của sự chuyển đổi xã hội trong giai đoạn hiện nay. Khi sự tăng trưởng của kinh tế, xã hội không đi đôi với sự phát triển của văn hóa xã hội thì sẽ dẫn tới sự khủng hoảng về các giá trị tinh thần, đạo đức của con người. Mâu thuẫn giữa vợ chồng đã vượt ra khỏi phạm vi gia đình và có thể dẫn đến ly thân, ly dị và tái hôn [28]. Thực tế đã cho thấy mâu thuẫn vợ chồng dẫn đến ly hôn, bạo lực trong gia đình không ngừng tăng lên hàng năm. Theo số liệu chính thức củaTòa án nhân dân tối cao đã thống kê cho thấy số vụ ly hôn vào năm 2010 ở nước ta là 88591 vụ. Và theo số liệu từ Tổng cục Thống kê qua một số năm đã khẳng định năm 2016, cả nước có 24.308 vụ ly hôn, tăng xấp xỉ 25% so với năm 2013. Ở hai thành phố lớn của Việt Nam là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, số vụ ly hôn xét xử năm 2016 lần lượt chiếm 3,6% và 8,7% [14]. Nguyên nhân của vấn đề đó là do nhiều vấn đề khác nhau nhưng chủ yếu vẫn là do điều kiện kinh tế khó khăn [5]. Thực tế không phải khi xảy ra mâu thuẫn là người ta sẽ lựa chọn phương án ly hôn hay bạo lực mà họ còn có nhiều cách thức giải quyết khác nhau. Các nhà nghiên cứu cho rằng mâu thuẫn trong hôn nhân không có nghĩa là xấu. Cách thức mà các cặp vợ chồng xử lý tác động tiêu cực trong mâu thuẫn sẽ quyết định sự thành công trong hôn nhân [36]. Điều đó có nghĩa rằng, cách thức mà họ giải quyết mâu thuẫn trong hôn nhân có tác động đến đời sống của chính họ sau đó. Cuộc hôn nhân đó sẽ được củng cố và xây dựng hay là bị phá hỏng. Chính vì vậy, trong các mâu thuẫn giữa các vợ chồng thì điều quan trọng nhất là tìm ra cách thức để giải quyết vấn đề. Bởi vì, mâu thuẫn chưa được giải quyết có thể dẫn đến cảm giác oán giận và hơn nữa có thể là ảnh hưởng tới sức khỏe tinh thần của một trong hai người hay thậm chí là cả hai [36]. Bên cạnh đó, nó còn ảnh hưởng tới những người xung quanh về sức khỏe thể chất, đời sống tinh thần và công 1 việc .v.v… Thực tế cho thấy mâu thuẫn vợ chồng, sự lựa chọn cách thức để giải quyết mâu thuẫn giữa vợ chồng cũng có sự khác nhau giữa các nhóm theo biến thể vùng, miền, dân tộc, tôn giáo, tuổi hay nhóm nghề nghiệp, v.v... Trong bối cảnh quá trình CNH HĐH mâu thuẫn vợ chồng cũng đang có chiều hướng gia tăng ở các dân tộc thiểu số tại khu vực Tây Nguyên. Bên cạnh đó, thực tế chưa có một nghiên cứu nào tìm hiểu về việc giải quyết mâu thuẫn giữa vợ chồng ở người dân tộc Cơ Ho dưới góc nhìn của xã hội học. Quá trình giải quyết mâu thuẫn quan hệ vợ chồng của đồng bào dân tộc thiểu số cũng bị chi phối bởi nhiều yếu tố và đặt ra nhiều câu hỏi cần nghiên cứu tìm hiểu. Do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Giải quyết mâu thuẫn vợ chồng ở dân tộc Cơ Ho hiện nay” để bước đầu tìm hiểu và làm rõloại hình mâu thuẫn và cách giải quyết mâu thuẫnvợ chồng của người dân tộc Cơ Ho trong bối cảnh hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Qua việc tìm hiểu những nguồn tài liệu có sẵn về vấn đề nghiên cứu thì tác giả đã tìm được 23 đề tài nghiên cứu, báo cáo khoa học về chủ đề nghiên cứu đã được đăng trên Tạp chí Xã hội học, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, Tạp chí Tâm lý học, và một số công trình, báo cáo kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước. Tuy nhiên, chỉ có 19 đề tài nghiên cứu, báo cáo khoa học liên quan chủ yếu đến chủ đề nghiên cứu. Dựa vào những bài báo và báo cáo khoa học trên, tác giả đọc, tổng quan và tìm ra hướng đi cho đề tài nghiên cứu của mình. 2.1. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn giữa vợ chồng Trong đời sống hôn nhân thì có rất nhiều vấn đề đã tạo ra sự mâu thuẫn giữa vợ chồng. Một trong số những vấn đề đó là về mặt tài chính. Bài viết “Financial disagreements and marital conflict tactics” của Jeffrey Dew và John Dakin (2011) đã nêu lên các loại bất đồng ý kiến khác nhau có liên quan đến sự mâu thuẫn giữa vợ chồng. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ Điều tra Quốc gia về gia đình và hộ gia đình (N = 3,861 cặp vợ chồng). Xem xét kết quả một cách tổng thể thì cho thấy bất đồng về tài chính là một trong những nhân tố gây nên sự mâu thuẫn nhiều nhất mặc dù các nghiên cứu trước đây vẫn cho rằng công việc nhà cũng là yếu tố tác động mạnh mẽ đến việc tạo thành mâu thuẫn giữa vợ chồng. Cũng giống như công việc nhà, vấn đề tài chính gia đình có liên quan đến vấn đề giới tính và vai trò trong gia đình [29]. Đây chính là hướng đi tiếp theo cho những công trình nghiên cứu kế tiếp nhằm tìm hiểu mối quan hệ giữa vấn đề tài chính và mối quan hệ cá nhân. 2 Bên cạnh đó, trong bài viết “A financial issue, a relationship issue, or both? Examining the predictors of marital financial conflict” của Jeffrey P. Dew và Robert Stewart (2012) đã nêu rõ sự tác động của tài chính đến mối quan hệ vợ chồng. Nghiên cứu này sử dụng mẫu đại diện trên toàn quốc với 1500 cặp vợ chồng. Kết quả nghiên cứu cho thấy áp lực về mặt kinh tế, vấn đề truyền thông và các vấn đề ẩn sâu bên trong quan hệ hôn nhân đều liên quan đến mâu thuẫn về tài chính. Người chồng đã đóng góp vào kinh tế của gia đình chiếm trung bình 76% thu nhập. Trong khi đó, nợ tiêu dùng sẽ làm giảm thu nhập của họ trong tương lai. Từ đó, người chồng phải chịu trách nhiệm kiếm phần lớn thu nhập. Vì thế họ đã cảm thấy rất bực bội. Và chỉ khi các cặp vợ chồng có được sự thỏa đáng với nhau về mặt truyền thông, sự tôn trọng, cam kết, công bằng và có mức độ quyền lực kinh tế bình đẳng thì mức độ mâu thuẫn về tài chính thấp hơn [30]. Như vậy, mâu thuẫn về mặt tài chính được xem như là trung tâm của các vấn đề mâu thuẫn giữa vợ chồng. Một trong những lý do khiến cho vợ chồng trong gia đình mâu thuẫn, đặc biệt gia đình ở nông thôn Việt Nam là sự khác nhau về quyền lực và sự tiếp cận các nguồn lực. Bài viết “Quyền lực của vợ chồng trong gia đình nông thôn” của Phạm Thị Huệ (2007) đã cho chúng ta thấy điều đó. Nghiên cứu nhấn mạnh tới quan hệ quyền lực giữa vợ chồng ở gia đình nông thôn Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất, mua sắm đồ đắt tiền, trong quan hệ gia đình, họ hàng và trong hoạt động xã hội. Xét về sự đóng góp kinh tế, người chồng là người quyết định chính cho dù đóng góp kinh tế ít hay nhiều. Quyền quyết định của vợ trong sản xuất tỷ lệ thuận với sự đóng góp của họ trong sản xuất. Về quyền quyết định của vợ, chồng trong mua sắm đồ đạc đắt tiền thì cả hai vợ chồng cùng quyết định. Tuy nhiên, nếu đóng góp về kinh tế của người nào càng tăng thì quyền quyết định trong mua sắm đồ đạc đắt tiền càng cao. Trong quan hệ với gia đình và họ hàng, người vợ và chồng cùng nhau bàn bạc với nhau là chiếm tỉ lệ cao nhất. Bên cạnh đó, nếu đóng góp của người vợ trong kinh tế càng nhiều thì quyền quyết định của họ càng tăng lên. Xét về độ tuổi, nếu người chồng trẻ (dưới 30 tuổi) hoặc già (trên 60 tuổi) thì họ có quyền quyết định về sản xuất, mua sắm đồ đắt tiền nhiều hơn những nhóm tuổi khác, ngược lại thì tuổi người vợ càng cao thì quyền quyết định của họ ngày càng được cải thiện. Trong quan hệ gia đình và họ hàng, quyền quyết định của cả hai vợ chồng cao nhất là ở nhóm tuổi trẻ (dưới 30 tuổi) hoặc ở nhóm tuổi già (trên 60 tuổi). 3 Xét theo trình độ học vấn người chồng có học vấn càng thấp thì quyền quyết định của người chồng trong sản xuất, mua sắm đồ đạc đắt tiền, trong mối quan hệ với gia đình, họ hàng và trong hoạt động xã hội càng cao. Và ngược lại, học vấn của người vợ càng cao thì quyền quyết định càng cao hơn [10]. Tác giả chưa chỉ ra được từ sự khác nhau về quyền lực giữa vợ và chồng trong việc đưa ra các quyết định thì họ có xảy ra sự mâu thuẫn hay không? Việc xảy ra bạo lực, mâu thuẫn trong gia đình có mối liên quan với bất bình đẳng xã hội. Vấn đề bình đẳng và bất bình đẳng trong gia đình đã trở thành một chủ đề nghiên cứu thu hút đối với nhiều nhà nghiên cứu. Bài viết “Quan niệm và thái độ của vợ chồng trẻ về bình đẳng giới trong gia đình” của Trần Thị Anh Thư (2010) chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính với mục tiêu nhằm phân tích vấn đề liên quan đến nhận thức và thái độ của vợ chồng trẻ về bình đẳng giới trong gia đình. Mẫu nghiên cứu được hình thành theo cách chọn mẫu chỉ tiêu với dung lượng mẫu là 24 trường hợp. Nữ giới sau khi kết hôn đã tham gia nhiều vào hoạt động kinh tế. Họ quan niệm phụ nữ cũng nên đóng góp kinh tế cho gia đình chứ không chỉ trông chờ vào đàn ông. Đồng thời, họ cũng cho rằng nam giới phải là trụ cột chính về mặt kinh tế trong gia đình. Cả nam giới và nữ giới đều nhận thức được trách nhiệm đối với gia đình. Nữ giới quan niệm nội trợ và chăm sóc gia đình chu đáo là phương cách tốt nhất để xây dựng, bảo vệ hạnh phúc gia đình và họ cũng muốn chồng chia sẻ công việc nội trợ, chăm sóc con cái. Còn nam giới cho rằng nội trợ là công việc nhỏ nhặt và phù hợp với nữ giới. Nhiều người chồng trẻ cho rằng nếu người vợ làm tốt công việc nội trợ thì sẽ làm cho gia đình hạnh phúc. Theo họ, bình đẳng giới là sự chia sẻ trách nhiệm chăm lo cho gia đình cả về vật chất lẫn tinh thần, vợ chồng tôn trọng lẫn nhau. Các cặp vợ chồng trẻ cho rằng giữa bình đẳng giới và hạnh phúc gia đình có mối quan hệ mật thiết với nhau. Và để giữ được hạnh phúc gia đình thì họ cho rằng cần phải chiều chuộng nhau, cố gắng kìm chế “cái tôi” của mình mới giữ được hòa khí trong gia đình. Và khi hai vợ chồng không thể hiện được trách nhiệm đó thì sẽ dẫn đến mâu thuẫn [24]. Tuy nhiên, trong đời sống vợ chồng hiện nay vẫn đang còn có sự bất bình đẳng. Bàn về vấn đề này, Vũ Thị Thanh (2009) đã có bài viết “Bất bình đẳng giới giữa vợ và chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam hiện nay”. Tác giả đã phân tích được sự bất bình đẳng trong phân công lao động giữa vợ và chồng, nêu ra một số yếu tố ảnh hưởng 4 tới bất bình đẳng trong quan hệ vợ chồng và sự quyết định trong gia đình. Tỷ lệ người chồng tham gia vào công việc rửa chén, giặt giũ, nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa không đáng kể. Đối với cặp vợ chồng trẻ, tỷ lệ người vợ nắm giữ tiền chi tiêu và mua thức ăn cao hơn cặp vợ chồng cao tuổi. Một số công việc như nấu ăn, dọn nhà và giặt giũ quần áo thì tỷ lệ người chồng trẻ trong gia đình thường xuyên thực hiện nhiều hơn các cặp vợ chồng cao tuổi. Mặc dù, người chồng tham gia làm các công việc trong gia đình nhưng mức độ làm vẫn thấp hơn so với người vợ. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng sống riêng thì tỷ lệ họ cùng làm việc nấu ăn và dọn dẹp nhà cửa nhiều hơn so với khi kết hôn xong mà ở chung với bố mẹ. Bên cạnh đó, con cái cũng tham gia nhiều vào công việc trong gia đình nên độ tuổi của con cái là một yếu tố rất quan trọng. Trong bốn loại hình công việc trong gia đình như công việc sản xuất, mua sắm đồ đạc đắt tiền, quan hệ xã hội và quan hệ gia đình thì người vợ chỉ quyết định nhiều hơn so với người chồng ở công việc sản xuất. Vì nam giới ở nông thôn hiện nay có xu hướng tìm các công việc ngoài nông nghiệp để cải thiện thu nhập gia đình. Nếu gia đình có chồng làm nông nghiệp thì người đó sẽ tự quyết định. Còn trong gia đình mà cả hai người đều làm nông nghiệp thì người vợ sẽ quyết định nhiều hơn chồng. Riêng gia đình mà làm nghề phi nông nghiệp thì người chồng sẽ quyết định nhiều hơn. Các dữ liệu định tính đã cho thấy sự ảnh hưởng sâu sắc của các định kiến giới truyền thống đến suy nghĩ và hành động trong quan hệ vợ chồng ở nông thôn. Người chồng cho rằng mình chỉ nên làm công việc nặng nhọc, to lớn. Còn người vợ thì nhận trách nhiệm về công việc nội trợ, chăm sóc con cái trong gia đình [21]. Theo kết quả nghiên cứu của Bùi Quang Dũng (2002) đã cho thấy nguyên nhân gây ra sự lục đục trong gia đình nghèo khó chủ yếu là do khó khăn về kinh tế, mâu thuẫn vì tài sản thừa kế do bố mẹ chia không đều hay do những lý do vụn vặt khác. Sự xích mích trong gia đình khá giả thì thường đến từ phía người đàn ông. Bởi vì, họ kiếm được thu nhập cao hơn và tham gia vào các hoạt động giải trí [3]. Các nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn giữa vợ chồng không phải chỉ xuất phát từ những vấn đề liên quan đến chuyện cơm áo gạo tiền, dạy dỗ con cái… trong gia đình mà nó còn xuất phát từ cách ứng xử của người vợ, người chồng đối với hàng xóm, bạn bè. Bàn về vấn đề này, Nguyễn Hồng Hà (2010) đã có một bài viết “Nguyên nhân xung đột trong gia đình dưới góc độ cư xử với bạn bè, hàng xóm”. Tác giả đã tập trung tìm hiểu nguyên nhân xung đột dưới góc độ cư xử với bạn bè và hàng xóm. Bài viết đã 5 thông qua tác động của các yếu tố kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội để tìm hiểu nguyên nhân mâu thuẫn trong gia đình của các cặp vợ chồng trẻ ở Hà Nội hiện nay. Phạm vi khảo sát ở 2 phường là Tân Nghĩa (Cầu Giấy) và Cửa Đông (Hoàn Kiếm), năm 2009. Phương pháp thu thập thông tin là điều tra bằng bảng hỏi và PVS. Tác giả sử dụng phương pháp chọn mẫu theo cụm trên cơ sở có khung mẫu gồm 2 cụm phường Tân Nghĩa và phường Cửa Đông. Sau khi lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản với kích thước mẫu là 300 thì tiếp tục sử dụng phương pháp chọn mẫu phân tầng. Kết quả nghiên cứu cho thấy không có tương quan chặt chẽ giữa chênh lệch tuổi của vợ chồng với nguyên nhân mâu thuẫn trong cách ứng xử bạn bè, hàng xóm. Tỷ lệ mâu thuẫn nguyên nhân đó cao nhất ở các cặp vợ chồng có học vấn chênh lệch nhau và tìm hiểu trước hôn nhân ngắn. Cặp vợ chồng làm nghề khác nhau thì sẽ hay mâu thuẫn với nhau. Những người đồng ý với quan niệm về hạnh phúc gia đình là dựa trên các yếu tố mang tình yêu thương thì ít xảy ra mâu thuẫn hơn so với cặp vợ chồng ủng hộ quan niệm để có hạnh phúc gia đình thì phải có kinh tế ổn định. Các cặp vợ chồng có thu nhập cao thì ít mâu thuẫn hơn so với cặp vợ chồng có thu nhập thấp. Nếu trong gia đình, cả hai vợ chồng đều chia sẻ với nhau công việc nhà, biết chồng (vợ) của mình có bao nhiêu bạn bè, thường đi chơi với bạn bè của chồng (vợ) thì ít xảy ra mâu thuẫn hơn. Trong gia đình mà cả hai vợ chồng đều đóng góp tài chính và người vợ là người quyết định mọi việc chi tiêu lớn trong gia đình thì thường xảy ra mâu thuẫn hơn gia đình mà cả hai người đều đóng góp, cùng nắm tài chính và quyết định chi tiêu lớn trong gia đình. Những cặp vợ chồng ở riêng thì ít mâu thuẫn vì nguyên nhân này hơn so với các cặp vợ chồng sống cùng cha mẹ. Hình thức biểu hiện mâu thuẫn là: tranh luận, chửi mắng, chiến tranh lạnh, đánh đập, bỏ nhà ra đi, dọa ly hôn… Trong đời sống vợ chồng để giảm được mâu thuẫn thì cần phải có sự tôn trọng lẫn nhau và còn phải tôn trọng bạn bè của nhau. Bởi vì, kết quả nghiên cứu định tính đã cho thấy nhiều người có những hành vi cư xử không tốt đối với bạn bè của vợ/chồng nên giữa vợ và chồng sẽ xảy ra mâu thuẫn [5]. Như vậy, nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn giữa vợ chồng cũng khá đa dạng. Những nguyên nhân chính là liên quan đến vấn đề thu nhập, chi tiêu, công việc của vợ chồng, sự tham gia làm công việc nhà, quan niệm về đời sống vợ chồng, cách cư xử với bạn bè, hàng xóm… Quan hệ vợ chồng chủ yếu được thiết lập trên cơ sở tình cảm yêu thương. Tuy nhiên, mâu thuẫn xảy ra giữa vợ chồng cũng khá dễ dàng. 6 2.2. Biểu hiện mâu thuẫn và những ảnh hưởng của mâu thuẫn vợ chồng Nghiên cứu về vấn đề mâu thuẫn giữa vợ chồng cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu ở trong nước quan tâm từ khá lâu. Một trong những hình thức để các cặp vợ chồng giải quyết mâu thuẫn của mình đó là họ lựa chọn việc chấm dứt cuộc hôn nhân, hay còn gọi là “ly hôn”. Tác giả Lê Phượng (1986) trong công trình “Tình hình ly hôn hiện nay và nguyên nhân của nó” cho thấy nguyên nhân dẫn đến ly hôn là khá đa dạng. Tuy nhiên, theo tác giả thì nó được chia làm hai dạng là nguyên nhân gián tiếp và nguyên nhân trực tiếp. Khi nghiên cứu cần xem xét mối quan hệ qua lại giữa hai loại nguyên nhân, bởi vì quá trình phát sinh mâu thuẫn không hẳn là bắt nguồn từ giai đoạn trước khi kết hôn hoặc sau khi kết hôn. Ở loại nguyên nhân thứ nhất (phát sinh trước khi kết hôn) liên quan đến các vấn đề như tình yêu cảm tính; tình yêu thực dụng, vật chất; xu hướng tình dục hóa tình yêu; thời gian tìm hiểu ngắn. Còn ở loại nguyên nhân thứ hai (phát sinh sau khi kết hôn) liên quan đến các vấn đề là quan niệm sai lầm về tình yêu và hôn nhân; thiếu bình đẳng giữa vợ và chồng; mâu thuẫn thế hệ dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng; ngoại tình và quan niệm quá dễ dãi về ly hôn. Dù họ ly hôn dưới bất kỳ nguyên nhân nào cũng là sự tan vỡ của gia đình. Đối với người vợ hoặc chồng sau khi ly hôn thường xuất hiện tâm trạng chán chường, cô đơn, trống trải. Do đó, một số người có thể tìm tới cờ bạc, rượu chè và tệ nạn xã hội khác. Bên cạnh đó, họ còn bị ảnh hưởng về sức khỏe, năng suất lao động giảm… Con cái của người ly hôn thì bị thiếu thốn về tình cảm [19]. Tuy nhiên, tác giả chưa chỉ ra được sự can thiệp của cơ quan đoàn thể trong việc giải quyết mâu thuẫn vợ chồng như thế nào? Trong từng giai đoạn, bối cảnh của đời sống xã hội thì sẽ có những nhân tố tác động khác nhau đến vấn đề ly hôn. Công trình “Ly hôn ở đồng bằng sông Hồng: quyết định của cá nhân và tác động của các yếu tố truyền thống” (Nghiên cứu trường hợp tại một xã thuộc tỉnh Hà Nam) của Trần Thị Minh Thi (năm 2011) đã cho thấy việc ly hôn tại Việt Nam không phải là một quá trình dễ dàng. Mẫu nghiên cứu gồm 13 trường hợp ly hôn và một số cán bộ đoàn thể, cán bộ xã cũng được phỏng vấn nhằm tìm hiểu quy trình ly hôn của cá nhân, ảnh hưởng của ly hôn đến đời sống của cá nhân và con cái của họ, cũng như quan điểm của xã hội về ly hôn hiện nay. Phương pháp nghiên cứu là phân tích tài liệu thứ cấp, nghiên cứu trường hợp. Nguyên nhân chủ đạo của ly hôn là mâu thuẫn cá nhân và gia đình. Các nguyên nhân xuất phát từ cá nhân như 7 ngoại tình, mâu thuẫn và bạo lực gia đình, kinh tế khó khăn và không hợp nhau là nổi bật nhất dẫn đến ly hôn ở nông thôn. Khi vợ/chồng nộp đơn ly hôn đến UBND xã, các tổ chức xã hội và chính quyền địa phương sẽ tham gia công tác hòa giải. Tôn chỉ của các tổ chức chính quyền đoàn thể bao giờ cũng khuyên vợ chồng cân nhắc việc rút đơn ly hôn, đưa ra lời khuyên cho cả hai bên hòa giải để về chung sống lại với nhau, bất kể lý do xin ly hôn là gì. Tuy nhiên, lời khuyên thường thấy nhất là kêu gọi sự hy sinh và tha thứ từ phía người vợ cho những lỗi lầm của người chồng, vì hạnh phúc con cái. Yếu tố truyền thống cũng tham gia vào ra quyết định ly hôn như việc sống chung, quan hệ mẹ chồng nàng dâu, ảnh hưởng của cha mẹ trong việc tìm hiểu và lựa chọn bạn đời. Các yếu tố khá này đặc trưng cho khu vực nông thôn, nơi người phụ nữ còn chịu nhiều sức ép của các tập tục, lối sống truyền thống so với lối sống đô thị hiện đại. Cần có nghiên cứu và phân tích sâu sắc, toàn diện hơn, dựa trên số liệu định lượng với mẫu nghiên cứu đủ lớn để có thể có cái nhìn đầy đủ hơn về vấn đề này [23]. Đối với phụ nữ, họ ít bị áp lực về sự kỳ vọng phải kiếm thật nhiều tiền để lo lắng cho gia đình hơn so với đàn ông. Chính vì vậy, vấn đề về kinh tế chưa phải là nguyên nhân chủ yếu làm cho phụ nữ quyết định chấm dứt cuộc kết hôn. Trong công trình “Nguyên nhân ly hôn của phụ nữ qua nghiên cứu hồ sơ tòa án nhân dân” của Phan Thị Luyện (2016) cũng đã cho thấy được tình hình ly hôn ở Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Tác giả đã tổng hợp số liệu của Tòa án nhân dân tối cao, Phòng tư pháp và Tòa án nhân dân ở một quận nội thành của Hà Nội về tình hình ly hôn từ năm 2005 đến 2010. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy tình trạng ly hôn đã tăng lên theo từng năm. Tỷ lệ phụ nữ đứng đơn ly hôn chiếm tỷ lệ cao nhất ở tất cả các năm trong tổng số đơn được thụ lý và giải quyết tại Tòa án nhân dân quận. Bên cạnh đó, tác giả đã chỉ ra được một số đặc điểm của người ly hôn như là tuổi của vợ/chồng; nghề nghiệp và thu nhập; số lần kết hôn và thời gian chung sống, thời gian ly thân trước khi ly hôn của vợ chồng; số con, tuổi của con. Đặc biệt, tác giả đã chỉ ra được những yếu tố tác động đến vấn đề ly hôn của phụ nữ như là do sự thay đổi vị thế, vai trò của người phụ nữ; do tác động của gia đình, dòng họ và dư luận xã hội đến vấn đề ly hôn và vai trò của các cơ quan ban ngành liên quan. Những lý do khiến cho người phụ nữ chấm dứt cuộc hôn nhân là: tính tình không hợp nhau, ngoại tình, ghen tuông, bạo lực gia đình, phạm tội và mắc các tệ nạn xã hội, nguyên nhân liên quan đến kinh tế, ốm đau/bệnh tật,... Dữ liệu định lượng đã cho thấy nguyên nhân do vợ chồng tính tình 8 không hợp nhau là nguyên nhân khiến phụ nữ ly hôn chiếm tỷ lệ cao nhất. Đồng thời, tác giả đã phân tích dữ liệu định tính để làm rõ nguyên nhân khiến cho phụ nữ chấm dứt hôn nhân. Và tác giả cũng đã vận dụng các lý thuyết chủ đạo để lý giải cho vấn đề ly hôn (lý thuyết trao đổi và lý thuyết xung đột) [15]. Tuy nhiên, trong đời sống thực tiễn, khi vợ chồng có mâu thuẫn với nhau thì không phải ai cũng sẽ lựa chọn biện pháp ly hôn mà có thể sẽ giải quyết mâu thuẫn bằng hình thức khác. Bên cạnh đó, Vũ Tuấn Huy (2007) cũng đã đề cập đến vấn đề nhận thức về mâu thuẫn của các cặp vợ chồng thông qua công trình “Thực trạng mâu thuẫn vợ chồng trong gia đình ở nông thôn hiện nay và những nhân tố ảnh hưởng” (Qua nghiên cứu trường hợp tại xã Lộc Hòa, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định). Nhận thức của các cặp vợ chồng về mâu thuẫn đang còn rất nhiều hạn chế. Họ ít thừa nhận sự tồn tại của mâu thuẫn và luôn xem đó là vấn đề tiêu cực. Chính quan niệm đó đã làm ảnh hưởng đến những đánh giá của người trả lời về mức độ và tính chất của mâu thuẫn. Thực tế, mâu thuẫn xảy ra khá phổ biến tại địa phương này, chủ yếu là trong lĩnh vực kinh tế, phân công công việc và quan hệ ứng xử. Còn các mâu thuẫn liên quan đến quan hệ tình dục và quyền ra quyết định ít xảy ra. Đa số các mâu thuẫn xảy ra trong các gia đình đều dễ giải quyết và ít nghiêm trọng. Hình thức mâu thuẫn phổ biến là tranh luận to tiếng, mắng chửi và chiến tranh lạnh. Còn hình thức đánh đập, dùng vũ lực hoặc cấm đoán làm một việc gì đó thì ít xảy ra. Hầu hết, các cặp vợ chồng lựa chọn cách thức giải quyết mâu thuẫn là trong phạm vi nội bộ gia đình trước khi nhờ tới sự hỗ trợ từ cộng đồng. Họ tự giải quyết với nhau bằng biện pháp tình cảm và lờ vấn đề mâu thuẫn đi. Mâu thuẫn giữa vợ chồng có thể ít khi dẫn đến ly hôn nhưng lại ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý của con cái. Mặc dù đây là một bài viết có vẻ như đã đề cập khá đầy đủ bức tranh về thực trạng mâu thuẫn vợ chồng ở gia đình nông thôn nhưng các biện pháp giải quyết mâu thuẫn như là tình cảm hay là lờ đi chưa đủ sức hút để các cặp vợ chồng lựa chọn nó nhằm giải quyết mâu thuẫn [26]. Có thể các cặp vợ chồng họ đã phải lựa chọn những biện pháp khác để giúp gắn kết mối quan hệ vợ chồng khi xảy ra mâu thuẫn. Trong các công trình nghiên cứu liên quan về mâu thuẫn, các tác giả không chỉ tập trung nêu ra vấn đề dẫn đến sự mâu thuẫn giữa vợ chồng mà còn mô tả cụ thể hơn về thực trạng của vấn đề. Trong bài viết “Một số kết quả bước đầu qua điều tra thăm dò sự xung đột trong quan hệ vợ chồng ở địa bàn Tây Nguyên” của Cao Huyền Nga 9 (1998) đã chỉ ra được nhu cầu cơ bản của các cặp vợ chồng trong hôn nhân, tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời, quan niệm cá nhân về đời sống tình dục và giá trị chuẩn mực quan trọng nhất trong cuộc sống lứa đôi. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã tập trung tìm hiểu quan niệm của các cá nhân về vấn đề xung đột; nguyên nhân, mức độ, tần suất, hậu quả của xung đột; lần xảy ra xung đột lần đầu tiên; thời điểm xảy ra xung đột và cách thức xử lý xung đột. Nguyên nhân dẫn đến xung đột là do thiếu thông cảm, hiểu biết lẫn nhau; không đồng nhất quan điểm hay là thiếu thủy chung. Vấn đề thường gây tranh cãi giữa vợ và chồng là do khác biệt về: quan điểm chính kiến, cách nuôi dạy con cái, cách ứng xử với họ hàng, bè bạn. Thời điểm lần đầu tiên xung đột là vào khoảng thời gian từ 2 – 5 năm sau khi kết hôn. Trong đời sống vợ chồng, họ luôn muốn hướng tới các nhu cầu như: nhu cầu được kính trọng, bình đẳng, chân thực; nhu cầu về nghĩa vụ, trách nhiệm trong cuộc sống gia đình; nhu cầu có con và chăm sóc con cái. Bài viết đã cho thấy các tiêu chuẩn của người nam giới cần có ở người vợ của mình là: có việc làm ổn định, chung thủy và yêu thương chồng con. Còn đối với nữ giới thì cho rằng người chồng phải yêu thương vợ con, chung thủy và có việc làm ổn định. Về phẩm chất của người bạn đời thì có hai phẩm chất được đánh giá cao đó là “chung thủy” và “tình yêu và thái độ tôn trọng lẫn nhau”. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng là không nên ngoại tình vì sẽ gây ra tan cửa nát nhà [16]. Về cơ bản, nghiên cứu này đã lột tả được vấn đề mâu thuẫn trong gia đình. Nhưng tác giả đã chưa chỉ ra giữa các nhóm dân tộc thì có sự khác biệt nhau như thế nào. Hay là sự chi phối của yếu tố văn hóa cộng đồng trong việc giải quyết mâu thuẫn vợ chồng? Mâu thuẫn vợ chồng nằm trong khuôn khổ phạm vi của gia đình và người ta thường cho đó là việc riêng tư ngay kể cả khi người phụ nữ cũng bị đánh đập. Trịnh Thái Quang (2008) đã có bài viết “Mâu thuẫn vợ chồng – Bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình nông thôn” (Nghiên cứu tại Tiền Giang) đăng trong cuốn “Gia đình nông thôn Việt Nam trong chuyển đổi” do Trịnh Duy Luân, Helle Rydstrom, Will Burghoorn (đồng chủ biên) đã cho thấy mối quan hệ giữa mâu thuẫn xảy ra giữa vợ chồng với tình trạng bạo lực đối với phụ nữ. Nghiên cứu đã được tiến hành khảo sát trên 300 mẫu, trong đó có 226 trường hợp đã từng cãi nhau trong 12 tháng qua, với nhiều mức độ khác nhau. Tác giả đã phân tích được mối quan hệ giữa các yếu tố cá 10 nhân như tuổi, mức sống, học vấn, quy mô hộ gia đình và mâu thuẫn vợ chồng. Đồng thời đã chỉ ra được những yếu tố tác động tới mâu thuẫn vợ chồng và bạo lực xảy ra giữa vợ chồng. Nghiên cứu đã cho thấy có khoảng 6% hộ gia đình đã từng xảy ra bạo lực, đó là những hộ gia đình trẻ, trình độ học vấn thấp (từ lớp 9 trở xuống), đặc biệt là hộ có mức sống khá. Mức độ xảy ra mâu thuẫn thường xuyên hơn là ở hộ gia đình học vấn thấp, hộ có 4 thành viên chung sống và kết hôn được vài năm. Và nguyên nhân chính của mâu thuẫn gia đình, bạo lực đối với phụ nữ là do lạm dụng rượu. Mâu thuẫn và bạo lực trong gia đình là có quan hệ tương đối chặt chẽ. Trong nghiên cứu này đã cho thấy trình độ học vấn, mức sống, quy mô gia đình và mô hình chung sống là có những mối quan hệ nhất định với thực trạng xảy ra mâu thuẫn và bạo lực [20]. Tuy nhiên, tác giả chưa có đủ minh chứng để có thể kết luận xem yếu tố nào là tác động mạnh mẽ tới tình trạng mâu thuẫn và bạo lực xảy ra tại địa bàn nghiên cứu. Khi xảy ra mâu thuẫn giữa vợ chồng thì sẽ làm ảnh hưởng tới các thành viên khác trong gia đình. Sự mâu thuẫn đó cũng sẽ làm ảnh hưởng tới chứng trầm cảm và lo âu đối với con cái. Trong công trình “Parental divorce, family conflict and adolescent depression and anxiety” của Hildur Mist L. Pálmarsdóttir (2015) đã chỉ ra điều đó. Đây là một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện bởi Icelandic Centre for Social Research and Analysis at Reykjavik University in February, 2012 (Trung tâm Nghiên cứu và Phân tích Xã hội Icelandic (ICSRA) tại Đại học Reykjavik) với trên 2215 học sinh từ lớp 8 đến lớp 10. Kết quả nghiên cứu cho thấy cả việc cha mẹ ly hôn và mâu thuẫn gia đình sẽ gây nên sự căng thẳng trong đời sống của thanh thiếu niên. Nghiên cứu này xem xét việc ly hôn của cha mẹ và mâu thuẫn gia đình có ảnh hưởng đến trầm cảm và sự lo âu của trẻ. Tác giả cũng đã chỉ ra cho chúng ta thấy thông qua việc kiểm chứng các giả thuyết nghiên cứu. Giả thuyết thứ nhất là việc ly hôn của cha mẹ ảnh hưởng đến thanh thiếu niên là được chấp nhận. Và điều này cũng có sự trùng khớp với kết quả của các nghiên cứu trước. Giả thuyết thứ hai là việc ly hôn của cha mẹ ảnh hưởng đến sự lo lắng của thanh thiếu niên cũng được chấp nhận. Giả thuyết thứ ba là việc ly hôn của cha mẹ đối với trầm cảm ở thanh thiếu niên là trung gian thông qua các mâu thuẫn trong gia đình đã không được chấp nhận. Còn giả thuyết cuối cùng là những ảnh hưởng của việc ly hôn của cha mẹ đối với sự lo âu ở vị thành niên là trung gian thông qua mâu thuẫn trong gia đình lại được chấp nhận. Các nghiên cứu trước đó cũng đã chỉ ra rằng mâu thuẫn trong gia đình ảnh hưởng đến vị thành niên. Trong một 11 nghiên cứu của Amato và Afifi (2006) cho thấy những đứa trẻ gặp các rắc rối trong mối quan hệ giữa cha mẹ của chúng, trước và sau khi ly hôn sẽ gặp phiền muộn [32]. Tóm lại, các biểu hiện của mâu thuẫn giữa vợ chồng cũng khá đa dạng. Trong đó, tiêu biểu nhất là vấn đề ly hôn và đây không phải là vấn đề mới mẻ nhưng vẫn đón nhận được nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu. Tỷ lệ ly hôn đang ngày càng gia tăng theo hàng năm. Đặc biệt, ở nông thôn thì tình trạng ly hôn và việc phụ nữ đứng đơn ngày càng cao hơn. Thực tế, có rất nhiều yếu tố tác động đến ly hôn, trong đó có cả những yếu tố truyền thống. Bên cạnh biểu hiện mâu thuẫn bằng cách là ly hôn thì còn có những biểu hiện khác như là chiến tranh lạnh, mắng chửi, đánh đập, đe dọa,… Mâu thuẫn vợ chồng thì có liên quan đến bạo lực gia đình. Và nó không chỉ có ảnh hưởng đến công việc, sức khỏe vợ chồng mà còn ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của con cái. 2.3. Cách giải quyết mâu thuẫn giữa vợ chồng và các yếu tố tác động Các nhà nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc mô tả bức tranh về việc vợ chồng xảy ra mâu thuẫn mà còn tìm hiểu về cách thức giải quyết vấn đề đó ra sao? Bùi Quang Dũng (2002) đã tiến hành một nghiên cứu định tính và cho thấy bức tranh về nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn giữa vợ chồng ở từng nhóm. Trong bài viết “Giải quyết xích mích trong nhóm gia đình: phác thảo từ những kết quả nghiên cứu định tính” là sự tóm lược một phần của kết quả nghiên cứu về mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn ở Việt Nam. Khảo sát thực địa của nghiên cứu này được tiến hành vào năm 2001 tại ba tỉnh là Sóc Trăng, Quảng Ngãi và Hải Dương. Tác giả đã lựa chọn 96 trường hợp trong đó gồm 5 trường hợp thảo luận nhóm và 91 trường hợp PVS. Các trường hợp được rút ra ngẫu nhiên từ danh sách hộ gia đình do cán bộ thôn/ấp cung cấp. Khi xảy ra xích mích, vợ chồng trẻ tự quyết là chủ yếu. Nếu khi hai vợ chồng không giải quyết được sự mâu thuẫn đó thì sẽ phải tìm tới một người họ hàng để mà trao đổi. Việc cùng nhau giải quyết sự xích mích trong gia đình chủ yếu chỉ tồn tại ở gia đình hạt nhân. Còn ra ngoài khuôn khổ ấy thì vai trò của người phụ nữ đã khác hẳn. Khi trong gia đình có xích mích thì sẽ “họp họ” để giải quyết (chỉ có anh em cùng cóvai vế trong họ họp với nhau và không có phụ nữ). Ở gia đình trung lưu, họ giải quyết xích mích theo kiểu “đóng của bảo nhau” bởi vì muốn giữ sĩ diện. Còn đối với cặp vợ chồng nghèo thì thường làm cho xích mích trở nên to chuyện hơn. Các đoàn thể quần chúng, tổ hòa giải của thôn/ấp có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết xích 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan