Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế tncn trên địa bàn huyện tiên du...

Tài liệu Giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế tncn trên địa bàn huyện tiên du

.PDF
97
151
82

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ------  ------ NGUYỄN THỊ NỤ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ TNCN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TIÊN DU TỈNH BẮC NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH Chuyên ngành: QUẢN TRỊ KINH DOANH Mã số: Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VIẾT ĐĂNG HÀ NỘI, 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính bản thân tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng năm 2013 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Nụ LỜI CẢM ƠN Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn này tôi đã nhận được nhiều sự quan tâm, giúp đỡ, góp ý của nhiều tập thể và cá nhân trong và ngoài trường. Trước hết cho tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Nguyễn Viết Đăng, người hướng dẫn Khoa học đã tận tình giúp đỡ tôi về kiến thức cũng như phương pháp nghiên cứu, chỉnh sửa trong quá trình thực hiện Luận văn này. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình tôi, bạn bè tôi, những người thường xuyên hỏi thăm, động viên tôi trong quá trình thực hiện Luận văn này. Có được kết quả nghiên cứu này tôi đã nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo trong trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, sự tận tình cung cấp thông tin của các anh, chị ở Chi cục thống kê, cán bộ, nhân viên Chi cục thuế Huyện Tiên Du. Tôi xin được ghi nhận và cảm ơn những sự giúp đỡ này. Mặc dù bản thân đã rất cố gắng, nhưng Luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý của quý thầy, cô giáo và tất cả bạn bè. Hà Nội, tháng năm 2013 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Nụ DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ VÀ ĐỒ THỊ DANH MỤC VIẾT TẮT CQCT Cơ quan chi trả CC Cơ cấu DT Dự toán ĐTNT Đối tượng nộp thuế NNT Người nộp thuế NSNN Ngân sách nhà nước MST Mã số thuế TNCN Thu nhập cá nhân TH Thực hiện SL Số lượng UBND Ủy ban nhân dân PHẦN I: MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Thuế thu nhập nói chung và thuế TNCN nói riêng đã được áp dụng từ lâu trên thế giới và có lịch sử hàng trăm năm. Thuế TNCN được áp dụng lần đầu tiên ở Anh năm 1799 dưới hình thức thu tạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc chiến tranh chống Pháp và được chính thức ban hành vào năm 1842. Sau đó, thuế TNCN được nhanh chóng lan truyền sang các nước công nghiệp khác như: Nhật (năm 1887), Mỹ (năm 1913), Pháp (năm 1914)...Các nước Châu Á như Thái Lan bắt đầu áp dụng vào năm 1939, ở Phi-líp-pin năm 1945, Hàn Quốc năm 1948, In-đô-nê-sia năm 1949, Trung Quốc năm 1984. Đến nay, đã có khoảng 180 nước áp dụng thuế TNCN và thuế TNCN đã trở thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách thuế của nhiều nước. Các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều coi thuế TNCN là một trong những sắc thuế có tầm quan trọng đặc biệt trong việc huy động nguồn thu ngân sách, thực hiện phân phối công bằng xã hội và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Ở Việt Nam, thuế TNCN lần đầu tiên được ban hành vào năm 1990 dưới hình thức Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, Luật thuế TNCN đã được Quốc hội Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá XII thông qua tại kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 27/11/2007 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2009 thay cho Pháp lệnh thuế đối với người có thu nhập cao. Sau hơn 04 năm thực hiện, Luật thuế TNCN đã chứng tỏ được những ưu thế của nó, đặc biệt là đảm bảo và góp phần làm tăng số thu cho Ngân sách Nhà nước, đồng thời cũng khắc phục được những hạn chế của thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao trước đây. Bên cạnh đó, việc thực thi hành Luật thuế TNCN cũng đã nảy sinh nhiều vướng mắc mà bằng chứng là trong những năm qua Bộ Tài chính đã phải ban hành rất nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Luật và những văn bản sửa đổi bổ sung để phù hợp với tình hình phát triển của kinh tế xã hội Việt Nam. Thuế TNCN là loại thuế trực thu, thu trực tiếp vào thu nhập của cá nhân, có phạm vi ảnh hưởng rộng, áp dụng đối với nhiều đối tượng và đánh trên nhiều loại thu nhập. Luật thuế TNCN có hiệu lực từ 01/01/2009 đến nay đã hơn 4 năm thực hiện, trong quá trình thực hiện công tác quản lý thuế TNCN ở Việt Nam nói chung và quản lý thuế TNCN trên địa bàn huyện Tiên Du nói riêng còn hạn chế như: Chính sách thuế chưa rõ ràng, chưa quản lý hết người nộp thuế, đối tượng chịu thuế, tổ chức bộ máy cơ quan thuế còn hạn chế. Thực trạng công tác thu thuế TNCN trên địa bàn huyện Tiên Du hiện nay như thế nào? Công tác quản lý thu thuế TNCN trên địa bàn huyện Tiên Du có những bất cập, hạn chế gì? Những khó khăn, thuận lợi trong việc tổ chức thu thuế TNCN trên huyện Tiên Du Cần những giải pháp nào để công tác quản lý thu thuế TNCN trên địa bàn huyện Tiên Du hiệu quả hơn, tốt hơn trong thời gian tới? Chính vì thế, để quản lý được tốt NNT, đối tượng chịu thuế góp phần tăng thu NSNN về thuế TNCN trên địa bàn huyện là vấn đề cấp thiết. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, đề tài: “Giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế TNCN trên địa bàn huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh” được lựa chọn để nghiên cứu làm luận văn cao học. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1. Mục tiêu chung Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế TNCN trên địa bàn huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể Để hoàn thành mục tiêu chung đề tài có các mục tiêu cụ thể như sau: Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý thu thuế TNCN Phân tích thực trạng của công tác quản lý thu thuế TNCN trên địa bàn huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế TNCN trên địa bàn huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là: công tác quản lý thu thuế TNCN trên địa bàn huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Đối tượng điều tra, khảo sát để thu thập thông tin là: Cơ quan quản lý thu thuế các cấp (từ huyện, xã) và đối tượng chịu thuế TNCN, đối tượng nộp thuế. 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Đề tài tập trung chủ yếu nghiên cứu, đánh giá công tác quản lý thuế TNCN trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Về thời gian: Các số liệu thống kê được phân tích từ giai đoạn 20102012 PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN 2.1. Cơ sở lý luận về công tác quản lý thu thuế thu nhập cá nhân 2.1.1. Tổng quan về thuế TNCN 2.1.1.1 Khái niệm về thuế TNCN Thuế TNCN là một loại thuế trực thu đánh trên thu nhập nhận được của các cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm) hoặc theo từng lần phát sinh Thuế TNCN là một sắc thuế có tầm quan trọng lớn trong việc huy động nguồn thu cho ngân sách và thực hiện công bằng xã hội.Thuế TNCN đánh vào cả cá nhân kinh doanh và cá nhân không kinh doanh. 2.1.1.2 Vai trò của thuế TNCN Là một bộ phận của hệ thống thuế, thuế TNCN vừa mang các vai trò chủ yếu của thuế nói chung vừa có các vai trò riêng mà các loại thuế khác không có được như: Tạo lập nguồn tài chính cho ngân sách nhà nước: Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN, trong đó thuế TNCN là một trong những bộ phận quan trọng cấu thành thuế nói chung nên cũng góp một phần quan trọng để tạo nguồn tài chính cho nhà nước. Thuế TNCN được tính với diện rộng, khả năng tạo nguồn thu cho ngân sách rất lớn. Bên cạnh đó, thuế TNCN tác động trực tiếp vào thu nhập của dân cư mà người dân của bất kỳ quốc gia nào cũng đều mong muốn và cố gắng có thu nhập ngày càng cao để nâng cao đời sống vật chất tinh thần. Thuế TNCN luôn có sự gia tăng nhanh chóng cùng với sự tăng lên của thu nhập bình quân đầu người. Góp phần thực hiện công bằng xã hội: Thực hiện công bằng xã hội là một trong những vai trò quan trọng của thuế nói chung, ngoài ra thuế TNCN cùng với việc thực hiện biểu thuế luỹ tiến từng phần, thuế TNCN đã thực hiện được việc điều tiết thu nhập, đảm bảo công bằng trong xã hội. Điều tiết thu nhập, tiêu dùng và tiết kiệm: Thuế TNCN cũng có tác dụng điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Loại thuế này điều tiết trực tiếp nên một mặt tác động trực tiếp đến tiết kiệm, mặt khác làm cho khả năng thanh toán của các cá nhân bị giảm. Từ đó cầu hàng hoá, dịch vụ giảm sẽ tác động đến sản xuất. Góp phần phát hiện thu nhập bất hợp pháp: Thực tế đã chứng minh nhiều khoản thu nhập của một số cá nhân nhận được từ việc thực hiện các hành vi bất hợp pháp hoặc bằng cách lợi dụng những kẽ hở của pháp luật mà nhà nước không kiểm soát được như tham ô, nhận hối lộ, buôn bán hàng quốc cấm, trốn tránh thuế, lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhà nước và công dân... Những hành vi này ảnh hưởng rất xấu đến đời sống kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Phải kết hợp hữu hiệu nhiều biện pháp để ngăn chặn và chống lại những hành vi trên, một trong số các biện pháp ngăn chặn đó thì phải kể đến vai trò của thuế TNCN. Tuy nhiên, vì công tác quản lý thuế TNCN còn nhiều hạn chế nên những vai trò này vẫn chưa thực sự được phát huy ở những nước chậm phát triển. Đặc điểm của thuế TNCN Một là, thuế TNCN là một loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của NNT, người nộp thuế đồng nhất với người chịu thuế nên khó có thể chuyển gánh nặng thuế sang cho người khác. Hai là, thuế TNCN là loại thuế có độ nhạy cảm cao vì nó liên quan trực tiếp đến lợi ích cụ thể của người nộp thuế và liên quan đến hầu hết mọi cá nhân trong xã hội. Đặc điểm này xuất phát từ tính trực thu của thuế TNCN. Ba là, thuế TNCN là loại thuế luôn gắn liền với chính sách xã hội của mỗi quốc gia mặc dù các quốc gia hiện nay vẫn luôn hướng tới một hệ thống chính sách thuế mang tính trung lập. Khi tính Thuế TNCN có xem xét đến hoàn cảnh cá nhân của người nộp thuế bằng việc quy định một số khoản được khấu trừ có tính chất xã hội trước khi tính thuế. Bốn là, thuế TNCN thường được tính theo biểu thuế luỹ tiến từng phần do thuế TNCN được đánh theo nguyên tắc “khả năng nộp thuế” và cũng xuất phát từ vai trò chủ yếu của thuế TNCN là điều tiết mạnh người có thu nhập cao, động viên sự đóng góp của những người có thu nhập thấp, thu nhập trung bình trong xã hội. Năm là, thuế TNCN không bóp méo giá cả hàng hoá, dịch vụ. Thuế TNCN không cấu thành trong giá bán (giá thanh toán) hàng hoá, dịch vụ nên nó không tạo ra sự sai lệch giá cả hàng hoá, dịch vụ. 2.1.1.3. Tổng quan về quản lý thuế TNCN * Khái niệm quản lý thuế TNCN Quản lý thuế TNCN là sự tác động có chủ đích của cơ quan chức năng trong bộ máy nhà nước đối với quá trình tính và thu thuế TNCN để thay đổi quá trình này nhằm tạo nguồn thu cho ngân sách và đạt được các mục tiêu nhà nước đặt ra. * Sự cần thiết phải tăng cường công tác quản lý thuế TNCN Tăng cường công tác quản lý đối với thuế TNCN nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách thuế TNCN đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội: Có thể nói thuế TNCN không chỉ là nguồn thu của NSNN mà còn là công cụ quan trọng điều tiết thu nhập của cá nhân có thu nhập theo hướng người có thu nhập cao phải nộp thuế nhiều, người không có thu nhập hoặc thu nhập thấp không phải nộp thuế hoặc nộp thuế ít, tạo ra môi trường bình đẳng về pháp luật cho người Việt Nam cũng như người nước ngoài, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế. Trong những năm vừa qua, nền kinh tế nước ta phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã tiến hành các cuộc cải cách thuế nói chung và hệ thống chính sách thuế TNCN nói riêng, không ngừng hoàn thiện và kiện toàn hệ thống thuế nhằm đảm bảo tính hiệu lực của Luật thuế TNCN trong cả nước và tính hiệu quả của công tác quản lý thu thuế. Nhờ vậy, chính sách thuế TNCN đã góp phần tích cực vào nguồn thu NSNN và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trước những yêu cầu đặt ra của thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, công tác quản lý thuế đối với thuế TNCN hiện nay đã bộc lộ những hạn chế. Để tạo bộ khung pháp lý về quản lý thuế hoàn chỉnh, phù hợp với những thay đổi của sự phát triển kinh tế quốc tế thì việc hoạch định, cải cách chính sách về quản lý thuế nhằm nâng cao công tác quản lý của Nhà nước đối với thuế TNCN là rất cần thiết vì: Công tác quản lý thuế của Nhà nước đối với thuế TNCN nhằm góp phần tăng nguồn thu cho NSNN để phát triển đất nước: Kinh tế - xã hội càng phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì nhu cầu chi tiêu của Nhà nước để giải quyết các vấn đề an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội, phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế... cũng ngày càng gia tăng. Do đó, hệ thống chính sách thuế TNCN phải bao quát được hết mọi nguồn thu nhập cần thiết, các khoản thu nhập phát sinh cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, cơ cấu thuế suất không quá cao, quá phức tạp, quá khả năng đóng góp, thực hiện của người nộp thuế, bảo đảm tăng thu vào tổng số thu NSNN. Qua đó, đáp ứng được mọi nhu cầu chi tiêu thường xuyên, vừa góp phần tích luỹ cho xây dựng cơ sở hạ tầng và trả nợ, góp phần giảm bội chi ngân sách, kiềm chế lạm phát. Ví dụ: Tỷ trọng thu thuế TNCN trong tổng thu ngân sách của nhiều quốc gia đã phản ánh tiến trình đó, tại các nước khối ASEAN: 5-10%, các nước phát triển có tỷ trọng 15-16% có nước đạt tới tỷ trọng 30- 40% như Anh, Mỹ. Việt Nam, tỷ trọng thu về thuế TNCN cũng mới chỉ đạt khoảng 5% tổng thu ngân sách. Quản lý thuế của Nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện thuế TNCN được nghiêm minh: Do đặc điểm của Thuế TNCN là một loại thuế trực thu điều tiết vào thu nhập của cá nhân, do người chịu thuế trực tiếp nộp thuế vào NSNN, nên nó rất có tác dụng trong việc điều hoà thu nhập, góp phần giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập và tài sản giữa các những người dân cư. Tuy nhiên, thuế TNCN lại có hạn chế lớn là dễ gây phản ứng từ phía NNT hoặc dễ xảy ra tình trạng trốn, lậu thuế nếu quy định mức thuế suất cao. Hơn nữa, thuế TNCN có diện thu thuế rộng và phân tán, việc theo dõi, tính toán và thu thuế rất phức tạp. Vì vậy, nếu không có biện pháp quản lý thu thuế hiệu quả thì dễ dẫn đến hạn chế tác dụng của loại thuế này trong việc tập trung số thu đầy đủ, kịp thời về cho NSNN, do đó phải có quản lý thuế của Nhà nước để đảm bảo việc thu thuế được nghiêm chỉnh, đúng pháp luật. Quản lý thuế của Nhà nước đối với thuế TNCN để đảm bảo mục tiêu công bằng xã hội: Thuế TNCN động viên trực tiếp vào thu nhập của cá nhân, thể hiện rõ nghĩa vụ của công dân đối với đất nước và được căn cứ trên các nguyên tắc "lợi ích", "công bằng" và "khả năng nộp thuế". Theo nguyên tắc lợi ích thì mọi người trong xã hội đều được hưởng những thành quả phát triển của đất nước về luật pháp thể chế, cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội, an ninh trật tự ... đồng thời cũng có nghĩa vụ đóng góp một phần thu nhập của mình cho xã hội thông qua việc nộp thuế. Nguyên tắc "công bằng" và “khả năng nộp thuế” thể hiện ở chỗ: người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn, người có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế ít hơn, mỗi cá nhân dù có thu nhập từ các nguồn khác nhau đều được điều chỉnh thống nhất trong một chính sách thuế; Ở nước ta hiện nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thu nhập của các những người dân cư cũng tăng lên, nhưng khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa nhóm người có thu nhập cao và nhóm người có thu nhập thấp cũng có xu hướng ngày càng tăng, thu nhập của các những người nhân dân có sự chênh lệch nhau, số đông dân cư có thu nhập còn thấp, nhưng cũng có một số cá nhân có thu nhập khá cao, nhất là những cá nhân làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong khu chế xuất hoặc có một số cá nhân người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Mặc dù thuế TNCN chưa mang lại số thu lớn cho NSNN, song xét trên phương diện công bằng xã hội và phương diện công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước thì thuế TNCN có vị trí cực kỳ quan trọng, do đó việc điều tiết thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao là cần thiết, đảm bảo thực hiện chính sách công bằng xã hội. Quản lý thuế của Nhà nước đối với thuế TNCN nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế: Trong diễn trình toàn cầu hóa.Việt Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế - chính trị quốc tế và khu vực. Chúng ta đã là thành viên của Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)... Ở cấp liên khu vực, chúng ta là thành viên tích cực của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)... Quá trình hội nhập Việt Nam đã có nhiều cam kết về chính sách cắt giảm thuế,đồng nghĩa với việc NSNN sẽ bị giảm một phần.Tuy nhiên bên cạnh việc thực hiện cắt giảm một số sắc thuế trong đó có thuế TNCN với phạm vi điều chỉnh rộng liên quan đến mọi những người dân cư, hiện nay chúng ta đã hội nhập đầy đủ toàn diện với kinh tế quốc tế do đó để đảm bảo yêu cầu đòi hỏi về tính phù hợp với các điều ước và thông lệ quốc tế về chính sách tài chính; đồng thời tạo điều kiện tối đa cho cho người nộp thuế trong việc kê khai nộp thuế thì đòi hỏi việc quản lý thuế của Nhà nước đối với thuế TNCN phải được nâng cao. * Tính nghiêm minh của luật pháp Cơ quan quản lý làm việc có hiệu quả, luật pháp được thực hiện nghiêm minh sẽ đảm bảo việc vi phạm giảm đi. Các ĐTNT cũng như cơ quan thuế cũng sẽ thực hiện nghiêm túc hơn các quy định trong luật thuế bởi họ biết rằng khi vi phạm họ sẽ không tránh khỏi những hình phạt.Như vậy, công tác quản lý thuế TNCN sẽ đạt hiệu quả hơn. * Tình hình kinh tế và mức sống của người dân Hiệu quả của công tác quản lý thuế TNCN phụ thuộc không nhỏ vào mức độ phát triển kinh tế và đời sống của dân cư. Cùng một đơn vị thu thuế trên một khu vực, số đối tượng nộp thuế TNCN nhiều, số thuế thu được nhiều sẽ giảm bớt chi phí trên một đồng thuế thu được và ngược lại có ít đối tượng nộp thuế và số thuế thu được ít thì chi phí cho một đồng thuế thu được sẽ cao. Sự phát triển kinh tế sẽ đồng hành với sự phát triển của cơ sở hạ tầng phục vụ cho công tác quản lý nói chung và công tác quản lý thuế TNCN nói riêng. Khi cơ sở hạ tầng tốt thì khả năng quản lý thuế cũng sẽ được đơn giản và hiệu quả. * Ý thức chấp hành luật thuế của đối tượng nộp thuế Ý thức chấp hành pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng tỉ lệ thuận với ý thức và trách nhiệm nộp thuế. Khi người dân có ý thức chấp hành luật thuế tốt, họ sẽ tự giác trong kê khai, nộp thuế; Hành vi trốn thuế sẽ ít xảy ra. Từ đó, công tác quản lý thu thuế sẽ gặp nhiều thuận lợi và đạt kết quả tốt hơn. Nếu người dân có ý thức chất hành luật thuế kém sẽ làm giảm hiệu quả của công tác quản lý thu thuế. Thực tế, khi người dân nhận thức được quyền lợi họ sẽ được hưởng những hàng hóa, dịch vụ công cộng mà nhà nước cung cấp họ sẽ thấy rõ trách nhiệm của mình đối với nhà nước là đóng thuế cho Nhà nước. Tóm lại: ý thức chấp hành pháp luật thuế của ĐTNT cũng ảnh hưởng một phần tới công tác quản lý thuế TNCN. Ý thức chấp hành luật của người dân có thể nâng cao dần qua quá trình tuyên truyền, giáo dục. 2.1.2. Nội dung công tác quản lý thu thuế TNCN Công tác quản lý là một phần quan trọng của quản lý tài chính nhà nước, công tác này không chỉ được nhìn nhận ở tầm vĩ mô, mà còn cả ở tầm vi mô và phải bao gồm toàn bộ các công việc thuộc lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp về thu thuế. Sau khi đã được phê chuẩn và ban hành, chính sách thuế TNCN được tổ chức, thực hiện. Đây là khâu đóng vai trò quan trọng nhất quyết định hiệu quả của việc sử dụng công cụ thuế. Nhờ việc tổ chức thực hiện chính sách thuế và quá trình tính, thu thuế mới diễn ra trong thực tế, đồng thời các quy định về quá trình mới đến được mọi người dân thông qua tuyên truyền, phổ biến chính sách thuế. Nội dung công tác quản lý thuế TNCN bao gồm: 2.1.2.1. Tổ chức bộ máy thu thuế Nhà nước xây dựng bộ máy quản lý thu thuế để quản lý thuế TNCN cũng như các sắc thuế khác. Bộ máy quản lý thuế được xây dựng tùy thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của từng nước. Nhìn tổng thể trong phạm vi nền kinh tế quốc dân, cơ quan thuế ở các nước trên thế giới đều được tổ chức thành hệ thống bao gồm nhiều cấp. Tại nhiều nước, hệ thống đó không hoàn toàn phù hợp với hệ thống chính quyền nhà nước và bao gồm: Cơ quan thuế trung ương, cơ quan thuế cấp huyện, thành phố và cơ quan thuế cấp quận, huyện như Trung quốc, Việt Nam… Ngoài ra, ở một số quốc gia thì hệ thống của ngành thuế còn được tổ chức theo các dạng khác. Ở từng cấp, bộ máy cơ quan thuế có thể được tổ chức theo các mô hình sau: Mô hình tổ chức theo sắc thuế: Các phòng, ban riêng biệt được thành lập để quản lý một số loại thuế cụ thể.Mỗi phòng, ban phải thực hiện tất cả các chức năng, nghiệp vụ quản lý các loại thuế được phân công.Có thể nói đây là “mô hình quản lý kép kín” đối với mỗi loại thuế. Mô hình tổ chức theo chức năng: Tổ chức các phòng, ban chức năng riêng rẽ trong. Mỗi phòng, ban thực hiện một công việc nghiệp vụ cụ thể có liên quan đến tất cả các sắc thuế như phòng kê khai kế toán thuế, phòng kiểm tra ĐTNT… Mô hình tổ chức theo đối tượng nộp thuế: ĐTNT được chia thành các nhóm dựa trên quy mô hoạt động, hình thức sở hữu hoặc ngành kinh tế… mỗi phòng, ban chịu trách nhiệm quản lý cung cấp những thông tin đầy đủ về từng nhóm ĐTNT. Để đảm bảo thực hiện tốt công tác quản lý thu thuế, đảm bảo nguồn thu kịp thời cho NSNN và đảm bảo công bằng, bình đẳng trong xã hội mỗi nước sẽ lựa chọn một mô hình cụ thể theo điều kiện kinh tế - xã hội. Có những nước lựa chọn kiểu mô hình pha trộn giữa các kiểu trên. 2.1.2.2. Quản lý đối tượng nộp thuế Đây là khâu đặc biệt quan trọng đối với công tác quản lý thuế TNCN. Quản lý tốt ĐTNT sẽ đảm bảo phần lớn hiệu quả của công tác quản lý thuế TNCN bởi chúng ta chưa biết chính xác ai là những đối tượng phải nộp thuế trước khi kê khai thu nhập của họ. Do đó, cần giám sát thu nhập của tất cả các đối tượng lao động, từ đó chúng ta có thể xác định được đối tượng nào phải nộp thuế và nộp thuế bao nhiêu. Cơ quan thuế phải tiến hành đăng ký ĐTNT.Phương thức đăng ký ĐTNT thường được áp dụng là phương thức thủ công và quản lý bằng máy vi tính. Tuy nhiên, phương thức quản lý bằng mạng vi tính thích hợp với công tác quản lý thuế TNCN vì đối tượng nộp thuế TNCN ở đây nhiều và không tập trung. Phương thức này thì cơ quan quản lý thuế cần phải tiến hành cấp mã số thuế cho các đối tượng nộp thuế và cơ quan chi trả thu nhập thống nhất trong phạm vi cả nước. Mỗi ĐTNT được gắn với một mã số thuế duy nhất.Mọi thông tin cần thiết về ĐTNT được lưu trữ vào cơ sở dữ liệu với một file riêng mà tên file là mã số của ĐTNT. Khi cần kiểm tra thông tin ĐTNT, cơ quan quản lý thuế chỉ cần mở file theo mã số của đối tượng đó, nhờ đó mà tránh được tình trạng bỏ sót các ĐTNT đồng thời cũng đảm bảo sự nhanh gọn cho cơ quan thuế trong công tác quản lý thu thuế. 2.1.2.3. Quản lý kê khai nộp thuế Có hai hình thức kê khai, đăng ký, nộp thuế TNCN: Thông qua cơ quan ủy nhiệm thu hay cơ quan chi trả thu nhập tính thuế cho các ĐTNT có thu nhập do đơn vị mình chi trả. Sau khi tính thuế và khấu trừ thuế của ĐTNT, cơ quan chi trả thu nhập sẽ tiến hành khấu trừ phần thuế phải nộp ra khỏi thu nhập trước thuế của ĐTNT để đem nộp NSNN. Cơ quan chi trả thu nhập được hưởng một khoản tiền theo tỷ lệ trên số thuế thu được và nộp vào NSNN. ĐTNT sẽ trực tiếp kê khai thu nhập và tự tính mức thuế mình phải nộp.Sau đó sẽ đến nộp tờ khai cho cơ quan thuế và tiến hành nộp thuế vào NSNN. Cơ quan thuế sẽ có nhiệm vụ ghi lại tất cả các khoản thuế mà các ĐTNT phải nộp để từ đó có thể giám sát và kiểm tra khi cần thiết. Đồng thời đó cũng là cơ sở để đảm bảo sự minh bạch trong công tác thu nộp cả cho ĐTNT và cơ quan thuế cũng như cơ quan ủy nhiệm thu thuế. 2.1.2.4. Quản lý quyết toán thuế, hoàn thuế Việc quyết toán thuế cho ĐTNT là cần thiết.Việc này sẽ giúp cơ quan thuế biết được tình hình thu nhập và nộp thuế của từng đối tượng, qua đó có thể cung cấp cho các cơ quan khác, các nhà lập chính sách hoặc chính cơ quan thuế cũng có thể sử dụng trong phân tích và đánh giá về chính sách thuế khả năng nộp thuế của dân cư. Quyết toán thuế hàng năm cũng sẽ giúp cơ quan thuế có thể phát hiện ra các trường hợp sai phạm thông qua so sánh mức thu nhập nộp giữa các năm với nhau. 2.1.2.5. Thanh tra, kiểm tra thuế Đây là nội dung quan trọng của công tác quản lý thuế TNCN. Thanh tra, kiểm tra thuế TNCN được thực hiện bởi bộ phận cán bộ chuyên ngành.Đối tượng thanh tra, kiểm tra thuế là các tổ chức kinh tế và cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế TNCN cho nhà nước và bao gồm cả các đơn vị thuộc ngành thuế. Mục tiêu thanh tra, kiểm tra thuế TNCN là phát hiện và xử lý các trường hợp sai phạm nhằm giảm bớt những tổn thất cho Nhà nước và đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Đồng thời cũng qua quá trình thanh tra, kiểm tra thuế cơ quan thuế có thể phát hiện những thiếu sót, bất cập trong văn bản pháp luật thuế và quá trình tổ chức thực hiện, từ đó tìm ra những hướng giải quyết nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế TNCN. Thanh tra, kiểm tra thuế TNCN được thực hiện dưới các hình thức và phương pháp khác nhau. Các hình thức thanh tra, kiểm tra xét theo thời gian tiến hành thanh tra, kiểm tra: Hình thức thanh tra, kiểm tra thường xuyên được thực hiện mang tính định kỳ, không phụ thuộc vào việc có xảy ra vụ việc hay không trong các ĐTNT và cơ quan quản lý thuế. Thanh tra, kiểm tra đột xuất là hình thức thanh tra, kiểm tra mang tính bất thường và đối tượng tranh tra, kiểm tra không được biết.Hình thức này được tiến hành khi có những vụ việc xảy ra từ phía các ĐTNT hoặc trong các cơ quan thuế để có biện pháp xử lý. Các hình thức thanh tra, kiểm tra xét theo phạm vi và nội dung gồm: Thanh tra, kiểm tra toàn diện: Được tiến hành với tất cả các nội dung thanh tra, kiểm tra, hoặc với tất cả đối tượng thanh tra, kiểm tra. Hình thức này thường được áp dụng để phục vụ cho những nghiên cứu cải tiến lớn về hệ thống thuế. Thanh tra, kiểm tra có trọng điểm: Được tiến hành chỉ với một số nội dung, một số đối tượng. Người ta thường chọn ra các đối tượng điển hình và tổ chức thanh tra, kiểm tra từ đó rút ra kết luận chung cho toàn hệ thống. Trên thực tế, người ta cũng có thể kết hợp cả hai hình thức này trong trường hợp cần thiết. 2.1.2.6 Thu nợ và cưỡng chế nợ thuế. Công tác thu nợ và cưỡng chế nợ thuế thực hiện nhiệm vụ thu tiền nợ thuế, tiền phạt đối với người nộp thuế thuộc phạm vi quản lý của mình. Thu thập thông tin về người nộp thuế còn nợ tiền thuế, đề xuất biện pháp đôn đốc thu nợ và cưỡng chế nợ thuế 2.1.2.7. Tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế Ngoài những quy định trong văn bản pháp quy có được hoàn hảo hay không thì sự thành công trong việc thực hiện các chính sách thuế còn phụ thuộc rất lớn vào sự hiểu biết sâu sắc và ý thức chấp hành nghiêm túc của cán bộ thuế cũng như NNT. Để nội dung của chính sách thuế đến với mọi người dân trong xã hội, cơ quan thuế cần phải tiến hành công tác tuyên truyền, phổ biến về chính sách thuế. Công tác này cần phải được thực hiện trước hết từ cán bộ thuế, sau đó tới mọi người dân. Để thành công trong tuyên truyên, phổ biến thuế TNCN thì các cơ quan thuế có thể sử dụng các phương thức như thông qua các lớp tập huấn, phương tiện thông tin đại chúng, phát hành các ấn phẩm, tờ rơi, áp phích, tổ chức các buổi đối thoại, các cuộc thi tìm hiểu về thuế TNCN… Đối với cán bộ thuế việc tập huấn nghiệp vụ về một chính sách thuế nào đó cho các cán bộ ngành thuế, nhất là cán bộ cơ sở thường được tiến hành ngay sau khi Nhà nước ban hành một chính sách thuế mới hoặc sửa đổi, bổ sung một chính sách thuế đã có. Qua đó, cán bộ thuế có thể nắm chắc được chính sách thuế từ mục đích, ý nghĩa đến nội dung cụ thể, đủ khả năng chuyên môn và làm tròn nhiệm vụ như một tuyên truyền viên giỏi về thuế. Đối với mọi người dân trong xã hội ĐTNT là người trực tiếp tính số thuế phải nộp vào NSNN, do đó phải có một kiến thức cơ bản để hiểu được các quy định của các luật thuế. Cơ chế tự khai, tự nộp đòi hỏi sự tự giác cao, ý thức tuân thủ pháp luật của ĐTNT. Do vây, công tác tuyên truyền phổ biến về nghĩa vụ thuế và nội dung của chính sách thuế đến mọi tầng lớp dân cư cần phải được tiến hành đều đặn, thường xuyên, luôn đổi mới và nâng cao hiệu quả. 2.1.3. Đặc điểm của công tác quản lý thu thuế TNCN Đối với công tác quản lý thu thuế thì trước hết chúng ta cần phải xây dựng Bộ máy quản lý thuế TNCN. Một đội ngũ cán bộ thuế chuyên trách được đào tạo chuyên sâu trong công tác quản lý thu thuế TNCN là điều cần thiết nếu như chúng ta muốn thực hiện tốt công tác quản lý thuế TNCN. Đội ngũ này cần phải tổ chức lại một cách thống nhất, đồng bộ và có khoa học. Nếu làm được điều này thì chúng ta sẽ vừa tiết kiệm được chi phí cho công tác quản lý thu thuế đồng thời vẫn đảm bảo thực hiện tốt công tác thu thuế. Công tác quản lý thuế TNCN đặc biệt quan trọng ở khâu quản lý thu nhập của các ĐTNT. Chính vì vậy, chúng ta cần phải giám sát thu nhập của tất cả các đối tượng lao động. Để từ đó chúng ta có thể xác định được đối tượng nào phải nộp thuế và nộp thuế là bao nhiêu. Muốn thực hiện tốt điều này thì chúng ta cần phải có chế độ giám sát các khoản thu nhập một cách chặt chẽ như phải mở sổ sách kế toán, chứng từ và các khoản chi trả thu nhập cần phải được làm sáng tỏ trong sổ sách kế toán. Khi đó cơ quan thuế sẽ dễ dàng hơn nhiều trong việc xác định cũng như kiểm tra thu nhập của người lao động. Đồng thời để tạo thuận lợi cho công tác giám sát kiểm tra các ĐTNT thì cơ quan thuế cần phải tiến hành cấp MST cho các ĐTNT và cơ quan chi trả thu nhập. Sau khi cấp MST thì cơ quan thuế có thể giám sát các đối tượng qua MST của họ, nhờ đó mà tránh được tình trạng thiếu sót các ĐTNT đồng thời cũng đảm bảo sự nhanh gọn cho cơ quan thuế trong công tác quản lý thu thuế. Công tác quản lý thuế TNCN không chỉ dừng lại ở việc thu thuế đầy đủ đúng như qui định, nó còn cần phải phát hiện ra những bất cập, thiếu sót trong qui định về nội dung luật thuế cũng như những qui định trong công tác quản lý kê khai nộp thuế. Trong quá trình thực hiện quản lý thuế, cơ quan sẽ dễ dàng tìm ra những sai sót trong quá trình lập chính sách, đồng thời cũng sẽ dễ tìm ra những cách thức phương pháp quản lý thuế tốt nhất, thuận tiện nhất, đơn giản nhất và tất nhiên đảm bảo được yêu cầu thu đủ và kịp thời số thu vào NSNN. Từ đó cơ quan thuế có thể kiến nghị lên cấp trên xem xét để có thể hoàn thiện tốt hơn Luật thuế TNCN và công tác tổ chức quản lý thuế TNCN.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

thumb
ôn tập ttnh...
16
508
119