Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại ngân hàng việt nam thịnh vượng...

Tài liệu Giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại ngân hàng việt nam thịnh vượng

.PDF
85
107
148

Mô tả:

1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế, để từng bước phát triển, hội nhập với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trải qua nhiều khó khăn, thử thách nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Để đạt được điều đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành Ngân hàng với vai trò là “ đòn bẩy kinh tế ” thông qua hoạt động tín dụng. Tín dụng Ngân hàng là công cụ tài trợ vốn cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sự phát triển cân đối của các ngành, các lĩnh vực khác theo định hướng của Nhà nước. Tín dụng Ngân hàng đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng Thương mại. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng Ngân hàng lại là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Rủi ro trong hoạt động tín dụng nói chung và trong hoạt động cho vay nói riêng được biết đến như một đặc thù, là yếu tố tất yếu khách quan của kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng. Rủi ro thường gây ra những tổn thât thiệt hại cho Ngân hàng, tuỳ theo cấp độ rủi ro mà hoạt động kinh doanh phải chịu tổn thất lớn hay nhỏ. Bất kì một hoạt động kinh doanh nào của Ngân hàng đều có thể xảy ra rủi ro dù ít hay nhiều cũng không thể tránh khỏi hoàn toàn được, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ khả năng gặp rủi ro của hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại là rất đáng nói. Hơn nữa hiệu quả của hoạt động cho vay là thước đo hiệu quả trong Ngân hàng thương mại. Do đó việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay là rất quan trọng không chỉ đối với các Ngân hàng thương mại mà còn đối với các thành phần kinh tế. Hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại không còn là vấn đề mới mẻ tại Việt Nam tuy nhiên việc phân tích đánh giá rủi ro hoạt động này trong nền kinh tế thị trường cần có một cách nhìn mới hơn. 2 Từ góc độ trên mà đề tài “ Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng - chi nhánh Bình Định” được em chọn để viết chuyên đề tốt nghiệp cho mình. 2. Mục đích nghiên cứu Khái quát những vấn đề chung về rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Phân tích đánh giá thực trạng rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng - chi nhánh Bình Định. Đưa ra một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay tại NHTM Việt Nam Thịnh Vượng - chi nhánh Bình Định và đề xuất những kiến nghị đối với cán bộ ngành liên quan. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Rủi ro trong hoạt động cho vay tại ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng - chi nhánh Bình Định. Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động cho vay của ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng - chi nhánh Bình Định. 4. Phương pháp nghiên cứu Chuyên đề sử dụng các phương pháp nghiên cứu là duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp thống kê, phân tích kinh tế, tổng hợp, so sánh số liệu. 5. Kết cấu của đề tài Tên đề tài “ Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng - chi nhánh Bình Định” 3 Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương: CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. CHƯƠNG 2: TH C TRẠNG HOẠT Đ NG TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP VI T NAM TH NH VƯ NG – CHI NHÁNH BÌNH Đ NH. CHƯƠNG 3: M T SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGH NHẰM PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP VI T NAM TH NH VƯ NG – CHI NHÁNH BÌNH Đ NH. 4 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Hoạt động tín dụng của NHTM Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận. Doanh thu từ hoạt động cho vay mới bù đắp nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và các chi phí rủi ro đầu tư. Kinh tế càng phát triển, doanh số cho vay của các Ngân hàng Thương mại càng tăng nhanh và các loại hình cho vay càng trở nên đa dạng, việc cho vay của các Ngân hàng Thương mại đã dần chuyển từ cho vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn. Ở các nước phát triển hàng đầu thế giới, khu vực cho vay ngắn hạn dần nhường chỗ cho thị trường tài chính - tiền tệ cung ứng. Ngược lại ở các nước đang phát triển, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, sự khác biệt như vậy xuất phát từ chỗ thiếu an toàn trong các khoản đầu tư dài hạn ( trong đó có những tác nhân chủ yếu như tình hình tăng trưởng, lạm phát...). Ở một số nước đang phát triển, khi một Ngân hàng được thành lập và đi vào hoạt động, mối quan tâm chính và thường xuyên của các Ngân hàng đó là cho ai vay và đầu tư vào đâu. Ở những nước này, đối tượng cho vay là điều bận tâm nhiều hơn nếu không nói là những vấn đề quan trọng nhất . Trong khi ở các nước phát triển thì tình hình lại ngược lại. Vấn đề đặt ra cho các ngân hàng không phải là cho ai vay, mà lợi tức có cao không và có an toàn hay không. Thậm chí những lo ngại như vậy cũng không còn vì hầu hết các Ngân hàng đó đã có thị phần chắc chắn và vấn đề về vốn đã có pháp luật đảm bảo. Điều họ quan tâm là làm sao huy động được ngày càng nhiều tiền cho các khoản đầu tư có sẵn. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại, nói rộng ra là tín dụng Ngân hàng thương mại, là một lĩnh vực phức tạp và thường xuyên bị cuốn theo những biến chuyển 5 của môi trường kinh tế. Để hiểu về vấn đề này, chúng ta cần tìm hiểu những nét đặc trưng quan trọng của nó. 1.1.1. Khái niệm Tín dụng là quan hệ vay mượn, quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay theo nguyên tắc có hoàn trả và có lãi suất. Bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Căn cứ theo khoản 01 Điều 03 của Quy chế cho vay của Tổ chức Tín dụng đối với khách hàng (QĐ 1627) “ Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó TCTD giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”. Căn cứ theo Điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng thì “ Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, vốn huy động để cấp tín dụng”. Căn cứ theo Điều 49 của Luật này về “Cấp tín dụng” thì TCTD được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN. 1.1.2. Đặc điểm Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có các đặc trưng sau: - Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). - Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn - Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. - Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. 6 1.1.3. Phân loại hoạt động tín dụng * Dựa vào mục đích cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại sau: + Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp. + Cho vay tiêu dùng cá nhân. + Cho vay mua bán bất động sản. + Cho vay sản xuất nông nghiệp. + Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu… * Dựa vào thời hạn cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại sau: + Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn đến 1 năm. Mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động. + Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 1 đến 5 năm. Mục đích của loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định. + Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư. * Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, hoạt động tín dụng phân chia như sau: + Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay. + Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác. * Dựa vào phương thức cho vay, hoạt động tín dụng phân chia thành các loại sau: + Cho vay theo món vay: là loại cho vay mà mỗi lần vay vốn, khách hàng và TCTD thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. + Cho vay theo hạn mức tín dụng: là loại cho vay mà TCTD và khách hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. 7 + Cho vay theo hạn mức thấu chi: là việc cho vay mà TCTD thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng. * Dựa vào xuất xứ tín dụng, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại sau: + Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp trả nợ vay cho ngân hàng. + Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán như là: chiết khấu thương mại; bao thanh toán. 1.1.4. Vai trò hoạt động tín dụng của NHTM Thứ nhất, tín dụng Ngân hàng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp, không chỉ đối với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế Nhà nước mà còn tác động đến cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Thứ hai, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế để thực hiện tái sản xuất mở rộng, tín dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế, tạo nhiều sản phẩm hàng hóa tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Thứ ba, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm, tăng thu nhập, thực hiên mục tiêu xóa đói giảm nghèo và các chương trình, dự án mang tính xã hội khác. Thứ tư, tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn sản xuất mở rộng quá trình phân công lao động xã hội và hợp tác kinh tế trong nước và quốc tế. Thứ năm, thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng, Nhà nước có thể kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế để đề ra các biện pháp chính sách quản lý kinh tế và hoạt động của các thành phần kinh tế thông qua các chính sách về tín dụng như là các chính sách ưu đãi về lãi suất và các điều kiên cho vay khác cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất theo mục tiêu định hướng phát triển của kinh tế Nhà nước. 8 Phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng để đạt mục tiêu phát triển là một nhiệm vụ đầy khó khăn thử thách. Song song với việc này là đảm bảo an toàn tín dụng và đó là mục tiêu lớn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM nói chung . 1.2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của NHTM 1.2.1. Khái niệm về rủi ro và rủi ro tín dụng - Rủi ro là những biến cố không mong đợi khi xảy ra dẫn đến tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định. Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng, tín dụng là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận chủ yếu của Ngân hàng nhưng cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn rủi ro rất lớn. Các thống kê và nghiên cứu cho thấy, rủi ro tín dụng chiếm đến 70% trong tổng rủi ro hoạt động Ngân hàng. Mặc dù hiện nay đã có sự chuyển dịch trong cơ cấu lợi nhuận của Ngân hàng, theo đó thu nhập từ hoạt động tín dụng có xu hướng giảm xuống và thu dịch vụ có xu hướng tăng lên nhưng thu nhập từ tín dụng vẫn chiếm từ 1/2 đến 2/3 thu nhập Ngân hàng (Peter Rose, Quản trị Ngân hàng Thương mại). Kinh doanh Ngân hàng là kinh doanh rủi ro, theo đuổi lợi nhuận với rủi ro chấp nhận được là bản chất Ngân hàng. P. Volker, cựu chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) cho rằng: “Nếu ngân hàng không có những khoản vay tồi thì đó không phải là hoạt động kinh doanh”. Rủi ro tín dụng là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây tổn thất và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng kinh doanh ngân hàng. Có nhiều định nghĩa khác nhau về rủi ro tín dụng: Theo khoản 1 Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết. Các định nghĩa khá đa dạng nhưng tựu trung lại chúng ta có thể rút ra các nội dung cơ bản của rủi ro tín dụng như sau: 9 Rủi ro tín dụng khi người vay sai hẹn (defaut) trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng, bao gồm vốn và/ hoặc lãi. Sự sai hẹn có thể là trễ hạn (delayed payment) hoặc không thanh toán (nonpayment). Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến tổn thất tài chính, tức là giảm thu nhập ròng và giảm giá trị thị trường của vốn. Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ, hoặc ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản. Rủi ro là một yếu tố khách quan cho nên người ta không thể nào loại trừ hoàn toàn được mà chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện của chúng cũng như tác hại do chúng gây ra. Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rủi ro tín dụng theo nghĩa xác suất, là khả năng, do đó có thể xảy ra hoặc không xảy ra tổn thất. Điều này có nghĩa là một khoản vay dù chưa quá hạn nhưng vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tổn thất, một ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn thấp nhưng nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ rất cao nếu danh mục đầu tư tín dụng tập trung vào một nhóm khách hàng, ngành hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Cách hiểu này sẽ giúp cho hoạt động quản trị rủi ro tín dụng được chủ động trong phòng ngừa, trích lập dự phòng, đảm bảo chống đỡ và bù đắp tổn thất khi rủi ro xảy ra. 1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng Có nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng khác nhau tùy theo mục đích, yêu cầunghiên cứu. Tùy theo tiêu chí phân loại mà người ta chia rủi ro tín dụng thành các loại khác nhau. Nếu căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia thành các loại sau đây: 10 Sơ đồ 1.1. Phân loại rủi ro tín dụng Rủi ro Tín dụng Rủi ro giao dịch Rủi ro lựa chọn Rủi ro bảo đảm Rủi ro danh mục Rủi ro nghiệp vụ Rủi ro nội tại Rủi ro tập trung Rủi ro giao dịch: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch bao gồm rủi ro lựa chọn (rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, phương án vay vốn để quyết định tài trợ của ngân hàng); rủi ro bảo đảm (rủi ro phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như mức cho vay, loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo…); rủi ro nghiệp vụ ( rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề ). Rủi ro danh mục: là rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân thành rủi ro nội tại ( xuất phát từ đặc điểm hoạt động và sử dụng vốn của khách hàng vay vốn, lĩnh vực kinh tế ) và rủi ro tập trung (rủi ro do ngân hàng tập trung cho vay quá nhiều vào một số khách hàng, một ngành kinh tế hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao). 11 - Nếu phân loại theo tính khách quan, chủ quan của nguyên nhân gây ra rủi rothì rủi ro tín dụng được phân ra thành rủi ro khách quan và rủi ro chủ quan. Rủi ro khách quan là rủi ro do các nguyên nhân khách quan như thiên tai, địch họa, người vay bị chết, mất tích và các biến động ngoài dự kiến khác làm thất thoát vốn vay trong khi người vay đã thực hiện nghiêm túc chế độ chính sách. Rủi ro chủ quan do nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay và người cho vay vì vô tình hay cố ý làm thất thoát vốn vay hay vì những lý do chủ quan khác. Ngoài ra còn nhiều hình thức phân loại khác như phân loại căn cứ theo cơ cấu các loại hình rủi ro, phân loại theo nguồn gốc hình thành, theo đối tượng sử dụng vốn vay… 1.2.3. Sự cần thiết phải phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng * Đối với bản thân ngân hàng: Khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm giảm lợi nhuận kinh doanh tức là thu nhập giảm. Thu nhập giảm làm cho việc mở rộng tín dụng sẽ gặp khó khăn. Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán, rủi ro tín dụng khiến cho việc hoàn trả tiền gửi của ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Các khoản cho vay có thể mất hoặc khó đòi trong khi tiền gửi khách hàng vẫn phải trả lãi, làm mất đi những cơ hội kinh doanh tốt của ngân hàng. Nếu rủi ro xảy ra mức độ quá lớn, nguồn vốn của ngân hàng không đủ bù đắp, vốn khả dụng bị thiếu, lòng tin của khách hàng giảm tất yếu sẽ dẫn tới phá sản ngân hàng. * Đối với nền kinh tế: Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của ngân hàng liên quan đến rất nhiều thành phần kinh tế từ cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức kinh tế cho tới các tổ chức tín dụng khác. Vì vậy, kết quả kinh doanh của ngân hàng phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế và đương nhiên nó phụ thuộc rất lớn vào tình hình tổ chức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và khách hàng. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng không thể có kết quả tốt khi hoạt động kinh doanh của nền kinh tế chưa tốt hay nói cách khác hoạt động kinh doanh của ngân hàng sẽ có nhiều rủi ro khi hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro. Rủi ro xảy ra dẫn tới tình trạng mất ổn định trên thị trường tiền tệ, gây 12 khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, làm ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế và đời sống xã hội. Do đó, phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng không những là vấn đề sống còn đối với ngân hàng mà còn là yêu cầu cấp thiết của nền kinh tế góp phần vào sự ổn định và phát triển của toàn xã hội. 1.2.4. Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng Các chỉ số thường được sử dụng để đo lường RRTD là:  Tỷ lệ nợ quá hạn: Dư nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = ----------------------- x 100% Tổng dư nợ cho vay Quy định hiện nay của NHNN cho phép dư nợ quá hạn của các NHTM không được vượt quá 5%. Nợ quá hạn (non performing loan – NPL) là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và / hoặc lãi đã quá hạn. Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện để được gia hạn nợ. Để đảm bảo quản lý chặt chẽ, các khoản nợ quá hạn trong hệ thống NHTM Việt Nam được phân loại theo thời gian và được phân chia theo thời hạn thành các nhóm sau: + Nợ quá hạn dưới 90 ngày – Nợ cần chú ý + Nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày – Nợ dưới tiêu chuẩn. + Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày – Nợ nghi ngờ. + Nợ quá hạn trên 361 ngày – Nợ có khả năng mất vốn. Tỷ trọng nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay Nợ xấu (hay nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi, nợ không thể đòi,…) là khoản nợ mang các đặc trưng sau: + Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam kết này đã hết hạn. 13 + Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến có khả năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi. + Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị phát mãi không đủ trang trải nợ gốc và lãi. + Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày. Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005, nợ xấu của TCTD bao gồm các nhóm nợ như sau: + Nhóm nợ dưới tiêu chuẩn: các khoản nợ được TCTD đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn và có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại. + Nhóm nợ nghi ngờ: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả năng tổn thất cao. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại. + Nhóm nợ có khả năng mất vốn: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý; Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại. Theo quy định hiện nay, tỷ lệ này không được vượt quá 3%. * Hệ số rủi ro tín dụng Tổng dư nợ cho vay Hệ số rủi ro tín dụng= --------------------------------- x 100 % Tổng tài sản có Hệ số này cho ta thấy tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tài sản có, khoản mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng đồng thời rủi ro tín dụng cũng rất cao. Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng được chia thành 3 nhóm: 14 + Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu: là những khoản cho vay có mức độ rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân hàng. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. + Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt: là những khoản cho vay có mức độ rủi ro thấp nhưng có thể mang lại thu nhập không cao cho ngân hàng. Đây cũng là những khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. + Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình: là những khoản cho vay có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mạng lại cho ngân hàng là vừa phải. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. * Chỉ tiêu dư nợ trên vốn huy động Có nghĩa là có bao nhiêu đồng vốn huy động tham gia vào dư nợ, nó còn gián tiếp phản ánh khả năng huy động vốn tại địa phương của ngân hàng. Chỉ tiêu này lớn chứng tỏ vốn huy động tham gia vào dư nợ ít, khả năng huy động vốn của ngân hàng chưa được tốt. Dư nợ Dư nợ trên vốn huy động =------------------------- x 100% Vốn huy động * Chỉ tiêu hệ số thu nợ Hệ số thu nợ cao cho thấy công tác thu nợ đang tiến triển tốt, RRTD thấp. Chỉ tiêu này còn biểu hiện khả năng thu hồi nợ của ngân hàng từ việc cho khách hàng vay. Doanh số thu nợ Hệ số thu nợ =-------------------------- x 100 % Doanh số cho vay 15 * Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng Vòng quay vốn tín dụng dùng để đo lường tốc độ luân chuyển vốn của tín dụng ngân hàng, nó cho thấy thời gian thu hồi nợ nhanh hay chậm. Nếu vòng quay vốn tín dụng nhanh, tức việc đưa vốn vào sản xuất, kinh doanh của ngân hàng đạt hiệu quả cao. Doanh số thu nợ Vòng quay tín dụng = ---------------------------- x 100% Doanh số bình quân 1.2.5. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro hay nói cách khác hoạt động ngân hàng luôn phải đối diện với rủi ro. Vì vậy, nhận diện những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng giúp ngân hàng có biện pháp phòng ngừa hiệu quả, giảm thiệt hại. Có 3 nhóm nguyên nhân cơ bản sau đây: - Những nguyên dân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng: + Chính sách tín dụng không hợp lý, quá nhấn mạnh vào mục tiêu lợi nhuận dẫn đến cho vay đầu tư quá liều lĩnh, tập trung nguồn vốn cho vay quá nhiều vào một doanh nghiệp hoặc một ngành kinh tế nào đó. + Do thiếu am hiểu thị trường, thiếu thông tin hoặc phân tích thông tin không đầy đủ dẫn đến cho vay và đầu tư không hợp lý. + Do cạnh tranh của các ngân hàng mong muốn có tỷ trọng, thị phần cao hơn các ngân hàng khác. + Cán bộ tín dụng không tuân thủ chính sách tín dụng, không chấp hành đúng quy trình cho vay. Cán bộ tín dụng yếu kém về trình độ nghiệp vụ; Cán bộ tín dụng vi phạm đạo đức kinh doanh. + Định giá tài sản không chính xác; không thực hiện đầy đủ các thủ tục pháp lý cần thiết; hoặc không đảm bảo các nguyên tắc của tài sản đảm bảo là: đễ định giá; dễ chuyển nhượng quyền sở hữu; dễ tiêu thụ. 16 - Các nguyên nhân thuộc về phía khách hàng: + Do khách hàng vay vốn thiếu năng lực pháp lý. + Sử dụng vốn vay sai mục đích, kém hiệu quả. + Do kinh doanh thua lỗ liên tục, hàng hóa không tiêu thụ được. + Quản lý vốn không hợp lý dẫn đến thiếu thanh khoản. + Chủ doanh nghiệp vay vốn thiếu năng lực điều hành, tham ô, lùa đảo. + Do mất đoàn kết trong nội bộ Hội đồng quản trị, ban điều hành. - Các nguyên nhân khách quan liên quan đến môi trường bên ngoài: + Do thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn… + Tình hình an ninh, trong nước, trong khu vực bất ổn. + Do khủng hoảng hoặc suy thoái kinh tế, lạm phát, mất thăng bằng cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái biến động bất thường. + Môi trường pháp lý không thuận lợi, lỏng lẻo trong quản lý vĩ mô. Tóm lại, các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng rất đa dạng, có những nguyên nhân khách quan và những nguyên nhân do chủ thể tham gia quan hệ tín dụng. Những nguyên nhân chủ quan, do các chủ thể có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng và ngân hàng có thể kiểm soát được nếu có những biện pháp thích hợp. 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của NHTM Để NHTM hoạt động có hiệu quả hơn, đòi hỏi phải xác định được các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của các NHTM nhằm hạn chế được các hoạt động mang tính chất rủi ro, bảo toàn vốn, nâng cao thu nhập và lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh của NHTM. Các nhân tố này có thể được chia làm hai nhóm: nhóm nhân tố khách quan và nhóm nhân tố chủ quan, tùy theo điều kiện cụ thể của từng ngân hàng mà hai nhóm nhân tố này có những ảnh hưởng khác nhau đến hiệu quả hoạt động của chính các NHTM. 17 1.3.1. Nhóm nhân tố khách quan 1.3.1.1. Môi trường về kinh tế, chính trị và xã hội trong và ngoài nước NHTM là một tổ chức trung gian tài chính làm cầu nối giữa khu vực tiết kiệm với khu vực đầu tư của nền kinh tế, do vậy những biến động của môi trường kinh tế, chính trị và xã hội có những ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các ngân hàng. Nếu môi trường kinh tế, chính trị và xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các NHTM, vì đây cũng là điều kiện làm cho quá trình sản xuất của nền kinh tế được diễn ra bình thường, đảm bảo khả năng hấp thụ vốn và hoàn trả vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế có tăng trưởng cao và ổn định, các khu vực trong nền kinh tế đều có nhu cầu mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh do đó nhu cầu vay vốn tăng làm cho các NHTM dễ dàng mở rộng hoạt động tín dụng của mình đồng thời khả năng nợ xấu có thể giảm vì năng lực tài chính của các doanh nghiệp cũng được nâng cao. Ngược lại, khi môi trường kinh tế, chính trị và xã hội trở nên bất ổn thì lại là những nhân tố bất lợi cho hoạt động của các NHTM như nhu cầu vay vốn giảm; nguy cơ nợ quá hạn, nợ xấu gia tăng làm giảm hiệu quả hoạt động của các NHTM. Hơn nữa, hiện nay quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới. Các nền kinh tế của các nước trên thế giới ngày càng phụ thuộc vào nhau, luồng vốn quốc tế đã và đang dồn vào khu vực Châu Á mạnh mẽ, điều này đang tạo ra nhiều cơ hội cho Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng nhiều cơ hội mới như có thể tranh thủ được các nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ các nền kinh tế phát triển...tuy nhiên, bên cạnh đó ngành ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức từ quá trình hội nhập, như phải cạnh tranh với những tập đoàn tài chính đầy tiềm lực (về vốn, công nghệ, năng lực quản lý...). Trong khi thực tế hiện nay cho thấy các NHTM Việt Nam còn yếu về mọi mặt từ năng lực tài chính, kinh nghiệm quản trị ngân hàng, công nghệ đến nguồn nhân lực. Ngoài ra, với quá trình hội nhập kinh tế quốc ngày càng sâu rộng, thì sự biến động của tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của các nước trên thế giới mà nhất là các bạn hàng của Việt Nam cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của các NHTM. 18 1.3.1.2. Môi trường pháp lý Môi trường pháp lý bao gồm tính đồng bộ và đầy đủ của hệ thống luật, các văn bản dưới luật, việc chấp hành luật và trình độ dân trí. Thực tiễn cho thấy sự phát triển của các nền kinh tế thị trường trên thế giới hàng trăm năm qua đã minh chứng cho tầm quan trọng của hệ thống pháp luật trong việc điều hành nền kinh tế thị trường. Nếu hệ thống luật pháp được xây dựng không phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì sẽ là một rào cản lớn cho quá trình phát triển kinh tế. Khác với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, khi mà họ có một hệ thống luật khá đầy đủ và được sửa đổi và bổ sung nhiều lần trong quá trình phát triển của mình thì ở Việt Nam do mới chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa sang vận hành theo nền kinh tế thị trường hơn 20 năm, do đó hệ thống luật còn thiếu và chưa đầy đủ và đây cũng thực sự là một trở ngại đối với hoạt động của các NHTM. Đồng thời, quá trình tiền tệ hóa diễn ra nhanh trong thời gian gần đây đòi hỏi Việt Nam phải sớm thông qua các bộ luật mới và sửa đổi các điều luật không còn phù hợp với tình hình kinh tế, có như vậy hệ thống luật pháp mới thực sự tạo lập được một môi trường pháp lý hoàn chỉnh làm cơ sở để giải quyết các tranh chấp, khiếu nại nảy sinh trong hoạt động kinh tế, xã hội. Như vậy, rõ ràng môi trường luật pháp có vai trò hết sức quan trọng đối với các hoạt động kinh tế nói chung và đối với hoạt động của các NHTM nói riêng, là cơ sở tiền đề cho ngành ngân hàng phát triển nhanh và bền vững. 1.3.2. Nhóm nhân tố chủ quan Nhóm nhân tố chủ quan được bàn đến chính là các nhân tố bên trong nội bộ của chính các NHTM như các nhân tố về năng lực tài chính, khả năng quản trị điều hành, ứng dụng tiến bộ công nghệ, trình độ và chất lượng của lao động... 1.3.2.1. Năng lực tài chính Năng lực tài chính của một ngân hàng thương mại thường được biểu hiện trước hết là qua khả năng mở rộng nguồn vốn chủ sở hữu, vì vốn chủ sở hữu thể hiện sức mạnh tài chính của một ngân hàng. Tiềm lực về vốn chủ sở hữu ảnh hưởng tới quy mô kinh doanh của ngân hàng như: khả năng huy động và cho vay vốn, khả năng đầu tư tài chính và trình độ trang bị công nghệ. 19 Thứ hai, khả năng sinh lời cũng là một nhân tố phản ánh về năng lực tài chính của một ngân hàng vì nó thể hiện tính hiệu quả của một đồng vốn kinh doanh. Thứ ba là khả năng phòng ngừa và chống đỡ rủi ro của một ngân hàng cũng là nhân tố phản ánh năng lực tài chính. Nếu nợ xấu tăng thì dự phòng rủi ro cũng phải tăng để bù đắp rủi ro, có nghĩa là khả năng tài chính cho phép sử dụng để bù đắp tổn thất có thể xảy ra. Ngược lại, nếu nợ xấu tăng nhưng dự phòng rủi ro không đủ để bù đắp có nghĩa là tình trạng tài chính xấu và năng lực tài chính bù đắp cho các khoản chi phí này bị thu hẹp. 1.3.2.2. Năng lực quản trị, điều hành Năng lực quản trị, điều hành là nhân tố tiếp theo ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng. Năng lực quản trị điều hành trước hết là phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, trình độ lao động và tính hữu hiệu của cơ chế điều hành để có thể ứng phó tốt trước những diễn biến của thị trường. Tiếp theo năng lực quản trị, điều hành còn có thể được phản ánh bằng khả năng giảm thiểu chi phí hoạt động, nâng cao năng suất sử dụng các đầu vào để có thể tạo ra được một tập hợp đầu ra cực đại. 1.3.2.3. Khả năng ứng dụng tiến bộ công nghệ Khả năng ứng dụng tiến bộ công nghệ chính là phản ánh năng lực công nghệ thông tin của một ngân hàng. Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và ứng dụng sâu rộng của nó vào cuộc sống xã hội như ngày nay, thì ngành ngân hàng khó có thể duy trì khả năng cạnh tranh của mình nếu vẫn cung ứng các dịch vụ truyền thống. Năng lực công nghệ của ngân hàng thể hiện khả năng trang bị công nghệ mới gồm thiết bị và con người, tính liên kết công nghệ giữa các ngân hàng và tích độc đáo về công nghệ của mỗi ngân hàng. 1.3.2.4. Trình độ, chất lượng của người lao động Nhân tố con người là yếu tố quyết định quan trọng đến sự thành bại trong bất kỳ hoạt động nào của cácNHTM. Xã hội càng phát triển thì càng đòi hỏi các ngân hàng càng phải cung cấp nhiều dịch vụ mới và có chất lượng. Chính điều này đòi hỏi chất lượng của nguồn nhân lực cũng phải được nâng cao để đáp ứng kịp thời đối với những thay đổi của thị trường, xã hội. Việc sử dụng nhân lực có đạo đức nghề nghiệp, giỏi về chuyên môn sẽ 20 giúp cho ngân hàng tạo lập được những khách hàng trung thành, ngăn ngừa được những rủi ro có thể xảy ra trong các hoạt động kinh doanh, đầu tư và đây cũng là nhân tố giúp các ngân hàng giảm thiểu được các chi phí hoạt động. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nguồn nhân lực luôn phải chú trọng việc gắn phát triển nhân lực với công nghệ mới. 1.3.2.5. Quy trình tín dụng Hoạt động cho vay là một hoạt động cơ bản của ngân hàng. Nó mang lại doanh thu và lợi nhuận cho ngân hàng tồn tại và phát triển. Tuy nhiên việc cho vay là một vấn đề không đơn giản, nó mang lại khá nhiều rủi ro, bất trắc, vì vậy để đảm bảo cho hoạt động này có hiệu quả tích cực thì cần phải đảm bảo thực hiện cho vay theo đúng quy trình thủ tục đã được quy định. Quy trình cho vay đối với các đối tượng khác nhau cũng khác nhau. Và ở Việt Nam có quy định cụ thể về quy trình cho vay đối với các tổ chức tín dụng như sau: + Hình thành khoản vay. + Xử lý yêu cầu vay vốn. + Đưa ra quyết định cho vay. + Cấu trúc khoản vay, ký kết khoản vay + Kiểm soát khoản cho vay. + Xử lý khoản vay có vấn đề. + Thu nợ. Hạn chế ở Việt Nam: đây là một quy trình rất cụ thể, nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo sự an toàn chắc chắn trong việc cho vay. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay việc áp dụng nó còn nhiều tồn tại như: thủ tục, giấy tờ còn rườm rà, nhất là đối với việc cho hộ nông dân vay, đó là những món vay nhỏ lẻ, địa bàn cư trú của người vay phân tán, trình độ dân trí thấp, nhu cầu vay vốn cao, vậy mà hồ sơ, quy trình thủ tục vay vốn của họ lại rất phức tạp, gây khó khăn cho người dân. Hay như, việc tuân thủ theo đúng quy trình của cán bộ tín dụng hoặc sự hợp tác của khách hàng vay vốn trong việc cung cấp thông tin, giám sát... cũng là một vấn đề bức xúc, do trình độ kém hay đạo đức nghề nghiệp khiến cho cán bộ tín dụng đôi khi không thực hiện đúng quy trình, hay khách hàng không hợp tác
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan