Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải pháp phát triển ngành công nghiệp phụ trợ dệt may việt nam...

Tài liệu Giải pháp phát triển ngành công nghiệp phụ trợ dệt may việt nam

.PDF
101
247
52

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI ********* O0O ******** KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: Gi¶i ph¸p ph¸t triÓn ngµnh c«ng nghiÖp phô trî dÖt may ViÖt Nam SV thực hiện Lớp : Nguyễn Ngọc Tâm : Anh 19 Khóa : K42 E GV hướng dẫn : THS. Phạm Thị Hồng Yến HÀ NỘI, THÁNG 11 / 2007 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1 CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ DỆT MAY VIỆT NAM. ............................................ 6 I. TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP ............ 6 1. Lý thuyết chung về phát triển ngành công nghiệp .......................... 6 2. Mô hình kim cƣơng của Micheal Porter .......................................... 9 II. NGÀNH CÔNG NGHIỆP DỆT MAY VIỆT NAM ......................... 13 1. Khái niệm ngành công nghiệp dệt may Việt Nam ......................... 13 2. Vị trí của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu ( Global Value Chain) ......................................................... 16 III. NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ DỆT MAY VIỆT NAM ..... 19 1. Khái niệm ngành công nghiệp phụ trợ........................................... 19 2. Khái niệm ngành công nghiệp phụ trợ dệt may Việt Nam ........... 22 3. Đặc điểm và ý nghĩa của ngành công nghiệp phụ trợ dệt may Việt Nam ...................................................................................................... 24 IV.KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ DỆT MAY CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI ........ 26 1.Kinh nghiệm của Trung Quốc ........................................................ 27 2. Kinh nghiệm của Ấn Độ ................................................................. 29 3. Kinh nghiệm của Bangladesh ........................................................ 29 CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ DỆT MAY VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA ............................... 31 I.THỰC TRẠNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP DỆT MAY VIỆT NAM 31 1. Dệt may là ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam ................... 31 2. Dệt may vẫn là ngành mang lại hiệu quả kinh tế thấp .................. 34 1 3. Tác động của sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đối với ngành dệt may ....................................................................................................... 44 II.THỰC TRẠNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ DỆT MAY VIỆT NAM.............................................................................................. 46 1.Thực trạng chung của ngành công nghiệp phụ trợ dệt may Việt Nam ...................................................................................................... 46 2. Thực trạng một số ngành công nghiệp phụ trợ dệt may cụ thể .... 55 CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ DỆT MAY TRONG THỜI GIAN TỚI...... 64 I. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP DỆT MAY VÀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ DỆT MAY VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI. .................................................................... 64 1. Ngành dệt may ................................................................................. 64 1.1. Dự báo phát triển: ...................................................................... 64 1.2.Quan điểm phát triển:.................................................................. 65 1.3. Mục tiêu: .................................................................................... 68 2. Ngành công nghiệp phụ trợ dệt may .............................................. 68 2.1. Dự báo phát triển: ...................................................................... 68 2.2. Quan điểm phát triển:................................................................. 71 2.3.Mục tiêu: ..................................................................................... 73 II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ DỆT MAY TRONG THỜI GIAN TỚI. .............................. 75 1. Nhóm giải pháp đối với Nhà nƣớc: ................................................ 75 2. Nhóm giải pháp đối với các doanh nghiệp hoạt động trong ngành sản xuất sản phẩm phụ trợ dệt may. .................................................. 84 KẾT LUẬN ................................................................................................. 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 92 PHỤ LỤC.................................................................................................... 97 2 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngành dệt may có một vị trí vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế cũng như trong quá trình công nghiệp hoá của nhiều quốc gia trên thế giới, vì nó phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người và không ngừng phát triển theo tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Quá trình lịch sử phát triển của những nước công nghiệp tiên tiến trên thế giới trước đây cũng như hiện nay đều đã trải qua bước phát triển sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm dệt may. Ở Việt Nam, ngành dệt may là một trong những ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu chủ lực với tốc độ tăng trưởng bình quân cao trên 20%/năm. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may đạt 5,834 tỷ USD, chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, tăng 20,5% so với năm 2005 và tạo ra hàng triệu việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, ngành dệt may Việt Nam vẫn bị đánh giá là ngành có hiệu quả kinh tế chưa cao, sản xuất gia công là chủ yếu - chiếm 60-70% kim ngạch xuất khẩu. Trong đó ngành nhập khẩu 80-90% nguyên phụ liệu. Nguyên nhân chính của thực trạng này là do sự non kém của ngành công nghiệp phụ trợ dệt may trong nước. Theo các nhà phân tích, ngành công nghiệp phụ trợ dệt may là “thượng nguồn” trong quá trình sản xuất, là đầu vào của ngành công nghiệp dệt may, một khi ngành công nghiệp phụ trợ này yếu kém, về lâu dài nó sẽ kéo theo sự suy yếu của ngành công nghiệp dệt may vì không đảm bảo được cái gốc của sự phát triển bền vững. Muốn duy trì và nâng cao sức phát triển lâu bền và hiệu quả kinh tế cao đối với ngành công nghiệp dệt may, yêu cầu tất yếu đặt ra hiện nay là phải xây dựng một ngành công nghiệp phụ trợ dệt may vững mạnh. Nó sẽ đẩy nhanh quá trình chuyên môn hoá ngành dệt may, tạo ra khả năng cạnh tranh mạnh mẽ, tạo đà phát triển đột phá cho ngành dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, đây thực sự là một vấn đề nan giải bởi vì ngành công nghiệp phụ trợ dệt may cuả Việt Nam cùng có chung một “số phận” với các ngành 3 công nghiệp phụ trợ của các ngành công nghiệp khác. Ngành hiện đang trong quá trình thai nghén do đó đang yếu kém và có nhiều vấn đề bất cập. Vì vậy, tìm lời giải nào cho bài toán công nghiệp phụ trợ nói chung và công nghiệp phụ trợ dệt may nói riêng, để ngành dệt may Việt Nam được chắp thêm đôi cánh, bay cao bay xa trong khu vực và trên thế giới - là nỗi trăn trở của nhiều nhà quản lý, nhà kinh tế. Xuất phát từ thực tiễn đó, em đã chọn đề tài “Giải pháp phát triển ngành công nghiệp phụ trợ dệt may Việt Nam” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. Em muốn đóng góp một số giải pháp nhằm phát triển ngành công nghiệp phụ trợ dệt may nước nhà trong thời gian tới. 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của khoá luận là: - Phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng của ngành dệt may và ngành công nghiệp phụ trợ dệt may Việt Nam. - Đưa ra các giải pháp pháp triển ngành công nghiệp phụ trợ dệt may Việt Nam đối với các chủ thể nhất định: Nhà nước; các doanh nghiệp hoạt động trong kĩnh vực công nghiệp phụ trợ dệt may; các ngành công nghiệp phụ trợ dệt may cụ thể: ngành bông; ngành tơ tằm; ngành nguyên phụ kiện. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là ngành công nghiệp phụ trợ dệt may Việt Nam từ năm 2000 đến nay (2007), bao gồm các ngành: ngành sản xuất máy móc trang thiết bị dệt may; ngành bông; ngành tơ tằm; ngành nguyên phụ kiện. Ngoài ra, khoá luận cũng đề cập tới các ngành hỗ trợ và có liên quan đến ngành công nghiệp phụ trợ dệt may như ngành cơ khí, ngành hoá dầu, ngành thép. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Khoá luận này sử dụng các phương pháp: phương pháp phân tích tổng hợp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; phương pháp khảo sát tại một số doanh nghiệp cụ thể, và một số phương pháp khác. 4 5. Bố cục của khoá luận: Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khoá luận gồm có 3 chương sau: Chương I: Tổng quan phát triển ngành công nghiệp phụ trợ dệt may Việt Nam. Chương II: Thực trạng về ngành công nghiệp phụ trợ dệt may Việt Nam trong thời gian qua Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển ngành công nghiệp phụ trợ dệt may Việt Nam trong thời gian tới. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới giáo viên hướng dẫn Thạc sỹ Phạm Thị Hồng Yến, người đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo, chỉnh sửa và cho em những lời khuyên bổ ích để em hoàn thành tốt luận văn của mình. 5 CHƢƠNG I TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ DỆT MAY VIỆT NAM. I. TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP 1. Lý thuyết chung về phát triển ngành công nghiệp Công nghiệp là một bộ phận khăng khít của nền kinh tế, là lĩnh vực sản xuất hàng hoá vật chất mà sản phẩm được “chế tạo, chế biến” cho nhu cầu tiêu dùng hoặc phục vụ hoạt động sản xuất tiếp theo. Từ điển điện tử Bách khoa toàn thư mở Wikipedia định nghĩa: “Công nghiệp là hoạt động kinh tế, sản xuất có quy mô lớn, được sự hỗ trợ, thúc đẩy mạnh mẽ của các tiến bộ công nghệ, khoa học và kỹ thuật.” Một định nghĩa khác của từ điển Wikipedia về công nghiệp là “hoạt động kinh tế qui mô lớn, sản phẩm tạo ra (có thể là phi vật thể) trở thành hàng hoá” Theo nghĩa này, những hoạt động kinh tế chuyên sâu khi đạt đến một qui mô nhất định sẽ trở thành một ngành công nghiệp, chẳng hạn: công nghiệp chế tạo ô tô, công nghiệp phần mềm máy tính, công nghiệp điện ảnh, công nghiệp giải trí, công nghiệp thời trang… Công nghiệp, theo nghĩa là ngành sản xuất vật chất, trở thành đầu tàu của nền kinh tế ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Nó đã thay đổi trật tự nền kinh tế phong kiến qua hàng loạt các tiến bộ công nghệ liên tiếp trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại. Hoạt động chế tạo, chế biến trở thành lĩnh vực tạo ra của cải chủ yếu cho xã hội. Sau Cách mạng công nghiệp, một phần ba sản lượng kinh tế toàn cầu là từ các ngành công nghiệp chế tạo - vượt qua giá trị của hoạt động nông nghiệp và càng ngày ngành công nghiệp càng chứng tỏ được tầm quan trọng của nó đối với nền kinh tế thế giới nói chung và mỗi quốc gia nói riêng. 6 Công nghiệp thường được phân ra thành công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Trong đó công nghiệp nặng là ngành cần đầu tư nhiều tư bản, trái với công nghiệp nhẹ là ngành sử dụng nhiều lao động và một số lượng vừa phải nguyên vật liệu đã được chế biến để tạo ra sản phẩm có giá trị cao. Các quốc gia, tuỳ theo điều kiện trong các hoàn cảnh lịch sử khác nhau của mình, có sự lựa chọn ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp cụ thể khác nhau như phát triển công nghiệp năng lượng, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp điện tử vv… Các điều kiện để phát triển ngành công nghiệp Trong cuốn Giáo trình kinh tế phát triển1, các tác giả đã đưa ra năm điều kiện để phát triển một ngành công nghiệp: a. Điều kiện về tự nhiên gồm đất đai, khí hậu, khoáng sản b. Điều kiện về cơ sở hạ tầng bao gồm giao thông, điện nước, thông tin liên lạc... Cơ sở hạ tầng phải có tính qui mô, đồng bộ, và tính phát triển nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững lâu dài của các ngành công nghiệp. c. Điều kiện về lao động, bao gồm số lượng lao động và chất lượng lao động đi kèm với mức độ phát triển công nghệ. d. Điều kiện về chính sách mậu dịch nội địa và ngoại thương. Các chính sách này sẽ ảnh hưởng đến việc khuyến khích hay kìm hãm một ngành công nghiệp cụ thể, tuỳ thuộc theo từng điều kiện lịch sử và yêu cầu của mỗi quốc gia. e. Điều kiện kinh tế vĩ mô, bao gồm các chính sách về thuế, tỷ giá hối đoái…và các chính sách khác của nhà nước nhằm khuyến khích hay hạn chế một ngành công nghiệp cụ thể. Còn trong cuốn Kinh tế phát triển (1994), GS. Tôn Tích Thạch cho rằng việc phát triển một ngành công nghiệp cụ thể phụ thuộc vào bốn yếu tố: 1 Tiến sỹ Đinh Phi Hồ chủ biên, NXB Thống kê (2006) 7 a. Sự thay đổi về nhu cầu xã hội, nhu cầu cho sản xuất và nhu cầu tiêu dùng cá nhân. b. Sự phát triển khoa học- kỹ thuật. c. Điều kiện tự nhiên và các tài nguyên thiên nhiên. d. Sự phân công lao động quốc tế giữa các nước. Sự phân công lao động này phụ thuộc vào lợi thế so sánh của từng nước vì mỗi quốc gia khác nhau có những điều kiện thuận lợi khác nhau. Ngoài ra, còn có những ý kiến cho rằng để phát triển một ngành công nghiệp phải dựa trên các đặc điểm của sản xuất công nghiệp là: - Sản xuất công nghiệp phải mang tính chuyên môn hóa sâu và hợp tác rộng. Trong sản xuất công nghiệp, quá trình phân công lao động ngày càng sâu sắc tỉ mỉ, không chỉ theo từng sản phẩm mà còn theo từng chi tiết, từng bộ phận của sản phẩm. Chuyên môn hoá được tiến hành theo từng công đoạn cuả sản xuất. Và đồng thời với chuyên môn hoá sâu, sản xuất công nghiệp đòi hỏi thực hiện sự hợp tác rộng rãi giữa nhiều xí nghiệp, nhiều ngành khác nhau để tạo ra sản phẩm cuối cùng. Như vậy, chuyên môn hoá và hợp tác hoá trong công nghiệp là hai mặt không tách rời nhau: chuyên môn hoá càng sâu thì hợp tác hoá càng rộng. - Sản xuất công nghiệp phải có khả năng liên kết lớn. Trong nền công nghiệp hiện đại, nhiều cơ sở sản xuất có mối quan hệ với nhau về mặt kỹ thuật và công nghệ, cùng sử dụng chung một nguồn nguyên liệu ban đầu để tạo ra các sản phẩm khác nhau. Đó là quá trình liên hợp hoá. Đặc điểm này đòi hỏi trong phân bố công nghiệp, các xí nghiệp gắn với nhau về qui trình công nghệ cần được cùng phân bố trên một lãnh thổ nhằm đảm bảo quá trình sản xuất công nghệ, thuận tiện cho việc quản lý kinh doanh và nâng cao hiệu quả của sản xuất công nghiệp. [12] Một tính chất vô cùng quan trọng mà ngày nay người ta áp dụng nhiều trong hầu hết các ngành công nghiệp là tính hiệu quả tăng dần theo qui mô. 8 Sản xuất được coi là có hiệu quả nhất khi được tổ chức trên qui mô lớn. Lúc đó một sự gia tăng đầu vào với tỷ lệ nào đó sẽ dẫn đến sự gia tăng đầu ra (sản lượng) với tỷ lệ cao hơn. Như vậy một điều kiện nữa để phát triển một ngành công nghiệp là khả năng mở rộng qui mô ngành công nghiệp đó để có thể nâng cao tính hiệu quả trong sản xuất. 2. Mô hình kim cƣơng của Micheal Porter Mô hình kim cương của Micheal Porter hay chính là Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia (National Competitive Advantage) - ra đời vào những năm 1990 (đây là công trình nghiên cứu của một tập thể các nhà khoa học ở 12 nước bắt đầu từ năm 1986) - được xây dựng dựa trên cơ sở lập luận rằng khả năng cạnh tranh của một ngành công nghiệp được thể hiện tập trung ở khả năng sáng tạo và đổi mới của ngành đó [7, tr.68-77]. Từ cơ sở này, lý thuyết đã khái quát cho một thực thể lớn hơn - một quốc gia. Tuy nhiên trong khoá luận này, em chỉ phân tích mô hình kim cương trong phạm vi là một ngành công nghiệp. Nghĩa là áp dụng mô hình kim cương đối với lợi thế cạnh tranh của một ngành công nghiệp. Theo lý thuyết này, lợi thế cạnh tranh của một ngành công nghiệp thể hiện ở sự liên kết của nhóm 4 yếu tố. Mối liên kết của 4 nhóm này tạo thành mô hình kim cương. Các nhóm yếu tố đó bao gồm: (1) điều kiện các yếu tố sản xuất, (2) điều kiện về cầu, (3) các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan, (4) chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh của ngành. Các yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau và hình thành nên khả năng cạnh tranh của ngành. Ngoài ra, còn có 2 yếu tố khác là chính sách của Chính phủ và cơ hội. Đây là 2 yếu tố có thể tác động đến 4 yếu tố cơ bản kể trên. Điều kiện các yếu tố sản xuất: sự phong phú dồi dào của các yếu tố sản xuất có vai trò nhất định đến lợi thế cạnh tranh và khả năng phát triển của ngành, các doanh nghiệp trong ngành có được lợi thế rất lớn khi sử dụng các yếu tố đầu vào có chi phí thấp và chất lượng cao. Các yếu tố đầu vào này bao 9 gồm đầu vào cơ bản (tài nguyên, khí hậu, lao động giản đơn, nguồn vốn tài chính) và đầu vào cao cấp (cơ sở hạ tầng, viễn thông hiện đại, lao động có tay nghề và trình độ cao). Trong đó đầu vào cao cấp có ý nghĩa cạnh tranh cao hơn và quyết định hơn. Việc đánh giá năng lực cạnh tranh theo yếu tố đầu vào được xây dựng dựa trên 5 nhóm đầu vào, đó là: nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn tri thức, nguồn vốn và cơ sở hạ tầng. Hình 1.1: Khối kim cƣơng của M.Porter Chính phủ Chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh ngành Điều kiện các yếu tố sản xuất Điều kiện về cầu Các ngành hỗ trợ và có liên quan Cơ hội Nguồn: Giáo trình kinh tế ngoại thương (2006), Truờng đại học Ngoại thương Hà Nội. Điều kiện nhu cầu trong nước: Theo lý thuyết của Micheal Porter, nhu cầu trong nước xác định mức đầu tư, tốc độ và động cơ đổi mới của các doanh nghiệp trong ngành. Ba khía cạnh của nhu cầu trong nước có ảnh hưởng lớn tới khả năng cạnh tranh của ngành là bản chất của nhu cầu trong nước, mô 10 hình tăng trưởng của nhu cầu và cơ chế lan truyền nhu cầu. Trong đó, nhu cầu thị trường được chia thành nhiều phân đoạn. Một phân đoạn thị trường trong nước có dung lượng lớn có thể thu hút sự chú ý và ưu tiên của doanh nghiệp trong ngành cho phép họ khai thác hiệu quả kinh tế nhờ qui mô, sự đa dạng của phân đoạn thị trường giúp doanh nghiệp có nhiều kinh nghiệm để xâm nhập thị trường quốc tế. Người mua đòi hỏi cao sẽ tạo áp lực đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng, đặc tính kỹ thuật, tạo sức ép chuyển sang đáp ứng đoạn nhu cầu mới, cao cấp hơn. Xét về qui mô thị trường, nó có tác động hai mặt tới khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành. Khi qui mô thị trường lớn, nó có thể tạo ra hiệu quả lợi suất theo qui mô, nhưng đồng thời cũng có thể làm giảm sức ép bán hàng, do đó làm giảm tính năng động của doanh nghiệp. Đối với cơ chế lan truyền nhu cầu, nhu cầu bão hoà nhanh chóng có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp phải tiếp tục đổi mới và cải tiến, tạo sức ép giảm giá, tạo ra các đặc tính mới của sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất. Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan: Đối với mỗi doanh nghiệp, các ngành sản xuất hỗ trợ là những ngành sản xuất cung ứng đầu vào cho chuỗi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Trong khi đó các ngành liên quan là những ngành mà doanh nghiệp có thể phối hợp hoặc chia sẻ các hoạt động thuộc chuỗi hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc những ngành mà sản phẩm của chúng mang tính chất bổ trợ việc chia sẻ hoạt động thường diễn ra ở các khâu phát triển kỹ thuật, sản xuất, phân phối hoặc tiếp thị hoặc dịch vụ. Sự phát triển của các ngành hỗ trợ, liên quan sẽ tạo ra lợi thế tiềm tàng cho các doanh nghiệp nhận thức các phương pháp và cơ hội mới để áp dụng công nghệ mới. Hơn nữa, ngành hỗ trợ là ngành xúc tác chuyển tải thông tin và đổi mới từ doanh nghiệp này đến doanh nghiệp khác, đẩy nhanh tốc độ đổi mới trong ngành kinh tế. Tuy nhiên, theo M.Porter, những đầu vào 11 không có tác động quan trọng tới sự đổi mới hoặc hiệu quả của sản phẩm hoặc công nghệ thì có thể nhập khẩu. Chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh: khả năng cạnh tranh còn được quyết định bởi các yếu tố như mục tiêu, chiến lược và cách thức tổ chức doanh nghiệp trong ngành. Lợi thế cạnh tranh thường là sự kết hợp các yếu tố trên với cơ sở của lợi thế cạnh tranh. Những khác biệt về trình độ quản lý, sức mạnh động cơ cá nhân, các công cụ ra quyết định, quan hệ với khách hàng, quan hệ giữa người lao động và bộ máy quản lý…tạo ra lợi thế hoặc bất lợi cho doanh nghiệp. Theo M.Porter, môi trường cạnh tranh trong nước có một ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc tạo sức ép cải tiến đối với các đối thủ cạnh tranh hiện tại và thu hút đối thủ mới nhập cuộc, tạo sức ép bán hàng ra nước ngoài. Toàn bộ ngành công nghiệp sẽ tiến bộ nhanh hơn do những ý tưởng mới được phổ biến và ứng dụng nhanh hơn. Trong trường hợp trong nước chưa có môi trường cạnh tranh sôi động thì thị trường trong nước hoàn toàn mở cửa cùng với chiến lược kinh doanh quốc tế có thể là một giải pháp thay thế hữu hiệu. Vai trò của Chính phủ: Chính phủ có thể tác động đến lợi thế cạnh tranh của ngành thông qua 4 nhóm nhân tố xác định lợi thế cạnh tranh trên đây. Các tác động của chính phủ có thẻ là tích cực hoặc tiêu cực. Chính phủ có thể tác động đến các điều kiện đầu vào thông qua các công cụ trợ cấp, chính sách thị trường vốn, chính sách giáo dục, y tế…Vai trò điều hành của chính phủ được thể hiện qua các mặt sau: định hướng phát triển thông qua chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế; tạo môi trường pháp lý và kinh tế cho các chủ thể kinh tế hoạt động và cạnh tranh lành mạnh; là điều tiết hoạt động và phân phối lợi ích một cách công bằng thông qua việc sử dụng các công cụ ngân sách, thuế khoá, tín dụng…; kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế theo đúng pháp luật và chính sách đề ra. 12 Vai trò của cơ hội: Cơ hội rất quan trọng vì chúng tạo ra sự thay đổi bất ngờ cho phép chuyển dịch vị thế cạnh tranh. Chúng có thể xoá đi lợi thế cạnh tranh của những công ty đã thành lập trước đó và tạo tiềm năng cho các công ty mới có thể khai thác để có được lợi thế đáp ứng những điều kiện mới và khác biệt. Tuy nhiên, các cơ hội là những sự kiện xảy ra ít liên quan đến tình trạng hiện tại của quốc gia và nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của các doanh nghiệp. Đó là sự thay đổi bất ngờ về công nghệ, tăng giá dầu mỏ đột ngột, thay đổi đáng kể trên thị trường chứng khoán thế giới, tăng mạnh cầu trên thế giới và khu vực, quyết định chính trị của Chính phủ. Những thay đổi đột biến có thể thay đổi cơ sở của lợi thế và cho phép tạo ra một mô hình kim cương mới thay thế mô hình kim cương cũ. Ở đây, em có một nhận xét chủ quan là mô hình kim cương cuả M.Porter ưu việt hơn hẳn các lý thuyết về công nghiệp nêu trên vì nó bao hàm đầy đủ các yếu tố tác động đến sự phát triển của một ngành công nghiệp. Vì thế trong khoá luận này, khi đi vào phân tích thực trạng về khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp cũng như đưa ra các giải pháp phát triển khả năng cạnh tranh ấy, em sẽ áp dụng mô hình kim cương vào việc phân tích trong khoá luận của mình. II. NGÀNH CÔNG NGHIỆP DỆT MAY VIỆT NAM 1. Khái niệm ngành công nghiệp dệt may Việt Nam Xét về khía cạnh ngôn ngữ, thuật ngữ “công nghiệp dệt may” được tạo thành bởi 2 nhóm từ “công nghiệp” và “dệt may”. Từ “công nghiệp” đã được giải thích ở phần 1.1.1 là “hoạt động kinh tế có qui mô lớn, được sự thúc đẩy mạnh mẽ của các tiến bộ về khoa học công nghệ” và “sản phẩm tạo ra trở thành hàng hoá”. Từ “dệt may” là một từ ghép thuần Việt, được cầu tạo bởi 2 từ đơn “dệt” và “may”. Nó có ý nghĩa chỉ hoạt động dệt vải từ sợi và may quần áo từ vải. 13 Như vậy, khái niệm “ngành công nghiệp dệt may” là để chỉ một ngành công nghiệp sản xuất ra các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của con người là các loại vải vóc, quần áo và các đồ dùng bằng vải. Sản phẩm của ngành công nghiệp dệt may gồm có: sản phẩm may mặc cuối cùng (clothing/garment hoặc apparel), các loại vải (textiles), các sản phẩm khác từ sợi (vd: bít tất, khăn bông…).Trong thực tiễn ngành công nghiệp dệt may thuộc lĩnh vực công nghiệp nhẹ, sử dụng nhiều lao động, đặc biệt là lao động nữ. Cũng như các cường quốc châu Á, Việt Nam quyết tâm xây dựng ngành công nghiệp dệt may là ngành công nghiệp chủ lực của đất nước. Sự lựa chọn này bắt nguồn từ những thuận lợi về tự nhiên và con người. Người dân Việt Nam từ lâu có nghề trồng dâu nuôi tằm, xe bông kéo sợi và đến nay vẫn còn tồn tại nhiều làng nghề truyền thống nổi tiếng về thêu thùa dệt lụa như làng lụa Hà Đông, Vạn Phúc, Bảo Lộc (Lâm Đồng)… Bên cạnh đó Việt Nam được thiên nhiên ưu đãi, có khí hậu phù hợp với việc nuôi trồng các nguyên liệu thô của ngành dệt may như trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm. Ngành công nghiệp dệt may Việt Nam gồm có hai bộ phận: ngành dệt và ngành may. Ngành dệt gồm các khâu: kéo sợi, dệt vải, nhuộm và hoàn tất vải. Trong đó, kéo sợi là quá trình sản xuất sợi từ các nguyên liệu thô khác nhau, các mảnh sợi đơn riêng lẻ được xoắn lại với nhau để tạo thành sợi dài và chắc. Dệt vải gồm có dệt truyền thống và dệt kim. Dệt vải truyền thống là hoạt động sử dụng khung cửi hay máy dệt kéo căng và định vị các sợi để đan các sợi theo chiều dọc và ngang vuông góc với nhau tạo thành tấm vải. Dệt kim là hoạt động dùng kim để móc các sợi với nhau tạo thành tấm vải hoặc sản phẩm may mặc cuối cùng. Nhuộm và hoàn tất vải là hoạt động xử lý vải thô (được dệt từ các sợi đơn sắc màu trắng) bằng hoá chất và bột màu (thường được tạo ra từ than đá và sản phẩm hoá dầu), tạo cho vải những hoa văn hay độ bóng khác nhau nhằm đáp ứng các nhu cầu đa dạng về thẩm mỹ. 14 Ngành may sử dụng nguyên liệu chính là vải và một số phụ liệu khác (khuy, ren, mác…), thông qua thiết kế, đo cắt, sử dụng các loại máy may để tạo thành sản phẩm may mặc cuối cùng. Hình 1.2: Sơ đồ mô tả toàn bộ quá trình sản xuất dệt may Xơ tổng hợp hoá học Xơ nhân tạo tự nhiên Nguyên liệu thô tự nhiên kéo sợi Dệt kim Dệt khung Dệt In vải Nhuộm vải Sản xuất nguyên liệu Hoàn tất vải Cắt may May Sản phẩm tiêu dùng cuối cùng Hai ngành công nghiệp này có mối quan hệ khăng khít với nhau, được ví như hai anh em bởi sự phát triển của ngành này là tiền đề, động lực để phát triển ngành kia. Mối quan hệ giữa hai ngành được thể hiện trong hình 1.2 ở trên. Vai trò chủ yếu của ngành dệt là sản xuất ra vải vóc phục vụ ngành may, còn sự phát triển của ngành may tạo ra thị trường tiêu thụ cho ngành dệt. Sự phát triển đồng đều của hai ngành này có ý nghĩa sống còn đối với ngành công nghiệp dệt may nói chung. 15 2. Vị trí của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu ( Global Value Chain) Chuỗi giá trị toàn cầu là gì? Chuỗi giá trị là một loạt các hành động mà doanh nghiệp đã thực hiện nhằm tạo ra một sản phẩm từ khi ý tưởng sản phẩm được thai nghén cho đến khi đưa sản phẩm đi vào sử dụng. Quá trình này bao gồm các khâu như thiết kế, sản xuất, marketing, phân phối và hỗ trợ tới người tiêu dùng cuối cùng. Các hành động nằm trong một chuỗi giá trị có thể được thực hiện bởi một doanh nghiệp đơn lẻ, nhưng cũng có thể đã diễn ra sự phân chia lao động giữa các doanh nghiệp với nhau. Các hành động trong chuỗi giá trị mà tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ, có thể diễn ra trong một khu vực địa lý duy nhất hoặc trải dài tại nhiều khu vực địa lý khác nhau. Khái niệm chuỗi giá trị toàn cầu- Global Value Chain (GVC) được hiểu là khi chuỗi giá trị được tạo ra bởi nhiều công ty khác nhau và trải dài trên nhiều khu vực địa lý.[26] Điểm đáng nói là chuỗi giá trị toàn cầu cho phép các công đoạn của chuỗi đặt tại những địa điểm (quốc gia) có khả năng đạt hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Vai trò then chốt của chuỗi giá trị toàn cầu thường là các tập đoàn đa quốc gia do tính chất hoạt động xuyên biên giới và khả năng thu hút hợp tác thương mại và đầu tư quốc tế của các tập đoàn này. Do chi phí nhân công cũng như dịch vụ hỗ trợ tại các nước phát triển thường rất đắt, nên xuất hiện xu hướng các tập đoàn này ngày càng sử dụng nhiều nguồn lực bên ngoài chính quốc, nghĩa là nhiều doanh nghiệp tại các nước đang phát triển có khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu theo hình thức “xuất khẩu tại chỗ”. Đối với ngành dệt may, một trong những đặc điểm nổi bật của ngành công nghiệp này là tính chuyên sâu và hợp tác rộng, cụ thể là việc phân chia sản xuất thành từng công đoạn riêng biệt. Đặc điểm này bắt nguồn từ lý do 16 từng công đoạn có thể tách rời nhau do chúng rất khác nhau về bản chất và kỹ thuật sản xuất. Sản xuất nguyên liệu thô chủ yếu liên quan đến công việc chăn nuôi, trồng trọt (trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm…). Các bước sản xuất tiếp theo là kéo sợi, dệt vải, nhuộm, hoàn tất vải và công đoạn may cũng đòi hỏi các kỹ năng và công cụ lao động chuyên biệt, hầu như không có sự trùng lặp nào giữa các hoạt động hay giữa từng công đoạn. Một đặc điểm khác của ngành dệt may là gắn liền với điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý để có thể sản xuất công nghiệp qui mô lớn với chất lượng ổn định dựa trên các hoạt động sản xuất nguyên liệu thô. Do đó, mặc dù nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con người là “cái mặc”, hầu hết các quốc gia đều phát triển ngành dệt may, xuất phát từ nguồn gốc lâu đời là ngành thủ công sản xuất hộ gia đình, và hầu hết các quốc gia đều có những điều kiện thuận lợi nhất định để phát triển công nghiệp này, nhưng hiện nay, trong xu thế toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, ngành dệt may là một trong những ngành thể hiện sự phân công lao động quốc tế rõ rệt nhất. Theo đó, các hoạt động sử dụng nhiều lao động, có hàm lượng công nghệ thấp (như may) được tập trung sang các quốc gia đang và kém phát triển, còn các hoạt động phức tạp, có giá trị cao (như sản xuất các loại sợi tổng hợp và vật liệu mới) tiếp tục được duy trì tại các quốc gia phát triển. Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới đang tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, quá trình chuyên môn hoá sản xuất và vào chu trình tạo ra chuỗi giá trị toàn cầu trong ngành dệt may bằng cách đóp góp một phần khá lớn vào sản lượng dệt may toàn thế giới. Các học giả thế giới cho rằng chu trình sáng tạo giá trị tăng thêm của một ngành công nghiệp được chia thành 3 khu vực. Đó là: khu vực thượng nguồn (up-stream) bao gồm các hoạt động: nghiên cứu, triển khai- thiết kếsản xuất các bộ phận, linh kiện; khu vực trung nguồn (mid-stream) là công đoạn lắp ráp gia công; còn khu vực hạ nguồn (down-stream) bao gồm hoạt 17 động khai thác thị trường, tiếp thị và xây dựng mạng lưới lưu thông, chiến lược thương hiệu. Giá trị tăng thêm tạo ra ở hai khu vực thượng nguồn và hạ nguồn là rất cao còn khu vực trung nguồn là tương đối thấp [5]. Theo số liệu điều tra do tổ chức JETRO tiến hành tại các cơ sở lắp ráp cơ khí của các nhà đầu tư Nhật Bản ở Đông Nam Á, chi phí linh kiện phụ tùng chiếm tới 70-90% giá thành sản phẩm, trong khi chi phí về nhân công chỉ chiếm khoảng 10%. Như vậy, rõ ràng có một sự khác biệt rất lớn giữa khâu thượng nguồn và khâu trung nguồn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Những nước có nền công nghiệp phát triển chủ yếu nắm các khâu thượng nguồn và hạ nguồn do đó các sản phẩm, dịch vụ của họ “có tên” trên thị trường thế giới, họ đã tạo ra được những thương hiệu mạnh, đáng giá. Từ việc làm chủ khâu thượng nguồn, phát triển mạnh khâu hạ nguồn, chuyển dịch khâu trung nguồn sang các nước đang phát triển, họ đã nắm giữ phần lớn - thậm chí hầu hết giá trị gia tăng của sản phẩm, và những gì mà các nước nhận gia công, lắp ráp các sản phẩm đó nhận được chỉ là phần tiền công ít ỏi với giá lao động rẻ. Vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu có một ý nghĩa vô cùng lớn lao, bởi nó phản ảnh chính xác năng lực kinh tế của mỗi quốc gia nói chung, mỗi ngành nghề nói riêng. Vị thế ấy chỉ ra cho chúng ta thấy chúng ta đang ở đâu trong bản đồ phân công lao động thế giới. Vậy ngành dệt may Việt Nam đang ở đâu trong chuỗi giá trị toàn cầu, và làm thế nào để gia tăng vị thế của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị ấy? Không hẳn là khó lắm để tìm câu trả lời cho vế đầu tiên của câu hỏi này. Trong thời gian vừa qua, ngành dệt may chúng ta chủ yếu là gia công xuất khẩu, 60-70% kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may là từ gia công xuất khẩu, thế giới dường như không biết đến ngành dệt may độc lập của Việt Nam bởi chúng ta chưa hề có những thương hiệu nổi tiếng trên thị trường thế giới và chỉ mới xuất hiện một vài doanh nghiệp có thể mạnh dạn xuất khẩu 18 bằng cái tên của mình- mà cũng chỉ ở một vài mặt hàng nhất định như áo vest của doanh nghiệp Nhà Bè, áo sơ mi nam của Việt Tiến... Như vậy, thực chất chúng ta đang nằm ở vị trí đáy của chuỗi giá trị, nghĩa là giá trị gia tăng mà ngành dệt may mang lại rất ít ỏi. Đối với vế thứ hai của câu hỏi: “làm thế nào để gia tăng vị thế của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị ấy?”, câu trả lời mà nhiều chuyên gia đã đưa ra là: Trên thế giới hiện nay, cùng với việc mở rộng khu vực “trung nguồn” và “hạ nguồn”, các quốc gia đều rất quan tâm và nỗ lực tiến về phía “thượng nguồn”, trong đó phát triển công nghiệp phụ trợ là một hướng ưu tiên. Việt Nam không thể nằm ngoài xu thế đó. Việc phát triển công nghiệp dệt may bền vững gắn liền với việc phát triển ngành công nghiệp phụ trợ dệt may là một tất yếu. III. NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ DỆT MAY VIỆT NAM 1. Khái niệm ngành công nghiệp phụ trợ Thuật ngữ “công nghiệp phụ trợ” là một thuật ngữ khá mới mẻ ở Việt Nam. Một thời gian dài cho đến trước Đổi mới, nền kinh tế nước ta vừa còn mang đậm dấu ấn của nền kinh tế tự cung tự cấp, vừa bị ảnh hưởng của nhận thức ít nhiều mang tính giáo điều về tính độc lập tự chủ- cái gì cũng tự làm lấy, từ đầu đến cuối, thậm chí ở riêng từng xí nghiệp - nên ở Việt Nam chưa thực sự hình thành công nghiệp phụ trợ. Tiếp đến là giai đoạn đón nhận một cách thiếu chọn lọc đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), dẫn đến sự xuất hiện của hàng loạt cơ sở gia công, lắp ráp với nguyên phụ liệu và linh kiện, phụ tùng hầu hết là nhập khẩu. Trong báo cáo điều tra “ Xây dựng và tăng cường ngành công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam” – Kyoshiro Ichikawa- Tư vấn viên đầu tư cao cấp của Cục xúc tiến đầu tư Nhật Bản tại Hà Nội, đã nhận định: “Mặc dù nhận thức được tầm quan trọng của các ngành công nghiệp phụ trợ, nhưng hầu hết quan 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan