TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
KHOA NGÂN HÀNG
Đề tài:
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN, HOÀN THIỆN CÁC DỊCH VỤ
NGÂN HÀNG MỚI TẠI CÁC NHTM HIỆN NAY
GV hướng dẫn : TS. Lại Tiến Dĩnh
Người thực hiện : Nhóm 9 – Đêm 2
Lớp Cao học Ngân hàng – Khóa 22
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 02 năm 2014
DANH SÁCH THÀNH VIÊN
1. Trần Công Danh
2. Nguyễn Thanh Hà
3. Trần Thị Tuyết Nga
4. Trần Thị Hồng Nhơn
5. Nguyễn Lâm Phú
6. Dương Cao Kiều Quyên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dịch vụ ngân hàng là một trong những dịch vụ quan trọng trên thị trường
tài chính. Dịch vụ ngân hàng phát triển sẽ cho phép nền kinh tế huy động được
các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, phân bổ và sử dụng chúng một cách có hiệu
quả. Đồng thời dịch vụ ngân hàng phát triển lành mạnh sẽ là yếu tố đảm bảo cho
ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế quốc tế và sự phát triển của nền kinh tế
tri thức, xu hướng đa dạng hóa và mở rộng dịch vụ ngân hàng mới là xu hướng tất
yếu ở mọi quốc gia. Trên thế giới ngày nay, các NHTM đã, đang và luôn tìm mọi
cách để tự đổi mới mình và vận động cùng với xu thế chung của thời đại. Hệ
thống NHTM trên thế giới đã phát triển mạnh mẽ, ngày càng hiện đại hơn và
mang tính chất đa năng với quy mô hoạt động xuyên quốc gia. Song song với việc
duy trì, phát triển và hiện đại hóa các dịch vụ ngân hàng truyền thống, các NHTM
trên thế giới đó mở ra hàng ngàn các loại hình dịch vụ ngân hàng mới có hàm
lượng công nghệ cao nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của nền kinh tế và tối đa hóa
giá trị gia tăng cho các TCTD, khách hàng và xã hội.
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế với mức độ ngày càng sâu rộng. Hệ
thống NHTM Việt Nam không thể tránh khỏi sự tác động của xu hướng toàn cầu
hoá kinh tế quốc tế, của nền kinh tế tri thức và làn sóng phát triển như vũ bão của
hệ thống ngân hàng toàn cầu. Trong khi đó, cho đến nay, hệ thống NHTM Việt
Nam vẫn còn nhiều yếu kém, năng lực cạnh tranh chưa cao. Hoạt động cung ứng
các dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam trong những năm qua đã có tốc độ phát triển
khá nhưng theo đánh giá chung thì do xuất phát điểm thấp, quy mô và chất lượng
các loại hình dịch vụ này còn hạn chế; các dịch vụ do các NHTMVN cung cấp
chủ yếu vẫn là các dịch vụ truyền thống, quá trình đa dạng hoá các dịch vụ ngân
hàng mới diễn ra còn chậm. Ngay cả các loại hình dịch vụ ngân hàng truyền thống
cũng còn đơn điệu, các sản phẩm dịch vụ mới phù hợp với nhu cầu của người dân
và các doanh nghiệp xuất hiện chưa nhiều.Vì vậy, các NHTM Việt Nam muốn tồn
tại và phát triển được trong bối cảnh hội nhập hiện nay buộc phải đổi mới.
Phát triển dịch vụ ngân hàng mới song hành với việc nâng cấp và hiện đại
hoá các dịch vụ ngân hàng truyền thống là yêu cầu tất yếu trong quá trình đổi mới
ấy. Do đó, đề tài “Giải pháp phát triển, hoàn thiện các dịch vụ ngân hàng mới
tại các NHTM hiện nay” đang trở thành một vấn đề tất yếu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua việc đánh giá tình hình phát triển các loại hình dịch vụ ngân
hàng mới ở Việt Nam hiện nay, đề tài muốn chỉ ra những thành tích đạt được cũng
như những hạn chế và nguyên nhân còn tồn tại. Qua đó nhằm đề xuất giải pháp
phát triển, hoàn thiện các loại hình dịch vụ này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: tình hình phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng
mới của các NHTM ở Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu một cách tổng thể các dịch vụ ngân
hàng mới của các NHTM trong thời gian từ năm 2007 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài s ử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh,
thống kê … để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
5. Kết cấu đề tài
Chương 1: Tổng quan về dịch vụ ngân hàng
Chương 2: Tình hình phát triển các dịch vụ ngân hàng mới tại các NHTM ở
Việt Nam hiện nay
Chương 3: Giải pháp phát triển, hoàn thiện các dịch vụ ngân hàng mới ở
các NHTM Việt Nam hiện nay
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG
1.1.
Tổng quan về dịch vụ ngân hàng của các NHTM
1.1.1.
Khái niệm về dịch vụ ngân hàng
Có nhiều quan điểm khác nhau về dịch vụ ngân hàng:
- Quan điểm thứ nhất: Theo WTO, dịch vụ ngân hàng là một bộ phận cấu
thành trong dịch vụ tài chính nói chung, dịch vụ ngân hàng được đặt trong nội
hàm của dịch vụ tài chính. Hoạt động dịch vụ ngân hàng bao gồm tất cả các dịch
vụ truyền thống do ngân hàng cung cấp như nhận tiền gửi, cho vay các loại,
thanh toán và dịch vụ chuyển tiền và các dịch vụ tài chính khác như: mua bán
ngoại hối và tất cả các loại chứng khoán, bảo lãnh chứng khoán, môi giới tiền tệ,
quản lý tài sản, dịch vụ thanh toán và bù trừ, cung cấp và chuyển giao thông tin
tài chính, tư vấn và các dịch vụ tài chính bổ trợ khác.
- Quan điểm thứ hai: Theo thông lệ quốc tế, dịch vụ ngân hàng là các công
việc trung gian về tiền tệ của các tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng
về sinh lời, đầu tư, giữ hộ hay bảo đảm an toàn, đem lại nguồn thu cho tổ chức
cung ứng dịch vụ.
- Quan điểm thứ ba: Theo David Cox, hầu hết các hoạt động nghiệp vụ của
NHTM đều gọi là dịch vụ ngân hàng hoặc là cơ sở, điều kiện để mở rộng và phát
triển dịch vụ ngân hàng.
Ở Việt Nam, vẫn chưa có sự minh định rõ ràng về khái niệm dịch vụ ngân
hàng. Có không ít quan niệm cho rằng dịch vụ ngân hàng không thuộc phạm vi
kinh doanh tiền tệ và các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng theo chức năng của một
trung gian tài chính (cho vay, huy động tiền gửi...), mà chỉ bao gồm những hoạt
động không thuộc nội dung nói trên (như chuyển tiền, uỷ thác, mua bán hộ, môi
giới kinh doanh chứng khoán...). Một số khác lại cho rằng tất cả hoạt động ngân
hàng phục vụ cho doanh nghiệp và công chúng đều là dịch vụ ngân hàng.
Theo một số tác giả, dịch vụ ngân hàng cần được hiểu theo hai khía cạnh:
rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, dịch vụ ngân hàng bao gồm toàn bộ hoạt động tiền
tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối.. Quan niệm này phù hợp với cách phân ngành
dịch vụ ngân hàng trong dịch vụ tài chính của WTO và của hiệp định thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ, cũng như cách phân loại ở nhiều nước phát triển. Theo nghĩa
hẹp, dịch vụ ngân hàng chỉ bao gồm những hoạt động ngoài chức năng của định
chế tài chính trung gian huy động vốn và cho vay.
Qua các quan điểm nói trên, ta có thể hiểu theo nghĩa rộng phù hợp với cách
hiểu của WTO; theo đó, toàn bộ các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng được các
NHTM cung ứng cho nền kinh tế đều gọi là dịch vụ ngân hàng.
1.1.2.Dịch vụ ngân hàng truyền thống và dịch vụ ngân hàng mới
- Dịch vụ ngân hàng truyền thống: Là các dịch vụ cơ bản, đã có quá trình
hình thành và phát triển lâu dài.
- Dịch vụ ngân hàng mới: được hiểu bao gồm những dịch vụ ngân hàng
truyền thống được nâng cấp, phát triển trên nền tảng công nghệ hiện đại và những
dịch vụ hoàn toàn mới được cung cấp nhằm đem lại các tiện ích mới cho khách
hàng.
Các loại dịch vụ ngân hàng mới như dịch vụ tài trợ tiêu dùng; tư vấn tài
chính; quản lý ngân quỹ; dịch vụ cho thuê tài chính; tài trợ dự án; cung cấp các
dịch vụ bảo hiểm; cung cấp các kế hoạch hưu trí; cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư
chứng khoán; cung cấp dich vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp; cung cấp dịch vụ đầu tư,
dịch vụ kinh doanh chứng khoán và dịch vụ ngân hàng bán buôn; cung cấp các
dịch vụ ngân hàng quốc tế… đều là các dịch vụ mới phát triển theo xu hướng ngân
hàng hiện đại. Nhưng xét theo tính thời sự và trào lưu thì hiện tại, các dịch vụ
ngân hàng mới đang lên ngôi bao gồm dịch vụ ngân hàng trực tuyến, ngân hàng
điện tử, dịch vụ thẻ, thu chi hộ…
1.1.3. Đặc điểm chung của các dịch vụ ngân hàng mới
Các dịch vụ ngân hàng mới có những đặc điểm chung sau:
Một là: Dịch vụ ngân hàng mới là các sản phẩm dịch vụ mới, thường là
những sản phẩm được hình thành trong giai đoạn đầu của chu kỳ phát triển của
ngành, được ứng dụng rộng rãi và có tốc độ phát triển nhanh.
Hai là: Hoạt động dịch vụ ngân hàng mới đòi hỏi cơ sở hạ tầng tương xứng.
Dịch vụ ngân hàng mới gắn liền với khoa học công nghệ hiện đại, ứng dụng sâu
rộng công nghệ thông tin truyền thông, đặc biệt là mạng Internet và đòi hỏi trình
độ quản trị và độ lành nghề của cán bộ ngân hàng về tất cả các nghiệp vụ và tin
học ngày một cao hơn.
Ba là: Các dịch vụ ngân hàng mới có nhiều tính năng hiện đại, mang lại
nhiều tiện ích cho khách hàng.
1.2. Xu hướng phát triển và vai trò của các dịch vụ ngân hàng mới
1.2.1.Cơ sở khách quan của sự phát triển các dịch vụ ngân hàng mới
- Sự bùng nổ và lan toả của khoa học công nghệ, xu hướng toàn cầu hóa kinh
tế quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức.
- Sự thay đổi trong xu hướng sản xuất và tiêu dùng.
- Chiến lược kinh doanh của ngân hàng.
1.2.2.Sự bùng nổ và xu hướng phát triển của các dịch vụ ngân hàng mới
- Thế giới của các dịch vụ tài chính đã thay đổi rất nhiều so với hai mươi
năm trước, mười năm trước và thậm chí chỉ hai năm trước. Dịch vụ tài chính và
dịch vụ song hành với nó - dịch vụ uỷ thác đã mở rộng ra rất nhiều so với trước đó
và tác động của sự mở rộng đó tới ngành ngân hàng cũng giống như một sự bùng
nổ. Ở các nước phát triển, một ngân hàng hiện đại có thể cung cấp đến hàng ngàn
dịch vụ (Mỹ 6000 ngàn dịch vụ, Nhật 5000 dịch vụ, Trung Quốc, Thái Lan 2000
dịch vụ... ).
- Một số xu hướng phát triển dịch vụ ngân hàng trên thế giới:
+ Tích hợp dịch vụ ngân hàng truyền thống và dịch vụ ngân hàng mới.
+ Hợp nhất các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, mô i giới chứng khoán, đầu tư, thẻ
tín dụng,... dưới một mái nhà.
+ Xu hướng bán và bán chéo(cross-selling) các sản phẩm và dịch vụ của ngân
hàng (là việc sử dụng nhu cầu đối với một sản phẩm để tạo ra nhu cầu đối với các
sản phẩm khác liên quan). Phần lớn các ngân hàng (93% ở Mỹ, 79% ở Châu Âu
và 86% ở Úc) nhận thức được nhu cầu bán chéo này.
+ Xu hướng phát triển mạnh mẽ dịch vụ ngân hàng di động.
1.2.3.Vai trò của các dịch vụ ngân hàng mới
Đối với nền kinh tế:
Dịch vụ ngân hàng mới là những dịch vụ chất lượng cao, đòi hỏi người
cung cấp và khách hàng phải có am hiểu nhất định mới có thể sử dụng và vận
hành. Nhiều trong số loại dịch vụ này tạo ra giá trị gia tăng cao - một đặc điểm của
nền kinh tế tri thức. Ngoài ra, các dịch vụ ngân hàng mới giúp cho các luồng vốn,
các giao dịch tài chính của các ngành dịch vụ đặc biệt là các ngành dịch vụ quốc tế
phát triển.
Đối với doanh nghiệp:
- Giúp các doanh nghiệp nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu sản xuất, dịch
chuyển vốn đầu tư, đổi mới trang thiết bị, công nghệ.
- Giúp giảm thiểu chi phí giao dịch của các doanh nghiệp, nhờ đó các
doanh nghiệp có thể hạ giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh, nhất là trong
giai đoạn hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, tạo đà cho doanh nghiệp phát
triển...
Đối với hệ thống tài chính - ngân hàng:
- Tăng cường sự lưu chuyển các dòng vốn và tính ổn định của hệ thống tài
chính. Sự phát triển của dịch vụ mới, hiện đại với chi phí thấp; công nghệ và trình
độ quản lý và kỹ thuật của các tổ chức tài chính được cải thiện là nhân tố quan
trọng để ngăn chặn tối đa sự bất ổn của hệ thống tài chính.
- Dịch vụ ngân hàng mới giúp giảm thiểu rủi ro, tiết kiệm chi phí, mang lại
lợi nhuận cao cho NHTM.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM. Phát triển các dịch vụ ngân
hàng mới đã góp phần cải tiến công nghệ, phát triển thị trường, làm tăng thị phần
của mỗi NHTM, quảng bá thương hiệu và mang lại vị thế cạnh tranh cho các
NHTM.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ ngân hàng mới
1.3.1.Nhân tố khách quan
- Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế tác động đến việc cung cấp dịch vụ
ngân hàng mới theo hai hướng: vào khách hàng và vào thị trường tài chính. Thị
trường tài chính tạo ra một áp lực cạnh tranh buộc các NHTM phải đa dạng hoá
dịch vụ ngân hàng, phát triển dịch vụ ngân hàng mới. Nhu cầu sử dụng dịch vụ
ngân hàng mới của người dân thay đổi theo biến động kinh tế, thu nhập cá nhân,
sức mua, khối lượng và phương thức thanh toán của cá nhân.
- Môi trường văn hóa- xã hội: Các xu hướng xã hội, tập quán sinh hoạt, trình
độ dân trí sẽ ảnh hưởng nhiều đến hệ thống tài chính nói chung và hệ thống ngân
hàng nói riêng của các nước đang phát triển, và đặc biệt càng ảnh hưởng nhiều
hơn nữa đến sự phát triển của dịch vụ ngân hàng mới.
- Môi trường pháp lý: Là nhân tố thuộc môi trường bên ngoài có tác động
lớn nhất và thường xuyên nhất tới hoạt động dịch vụ ngân hàng nói chung và tới
dịch vụ ngân hàng mới nói riêng.
- Môi trường công nghệ: Tiến bộ về công nghệ thông tin, đặc biệt là Internet,
là yếu tố quan trọng trong việc phát triển các dịch vụ ngân hàng mới. Nhờ sự tiến
bộ về công nghệ thông tin mới có sự hiển diện của các dịch vụ ngân hàng điện tử
như: Homebanking, Phonebanking, E-banking.. .và là cơ sở cho việc toàn cầu hoá
một số dịch vụ ngân hàng.
1.3.2.Nhân tố chủ quan
- Chiến lược kinh doanh của ngân hàng: Mỗi ngân hàng khi triển khai bất kỳ
mảng dịch vụ nào cũng đều phải xây dựng cho mình một kế hoạch kinh doanh,
một tầm nhìn phù hợp. Tuỳ theo việc xác định tầm quan trọng của dịch vụ ngân
hàng mới trong trong hoạt động kinh doanh của mỗi ngân hàng mà ngân hàng đó
sẽ có những đầu tư nguồn lực thích đáng để phát triển dịch vụ ngân hàng mới.
- Quy mô, uy tín của ngân hàng: Uy tín và quy mô của ngân hàng là nhân tố
quan trọng quyết định cơ cấu danh mục dịch vụ của ngân hàng. Tùy theo quy mô
của mình mà mỗi ngân hàng sẽ tập trung vào loại hình dịch vụ mà mình có ưu thế
nhất.
- Cơ cấu tổ chức của ngân hàng: Cơ cấu của ngân hàng bao gồm hệ thống tổ
chức, chức năng nhiệm vụ của từng phòng ban, mạng lưới hoạt động của ngân
hàng. Hệ thống tổ chức nếu được thực hiện theo cơ cấu phù hợp, giữa các bộ phận
có mối liên hệ chặt chẽ thì việc định hướng, triển khai và đánh giá thực trạng hoạt
động của dịch vụ ngân hàng trở nên hiệu quả hơn.
- Chất lượng nguồn nhân lực: Nhân tố con người đóng một vai trò quan
trọng. Họ là những người quyết định chất lượng của dịch vụ ngân hàng và vì vậy
quyết định sự thành bại đối với một sản phẩm mới nào đó.
- Trình độ k ỹ thuật- công nghệ của ngân hàng: Công nghệ hiện đại nâng cao
chất lượng hoạt động của ngân hàng bằng cách cho phép ngân hàng giảm bớt thời
gian và chi phí giao dịch, tăng khả năng kiểm soát đối với các dịch vụ của mình,
cập nhật, thu thập, xử lý và phân tích thông tin nhanh hơn, cung cấp cho khách
hàng những dịch vụ đa tiện ích, qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh và tăng lòng
trung thành của khách hàng đối với ngân hàng. Ngân hàng phải căn cứ vào khả
năng tài chính, trình độ đội ngũ nhân viên và đối tượng khách hàng để lựa chọn áp
dụng những công nghệ phù hợp nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.
1.4. Nghiên cứu trước đây về vấn đề phát triển dịch vụ ngân hàng mới
Vấn đề phát triên dịch vụ ngân hàng hiện đại đã được các nhà nghiên cứu,
các nhà quản lý, các nghiên cứu sinh thuộc lĩnh vực tài chính ngân hàng nghiên
cứu dưới nhiều giác độ khác nhau và đã đạt được những kết quả nhất định. Một số
công trình nghiên cứu đáng chú ý như:
- “Giải pháp phát triên và nâng cao sức cạnh tranh của dịch vụ ngân hàng
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập”- Kỷ yếu hội thảo khoa học năm 2005 ,
bài viết của TS. Phạm Huy Hùng, Ngân hàng Công thương Việt Nam.
- “Giải pháp xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế”- Công trình khoa học năm 2005, của TS.
Nguyễn Đức Thảo, Học viện Ngân hàng.
- “Hệ thống ngân hàng Việt Nam: Đặc điểm và một số dịch vụ cơ bản”-
Công trình khoa học năm 2005 của TS. Nguyễn Hồng Sơn, Viện Kinh tế
và Chính trị thế giới.
- “Đánh giá tiềm năng phát triển thị trường thẻ ở Việt Nam” của Trần Thị
Bích Phượng, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
- “Biện pháp mở rộng và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt” của
Thạc sỹ Lưu Thuý Mai, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- “ Hoàn thiện khuôn khổ thể chế đối với dịch vụ ngân hàng hiện đại” của
Tạ Quang Đôn, Vụ Pháp chế Ngân hàng Nhà nước.
- “Những yếu tố quyết định chất lượng dịch vụ ngân hàng hiện đại” của Tô
Ánh Dương - Bùi Thu Thuỷ, Vụ Chiến lược PTNH Ngân hàng Nhà nước.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 đã khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về các dịch vụ ngân
hàng mới. Việc phát triển này là cần thiết cho mỗi ngân hàng trong quá trình hội
nhập kinh tế hiện nay. Tuy nhiên, bên cạnh đó cần phải có những điều kiện nhất
định vì trong quá trình phát triển hoạt động, dịch vụ còn tồn tại nhiều rủi ro như an
toàn bảo mật, công nghệ… Những bài học kinh nghiệm về sự phát triển tại một số
quốc gia trên thế giới sẽ giúp cho các ngân hàng Việt Nam có kinh nghiệm quý
báu để phát triển dịch vụ này.
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ NGÂN
HÀNG MỚI TẠI CÁC NHTM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.
Tình hình triển khai các dịch vụ ngân hàng mới ở Việt Nam
2.1.1. Tình hình phát triển mạng lưới cung ứng dịch vụ ngân hàng mới
- Tính đến tháng 12 năm 2013, Việt Nam đã có trên 60 ngân hàng bao gồm
ngân hàng quốc doanh, ngân hàng TMCP lớn nhỏ, các ngân hàng 100% vốn đầu
tư nước ngoài, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
- Mạng lưới các chi nhánh, các phòng giao dịch của các ngân phát triển rộng
khắp toàn quốc như BIDV có trên 120 chi nhánh, hơn 400 PGD và gần 4000
ATM phủ khắp cả nước; Vietcombank có trên 80 chi nhánh, gần 300 PGD, 3 công
ty con tại Việt Nam, 2 công ty con tại nước ngoài, 1 văn phòng đại diện tại
Singapore, 5 công ty liên doanh, liên kết; Vietinbank có trên 110 chi nhánh, 160
PGD, 358 quĩ tiết kiệm; Agribank có trên 100 chi nhánh cấp 1 & gần 2000 chi
nhánh tính tới cấp 4 có mặt đến 100% số huyện thị trong cả nước đạt tới mật độ 4
xã có 1 chi nhánh.
- Ngoài ra các NHTM đặc biệt là NHTM lớn còn mở chi nhánh ở nước
ngoài và có quan hệ đại lý với hàng ngàn ngân hàng tại khắp các nước trên thế
giới. Ví dụ như Vietinbank có 1400 ngân hàng đại lý tại gần 100 nước trên thế
giới; Vietinbank có quan hệ đại lý với 430 ngân hàng đại lý ; BIDV có quan hệ
với 565 ngân hàng đại lý. Hiện nay, các NHTMCP cũng đang cố gắng phát triển
mạng lưới cung cấp dịch vụ ra nước ngoài thể hiện ở các cuộc mua bán cổ phần,
hợp tác với các ngân hàng nước ngoài có vị thế.
2.1.2. Tình hình phát triển các dịch vụ ngân hàng mới
Bắt đầu từ năm 2000 trở lại đây những sản phẩm mang dấu ấn của một ngân
hàng hiện đại mới thực sự hình thành và phát triển. Các dịch vụ ngân hàng mới,
hiện đại tiêu biểu được các NHTMVN cung ứng trong thời gian qua là: dịch vụ
ngân hàng điện tử (Internet banking, Home banking…), dịch vụ thẻ, nhóm dịch vụ
tiền gửi tiện ích, dịch vụ cho thuê tài chính, dịch vụ trả lương qua tài khoản, dịch
vụ hưu trí, dịch vụ thu chi quản lý ngân quỹ cho doanh nghiệp...
2.1.2.1. Dịch vụ gửi tiết kiệm trực tuyến (Tiết kiệm Online)
- Điều kiện ra đời:
Người Việt Nam xưa nay vẫn còn duy trì thói quen đến Ngân hàng để gửi
tiền và nhận lại một cuốn sổ tiết kiệm có liệt kê đầy đủ số tiền, lãi s uất và kỳ hạn
gửi. Tuy nhiên, với các phương thức gửi tiền tiết kiệm truyền thống, khách hàng
phải trực tiếp đến ngân hàng, trong khi đó chỉ có một số ít nhà băng mở dịch vụ
lưu động, đến phục vụ tận nơi theo yêu cầu. Những phương thức này có trở ngại
thường nhật về không gian và thời gian, đặc biệt là đối với giới công chức hay
những người bận rộn.
Sự xuất hiện của dịch vụ gửi tiết kiệm trực tuyến (Tiết kiệm Online) đã
được giới ngân hàng Việt Nam ghi nhận từ năm 2009. Sau vài năm thử nghiệm tại
một số ngân hàng cho thấy dịch vụ tiết kiệm Online là một kênh mang lại lợi ích
vượt trội cho người gửi tiền so với các dịch vụ truyền thống. Hiện nhiều ngân
hàng đang ráo riết xây dựng, phát triển sản phẩm này.
- Đặc tính của dịch vụ:
Tiết kiệm Online ra đời là một giải pháp rất tiện lợi cho người gửi tiền, bởi
chỉ cần nhấp chuột là có thể giao dịch vào bất cứ thời điểm nào trong ngày chỉ mất
khoảng 5 phút. Tất nhiên, đây là cách thức gửi tiền qua môi trường Internet nên
yêu cầu đầu tiên này đã hạn chế về tính đại chúng nhưng đó lại là thế mạnh và tiện
ích của tiết kiệm Online.
Đối với một số sản phẩm tiết kiệm Online trên thị trường hiện nay, người
gửi tiền chỉ cần có một tài khoản cá nhân với số dư tối thiểu là 1 triệu đồng và có
sử dụng dịch vụ Internet Banking của ngân hàng cùng một máy tính kết nối
Internet là có thể dễ dàng chuyển những khoản tiền nhàn rỗi, tích lũy từ tài khoản
vãng lai sang tài khoản tiết kiệm.
Với hình thức tiết kiệm online, người gửi chỉ cần thực hiện các thao tác đơn
giản qua Internet nhưng vẫn đảm bảo tính bảo mật cao, được chứng thực bằng các
sao kê điện tử, tích hợp với các dịch vụ hỗ trợ như Internet Banking, SMS
Banking để kiểm soát tài s ản của mình, cũng như tất toán tự động khi đáo hạn.
Đây là những tiện ích vượt trội của tiết kiệm Online so với gửi tiết kiệm truyền
thống, giúp người gửi tiền chủ động về thời gian và không gian để gia tăng lợi
nhuận của đồng vốn, cũng như góp phần hạn chế việc sử dụng tiền mặt trong giao
dịch.
Sản phẩm tiết kiệm Online tại một số ngân hàng ở Việt Nam hiện nay được
thiết kế khá mở, như áp dụng điều kiện số dư thấp để có thể tạo khả năng sinh lợi
cho những khoản tiền nhỏ mà người gửi “ngại” trực tiếp đến ngân hàng (một số
ngân hàng nước ngoài yêu cầu tối thiểu từ 30 - 40 triệu đồng); hoặc với các phân
tầng kỳ hạn đa dạng cùng môi trường giao dịch nhanh, phù hợp với tính linh hoạt
của đồng vốn các nhà đầu tư vàng, chứng khoán trước các kỳ thị trường biến động.
Với sản phẩm tiết kiệm Online thì cả ngân hàng và khách hàng đều tiết kiệm được
nhiều thời gian, công sức cũng như chi phí di chuyển hoặc vận hành.
Nhân tố quan trọng để các ngân hàng có thể triển khai dịch vụ tiết kiệm
Online chính là nền tảng công nghệ thông tin hiện đại trên cơ sở phần mềm quản
trị lõi ngân hàng để có thể xây dựng sản phẩm đa dạng, đa tiện ích đồng thời bảo
mật tuyệt đối. Để có được hệ thống công nghệ này ngân hàng phải “chịu chi” rất
lớn, đây chính là điểm hạn chế khiến nhiều ngân hàng tại Việt Nam chưa triển
khai được sản phẩm tiết kiệm Online.
Ngoài việc dành cho các khoản tiết kiệm lớn với những kỳ hạn gửi tiền theo
quy định Ngân hàng (1, 3, 6 tháng, hoặc 1 năm…), những món tiền nhỏ chưa cần
dùng đến (mà trước đây bạn chỉ để trong tài khoản giao dịch vãng lai với lãi s uất
không kỳ hạn không đáng kể), thì giờ đây khách hàng có thể linh động tự tạo cho
mình tài khoản tiền gửi không kỳ hạn trực tuyến với mức lãi suất hấp dẫn. Bên
cạnh những ưu điểm nói trên, điều mà nhiều khách hàng tâm đắc nhất là sự tiện
lợi, không mất thời gian đi đến ngân hàng, được miễn phí mở tài khoản… Với
những lợi ích kể trên, Tiết kiệm Online sẽ là một kênh tiết kiệm hấp dẫn của ngân
hàng thu hút nhiều người tham gia, đặc biệt là nhân viên văn phòng không có
nhiều giời gian giao dịch trong giờ hành chính.
Minh họa sản phẩm tiết kiệm Online tại Maritimebank)
Để tham gia sản phẩm tiền gửi Online, quý khách đến Chi nhánh/ Phòng
giao dịch gần nhất của ngân hàng để được nhân viên dịch vụ khách hàng hướng
dẫn thủ tục
Bước 1: Mở tài khoản tiền gửi thanh toán (nếu là khách hàng mới, chưa có tài
khoản tại ngân hàng).
Bước 2: Ký hợp đồng sử dụng dịch vụ Tiết kiệm Online.
Sau khi đăng ký, ngân hàng sẽ có nhân viên hỗ trợ và hướng dẫn quý khách
để được cấp mã số truy cập và mật khẩu sử dụng dịch vụ Tiết kiệm Online.
Quý khách dùng mã số truy cập và mật khẩu đăng nhập vào trang web của
ngân hàng để mở tài khoản Tiền gửi Online.
Sau khi đăng nhập vào, thực hiện các thao tác sau (minh hoạ)
Bước 3: Nhập thông tin
-
Chọn mục Mở sổ tiết kiệm trực tuyến trong menu “Tiết kiệm trực tuyến”;
-
Chọn Tài khoản chuyển gửi (lưu ý chỉ lựa chọn Tài khoản thanh toán của
Quý khách), Loại Tiết kiệm là “Tiết kiệm thường”, Kỳ hạn gửi (kỳ hạn
được quy định từ 1 tháng đến 12 tháng với lãi suất tương ứng kèm theo), Số
tiền gửi (lưu ý số tiền này phải nhỏ hơn số dư trong Tài khoản chuyển gửi
và lớn hơn 1 triệu đồng), Hình thức trả lãi (theo 2 hình thức Cộng dồn vào
gốc- lãi sẽ được cộng dồn vào gốc khi tất toán cuối kỳ, và Cộng vào tài
khoản khác- lãi được chuyển vào tài khoản thanh toán chỉ định). Nhấn
“Tiếp tục” để chuyển sang Bước 4.
Bước 4: Xác thực:
Hệ thống sẽ hiển thị toàn bộ thông tin sổ tiết kiệm trực tuyến đã nhập ở Bước 2 để
Quý khách kiểm tra lại lần cuối và xác nhận trước khi nhấn “Tiếp tục” để sang
Bước 5 (không cần nhập OTP để xác thực).
Nếu muốn chỉnh sửa thông tin Quý khách nhấn “Trở lại” để quay về Bước 3 và
thực hiện lại giao dịch.
Bước 5: Kết thúc
Hệ thống thông báo tình trạng giao dịch: “Thành công” hoặc “Thất bại”.
Quý khách nhấn “Gửi email” - nhập địa chỉ email gửi đến để chia sẻ thông
tin giao dịch qua email, nhấn “Chia sẻ FB” - nhấn “Share” để chia sẻ thông tin
giao dịch trên facebook, nhấn “Kết thúc” để hoàn thành giao dịch.
2.1.2.2. Dịch vụ ngân hàng điện tử
Là dịch vụ ngân hàng được thực hiện thông qua các kênh phân phối điện tử.
Trong đó kênh phân phối điện tử là hệ thống các phương tiện điện tử và quy trình
tự động xử lý giao dịch được ngân hàng sử dụng để giao tiếp với khách hàng và
cung ứng các sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng cho Khách hàng”. Trong đó khá phổ
biến là sản phẩm IBMB với nhiều tiện ích và dễ dàng trong thao tác sử dụng.
Minh họa sản phẩm B IDV Online tại NH TMCP Đầu Tư và Phát
triển Việt Nam
BIDV Online là dịch vụ ngân hàng trực tuyến của BIDV giúp khách hàng cá
nhân quản lý tài khoản và thực hiện các giao dịch với BIDV thông qua Internet
mà không cần phải tới Quầy giao dịch.
Gồ m nhiều tính năng cao cấp
+ Chuyển khoản trong và ngoài hệ thống BIDV.
+ Gửi tiền có kỳ hạn Online.
+ Đặt lệnh thanh toán định kỳ và lệnh chuyển tiền ngày tương lai.
+ Thanh toán hóa đơn bảo hiểm (BIC, AIA), thanh toán vé máy bay (Air
Mekong, Jetstar), và nạp tiền điện thoại, ví điện tử Vn Mart, tài khoản Vietpay…
+ Truy vấn thông tin và chi tiết giao dịch của các tài khoản.
+ Vấn tin và thanh toán dư nợ thẻ tín dụng
+ Gửi các yêu cầu dịch vụ tới BIDV như yêu cầu đăng ký vay Online, yêu cầu
giải ngân khoản vay, yêu cầu trả nợ trước hạn khoản vay, yêu cầu phát hành sổ
séc, phát hành sao kê, phát hành thẻ tín dụng, thẻ ATM …và lựa chọn Chi nhánh
thực hiện yêu cầu.
Tiện ích vượt trội đối với khách hàng:
- Giao dịch mọi lúc mọi nơi qua Internet mà không cần tới ngân hàng; gửi tiền tiết
kiệm Online nhanh gọn, tiết kiệm thời gian.
- Nền tảng công nghệ hiện đại, các kênh thanh toán đa dạng giúp khách hàng
chuyển tiền đến mọi Ngân hàng trên lãnh thổ Việt Nam với tốc độ nhanh, hiệu quả
và an toàn.
- Giao diện thân thiện, dễ sử dụng.
- Hệ thống xác thực 2 yếu tố giúp khách hàng hoàn toàn yên tâm về tính bảo mật
khi giao dịch.
- Dịch vụ thanh toán hóa đơn liên kết với nhiều nhà cung cấp dịch vụ uy tín, hàng
đầu.
- Mức phí giao dịch cạnh tranh, nhiều ưu đãi so với giao dịch tại quầy.
- Hỗ trợ khách hàng quản lý tài khoản đơn giản và hiệu quả.
Lợi ích đối với ngân hàng:
-
Tiết kiệm chi phí, tăng doanh thu.
-
Mở rộng phạm vi hoạt động, tăng khả năng cạnh tranh.
-
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
-
Tăng khả năng chăm sóc và thu hút khách hàng
-
Cung cấp dịch vụ trọn gói
Hạn chế:
+ Khi giao dịch vào những ngày cao điểm như trước các dịp Lễ, Tết, khối
lượng giao dịch nhiều, đường truyền dễ bị nghẽn, giao dịch có thể ko thực
hiện được, thậm chí tiền có thể bị treo và không xác định được giao dịch đã
thành công hay chưa.
+ Khi gửi tiết kiệm online nếu tất toán trước hạn thì sẽ không được hưởng lãi
suất không kỳ hạn như khi giao dịch tại quầy.
+ Đối với việc vấn tin tài khoản, đôi khi có những giao dịch bị lỗi đường
truyền và không được cập nhật kịp thời làm ảnh hưởng đến việc theo dõi số
dư tài khoản, nhất là đối với các doanh nghiệp...
+ Không cập nhật được các sản phẩm mới nhất một cách kịp thời so với việc
giao dịch tại quầy.
+ Khi có thắc mắc về sản phẩm thì không được hỗ trợ ngay...
2.1.2.3. Thẻ tín dụng
Thẻ tín dụng ra đời đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của công nghệ
ngân hàng, hòa chung với sự phát triển về kinh tế- xã hội của thế giới, thẻ tín dụng
đã phát huy vai trò tích cực của mình. Thẻ tín dụng đang dần trở thành một
phương tiện thanh toán được nhiều người sử dụng vì những lợi ích mà nó mang
lại. Hiện nay, ở tất cả các ngân hàng đều có nhiều sản phẩm thẻ tín dụng khác
nhau.
Ưu điểm của thẻ tín dụng:
Thứ nhất: Góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Những
nước phát triển thanh toán tiêu dùng bằng thẻ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các
phương tiện thanh toán. Nhờ vậy mà khối lượng thanh toán cũng như áp lực tiền
mặt trong lưu thông giảm đáng kể, từ đó làm giảm các chi phí vận chuyển, phát
hành, kiểm kê tiền trong nền kinh tế, đồng thời giúp hạn chế được nạn tiền giả.
Thứ hai: Góp phần tăng nhanh tốc độ chu chuyển thanh toán. Hầu hết mọi
giao dịch thẻ trong phạm vi quốc gia hay toàn cấu đều được thực hiện và thanh
toán trực tuyến, vì vậy tốc độ chu chuyển thanh toán nhanh hơn nhiều so với
những giao dịch sử dụng phương tiện thanh toán khác. Thay vì thực hiện giao dịch
trên giấy tờ, với giao dịch thẻ mọi thông tin đều được xử lý qua hệ thống máy móc
điện tử thuận tiện.
Thứ ba: Thực hiện chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước. Việc sử dụng
thẻ được thực hiện thông qua mạng trực tuyến dưới sự kiểm soát của ngân hàng đã
tạo điều kiện quan trọng cho việc kiểm soát khối lượng tiền giao dịch thanh toán
của dân cư và của cả nền kinh tế, do đó giảm được lượng tiền cung ứng, tăng
cường tính chủ đạo của nhà nước trong nền kinh tế vĩ mô.
Thứ tư: Cải thiện môi trường văn minh thương mại, thu hút khách du lịch
và đầu tư nước ngoài. Thanh toán bằng thẻ tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho
chính ngân hàng thông qua các tổ chức thẻ quốc tế. Từ đó tạo ra môi trường văn
minh thương mại thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài và khách du lịch. Thanh
toán thẻ an toàn, hiệu quả, chính xác, nhanh chóng cũng sẽ tạo ra niềm chung đối
với dân chúng vào hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Thứ năm: tiện lợi, thẻ nhỏ và gọn, có thể thanh toán dễ dàng khắp mọi nơi
(tại Việt Nam có khoảng 42 nghìn điểm và cửa hàng chấp nhận thẻ - số liệu thống
kê của Intelasia).
Thứ sáu: được cấp một hạn mức tín dụng để chi tiêu trước, trả tiền sau
(đây chính là tính tín dụng của sản phẩm).
Thứ bảy: Có thể rút tiền mặt khi cần thiết tại các ngân hàng thanh toán thẻ
hay tại các máy rút tiền tự động ATM.
Nhược điểm:
Thanh toán bằng thẻ tín dụng đem lại rất nhiều tiện ích cho khách hàng, lợi
nhuận cho ngân hàng và hiệu quả kinh tế - xã hội song tấm huy chương nào cũng
có mặt trái của nó. Thanh toán thẻ tín dụng cũng có nhược điểm sau:
+ Do thẻ tín dụng có giới hạn thanh toán nhất định nên khách hàng không
thể rút tiền mặt hoặc mua sắm hàng hóa dịch vụ vượt quá giới hạn thanh toán của
thẻ.
+ Thẻ tín dụng không khuyến khích rút tiền mặt nên nếu rút tiền mặt tại các
máy ATM khách hàng sẽ chịu một khoản phí nào đó.
+ Sử dụng thẻ tín dụng bị giới hạn hơn sử dụng tiền mặt do thẻ tín dụng chỉ
được sử dụng tại các đơn vị chấp nhận thẻ.
+ Ngân hàng muốn thu hút được lợi nhuận thì phải phát hành được một số
lượng thẻ đáng kể. Trong khi đó ngân hàng phát hành phải bỏ nhiều chi phí để sử
dụng công nghệ thông tin, trang bị hệ thống ATM, thiết lập mạng lưới đơn vị chấp
nhận thẻ.
+ Rủi ro khi thanh toán bằng thẻ tín dụng: Tài khoản thẻ bị lợi dụng, dễ bị
hacker đánh cắp thông tin. Phương án khắc phục hiện nay là thay thẻ từ bằng thẻ
- Xem thêm -