1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại nói chung,
ngân hàng thương mại Việt Nam nói riêng, hoạt động tín dụng vẫn là hoạt
động mang lại nguồn thu chủ yếu cho các ngân hàng. Tuy nhiên, đây cũng là
hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro. Rủi ro tín dụng xảy ra sẽ ảnh hưởng đến khả
năng thu hồi được vốn vay, làm ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân
hàng, làm giảm khả năng cung cấp vốn cho nền kinh tế và cuối cùng ảnh hưởng
đến lợi nhuận của ngân hàng. Do vậy, hạn chế rủi ro tín dụng luôn là vấn đề mà
các ngân hàng thương mại quan tâm.
Cũng như các ngân hàng thương mại Việt Nam, Ngân hàng TMCP
Quốc tế Việt Nam – Chi nhánh Đăk Lăk lợi nhuận chủ yếu từ hoạt động tín
dụng (chiếm khoảng 80% tổng thu nhập của ngân hàng). Hay nói khác, chính
chức năng này có thể dẫn đến những rủi ro lớn nhất đối với một ngân hàng và
toàn bộ gánh nặng rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Nguyên nhân là họat
động quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế,
chưa tiếp cận được các phương pháp quản lý ngân hàng hiện đại. Quá trình
hội nhập quốc tế và cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ, rủi ro tín dụng có xu
hướng tăng. Do đó, việc nghiên cứu giải pháp để chủ động hạn chế rủi ro tín
dụng có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng
TMCP Quốc Tế Việt Nam - Chi nhánh Đăk Lăk .
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam - Chi nhánh Đăk Lăk” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận về hạn chế rủi ro tín dụng và phân tích, đánh giá
thực trạng hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam -
2
Chi nhánh Đăk Lăk, từ đó đề xuất các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam - Chi nhánh Đăk Lăk.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực
tiễn về hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam - Chi
nhánh Đăk Lăk.
Phạm vi nghiên cứu:
- Nội dung: Đề tài chỉ tập trung vào nội dung hạn chế rủi ro tín dụng mà
không nghiên cứu toàn bộ nội dung quản trị rủi ro tín dụng.
- Thời gian: Các dữ liệu về rủi ro tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng chỉ
giới hạn trong các năm 2009, 2010 và 2011.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, cùng với việc vận dụng các phương pháp
luận nghiên cứu khoa học như: duy vật lịch sử, duy vật biện chứng… luận văn
chú trọng sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể
như: logic và lịch sử; quy nạp và diễn dịch; phân tích và tổng hợp; các
phương pháp thống kê…
Các số liệu và thông tin về công tác tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng
được thu thập từ các báo cáo qua các năm của VIB Đăk Lăk như: Báo cáo
tổng kết; Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; Báo cáo tài chính, và Báo
cáo tổng kết của Ngân hàng Nhà nước - Chi nhánh Đăk Lăk cũng như các tư
liệu nghiên cứu hiện có về quản trị rủi ro tín dụng đã được đăng tải trên các
báo, tạp chí và trên Internet…
Ngoài ra, các báo cáo khoa học, luận văn của những người đi trước
cũng được sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo quý giá và đã được kế thừa
một cách hợp lý trong luận văn.
3
Trên cơ sở các tài liệu đã được tổng hợp, vận dụng các phương pháp
phân tích thống kê như số tương đối, số tuyệt đối, số bình quân gia quyền,
lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn, tốc độ phát triển liên hoàn, tốc độ tăng
(giảm) liên hoàn, phương pháp dãy số theo thời gian và phương pháp so sánh
để phân tích thực trạng và chất lượng hoạt động tín dụng qua các năm nhằm
đáp ứng được mục đích nghiên cứu của đề tài đã đặt ra.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn chia thành 3 chương chính:
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG.
Chương 2: THỰC TRẠNG HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG TMCP QUỐC TẾ VIỆT NAM - CHI NHÁNH ĐĂK LĂK.
Chương 3: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN
HÀNG TMCP QUỐC TẾ VIỆT NAM - CHI NHÁNH ĐĂK LĂK.
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG KINH DOANH
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Tín dụng ngân hàng
1.1.1.1. Khái niệm Tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là hoạt động mà ngân hàng cấp tín dụng cho khách
hàng dưới hình thức cho vay, bảo lãnh, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có
giá, cho thuê tài chính và các hình thức khác.
Bản chất của tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử
dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một khoảng thời gian nhất định
với một khoản chi phí nhất định.
Cũng như quan hệ tín dụng khác, tín dụng ngân hàng chứa đựng ba
nội dung:
- Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho
người sử dụng.
- Sự chuyển nhượng này có thời hạn hay mang tính tạm thời.
- Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí.
Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12, định nghĩa hoạt động cấp
tín dụng là “việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc
cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh
ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”.
Để có cơ sở để tiếp cận một cách nhất quán các hoạt động cấp tín dụng
của ngân hàng thương mại, cần có định nghĩa rõ ràng và hợp chuẩn pháp lý
cho các hình thức cấp tín dụng nói ở trên:
5
- Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc
cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác
định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả
cả gốc và lãi.
- Bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng hoặc bên
mua hàng thông qua việc mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các khoản phải
thu hoặc các khoản phải trả phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá, cung ứng
dịch vụ theo hợp đồng mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
- Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín
dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện
nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc
thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và
hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận.
- Chiết khấu là việc mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi
các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước
khi đến hạn thanh toán.
- Tái chiết khấu là việc chiết khấu các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ
có giá khác đã được chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán.
- Hoạt động cho thuê tài chính là việc cấp tín dụng trung hạn, dài hạn
trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính và phải có một trong các điều kiện
sau đây:
+ Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được nhận
chuyển quyền sở hữu tài sản cho thuê hoặc tiếp tục thuê theo thỏa thuận
của hai bên;
+ Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền
ưu tiên mua tài sản cho thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của
tài sản cho thuê tại thời điểm mua lại;
6
+ Thời hạn cho thuê một tài sản phải ít nhất bằng 60% thời gian cần
thiết để khấu hao tài sản cho thuê đó;
+ Tổng số tiền thuê một tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài
chính ít nhất phải bằng giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
1.1.1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
a. Căn cứ vào thời hạn, tín dụng ngân hàng có các loại sau.
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm, được
sử dụng để cho vay bổ sung vốn lưu động tạm thời của các doanh nghiệp và
cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng ở giữa hai kỳ hạn trên, loại tín
dụng này được cung cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ
thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm, được sử
dụng để cấp vốn cho các doanh nghiệp, đáp ứng các nhu cầu như: xây dựng
cơ bản, đầu tư xây dựng xí nghiệp mới, cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng
sản xuất.
b. Căn cứ vào tính chất luân chuyển vốn, tín dụng ngân hàng có các
loại sau.
- Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được dùng để hình thành vốn
lưu động, được sử dụng để bù đắp mức vốn thiếu hụt tạm thời cho các tổ
chức kinh tế, được chia ra làm các loại sau: bổ sung vốn lưu động, dự trữ
hàng hóa, thanh toán các khoản nợ… Thời hạn cho vay đối với loại tín
dụng này là ngắn hạn.
- Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được dùng để hình thành tài sản
cố định, thường được đầu tư để mua tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ
thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới. Thời hạn
cho vay đối với loại tín dụng này là trung hạn và dài hạn.
7
c. Căn cứ vào tính chất đảm bảo, tín dụng ngân hàng có các loại sau.
- Tín dụng bằng tín chấp (hay tín dụng bảo đảm không bằng tài sản): là
loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của bên thứ
ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với
những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính
mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín,
khả năng trả nợ thực chất của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn
thu nợ thứ hai bổ sung.
- Tín dụng có đảm bảo: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng phải
có tài sản thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Đối
với khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi
phải có sự bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm
một nguồn thu thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
d. Căn cứ vào mối quan hệ giữa các chủ thể, tín dụng ngân hàng
có các loại sau.
- Tín dụng trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho khách hàng có nhu
cầu và khách hàng trực tiếp trả nợ vay cho ngân hàng.
- Tín dụng gián tiếp: Là khoản vay được thực hiện thông qua việc mua
lại các khế ước, chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán,
như chiết khấu thương phiếu, mua các phiếu bán hàng tiêu dùng…
e. Căn cứ vào phương pháp cấp tiền vay, tín dụng ngân hàng có các
loại sau.
- Tín dụng từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và ngân hàng thực
hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
Tín dụng hạn mức: Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận
một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
f. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn, tín dụng ngân hàng có các loại sa
8
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại tín dụng dành cho các
doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông
hàng hóa.
- Tín dụng tiêu dùng: là hình thức tín dụng dành cho các cá nhân để
đáp ứng nhu cầu như: mua nhà cửa, xe cộ, du học… thường do các ngân
hàng, quỹ tiết kiệm, hợp tác xã tín dụng và các tổ chức tín dụng cung cấp.
Ngoài ra, bán trả góp cũng được coi là hình thức tín dụng do các công ty,
cửa hàng thực hiện.
1.1.2. Rủi ro tín dụng trong kinh doanh ngân hàng
1.1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Có rất nhiều học giả nghiên cứu về rủi ro và đã đưa ra những khái niệm
về rủi ro như: “Rủi ro là bất trắc gây ra mất mát, thiệt hại”; “Rủi ro là bất trắc
cụ thể liên quan đến nhiều biến cố không mang đợi”. Tuy nhiên, hầu hết các
quan điểm đều thống nhất quan điểm: “Rủi ro là khả năng xảy ra các biến cố
không lường trước và thường gây ra hậu quả xấu”. Rủi ro luôn xuất hiện bất
ngờ và đe dọa sự sống còn của doanh nghiệp. Thường thì những hoạt động
kinh doanh mang lại lợi nhuận càng cao thì ẩn chứa rủi ro càng lớn, mâu
thuẫn này luôn luôn tồn tại. Vì vậy, muốn có lợi nhuận cao thì cần phải chấp
nhận rủi ro. Vì thế, để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh gây
gắt và biến động, các doanh nghiệp cần phải đương đầu với rủi ro bằng những
dự đoán rủi ro có thể xảy ra để tìm những biện pháp hạn chế, phòng ngừa
nhằm giảm thiểu thiệt hại do rủi ro gây ra.
Là một đơn vị kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng thương mại
phải thường xuyên đối mặt với nhiều loại rủi ro. Do đặc thù kinh doanh của
mình nên ngân hàng thường hay đối mặt với những rủi ro như: rủi ro tín dụng,
rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro đạo đức, rủi ro lạm phát, rủi ro tỷ giá
hối đoái.
9
Trong điều kiện hiện nay, cung cấp tín dụng vẫn là một hoạt động cơ
bản nhất của ngân hàng và đồng thời, rủi ro tín dụng cũng là loại rủi ro lớn
nhất, thường xuyên xảy ra và gây ra hậu quả nặng nề nhất đối với hoạt động
của ngân hàng. Sở dĩ vậy là vì đối với hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng
thường chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu
của ngân hàng. Hơn nữa, rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có xu hướng tập
trung chủ yếu vào danh mục tín dụng. Khi ngân hàng rơi vào tình trạng tài
chính khó khăn nghiêm trọng thì nguyên nhân là thường phát sinh từ các hoạt
động tín dụng của ngân hàng. Vì thế, rủi ro tín dụng cũng được rất nhiều tác
giả nghiên cứu và đưa ra nhiều quan niệm về rủi ro tín dụng.
- Rủi ro tín dụng được hiểu là những tổn thất do khách hàng không trả
được nợ hoặc sự giảm sút chất lượng tín dụng của những khoản vay;
- Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được
đầy đủ gốc và lãi của khoản vay hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng
kỳ hạn;
- Rủi ro tín dụng được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không
thể chi trả tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời gian đã ấn định trong hợp
đồng tín dụng. Đây là thuộc tính vốn có của hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín
dụng tức là việc chi trả bị trì hoãn, hoặc tồi tệ hơn là không hoàn trả dược
toàn bộ. Điều này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ và gây ảnh
hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân hàng.
- Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam thì: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng
của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng
của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng
thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Nếu coi tín dụng là việc “tin tưởng” mà đưa cho khách hàng sử dụng giá
10
trị hiện tại với mong muốn nhận được giá trị tương lai trong một thời gian
nhất định thì rủi ro tín dụng chính là khả năng mà mong muốn đó không được
đáp ứng hay nói một cách khác đó là khả năng xảy ra sự khác biệt không
mong muốn giữa kết quả thực tế và kết quả kỳ vọng theo kế hoạch - đúng hạn
nhận được đầy đủ gốc và lãi.
Với mục tiêu là đúng hạn theo hợp đồng tín dụng, bên cho vay nhận
được đầy đủ gốc và lãi như đã nêu ở trên, thì rủi ro tín dụng có thể được hiểu
là những tổn thất tiềm năng có thể xảy ra do các bên đối tác trong hợp đồng tín
dụng không có khả năng hoặc không có đủ năng lực thực hiện nghĩa vụ của họ
một cách đầy đủ hoặc đúng hạn theo cam kết. Như vậy, rủi ro tín dụng là khả
năng bên vay không trả, hoặc không trả đúng hạn hoặc không trả đầy đủ gốc và
lãi cho ngân hàng.
Như trên đã phân tích, rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng
nhất của ngân hàng thương mại, đó là hoạt động tín dụng. Các khoản cho vay
thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản của ngân hàng thương mại,
mang lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng. Song hoạt động này cũng mang
lại những tổn thất nặng nề, có khi dẫn đến phá sản ngân hàng. Trước khi cấp
tín dụng, ngân hàng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là
cao nhất. Nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro
tín dụng sẽ không xảy ra. Tuy nhiên không phải bao giờ ngân hàng cũng dự
đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách
hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa nhiều cán bộ tín dụng
ngân hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy
trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh
khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn
đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ.
11
1.1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
a. Theo phương diện quản lý thì rủi ro tín dụng được chia thành 2 loại:
+ Rủi ro tín dụng có thể kiểm soát được (hay còn gọi là rủi ro khả
kháng)
+ Rủi ro tín dụng không thể kiểm soát được (hay còn gọi là rủi ro bất khả
kháng)
b. Theo tính chất của rủi ro tín dụng thì chia thành 2 loại:
+ Rủi ro sai hẹn
+ Rủi ro mất vốn
c. Căn cứ vào biểu hiện của rủi ro tín dụng.
- Không thu được lãi đúng hạn:
Cấp độ thấp nhất khi người vay không trả được lãi đúng hạn, khi đó
ngân hàng sẽ chuyển số lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh nhập ngoại
bảng để theo dõi. Hình thức rủi ro này được xếp vào mức rủi ro thấp vì ngoại
trừ trường hợp khách hàng muốn quỵt nợ, chiếm dụng vốn thì phần lớn đều
xuất phát từ việc thiếu cân đối trong kỳ hạn thu nợ và trả nợ của khách hàng.
- Không thu được vốn đúng hạn.
Khi không thu được vốn đúng hạn thì rủi ro sẽ ở mức cao hơn, một
phần do một lượng vốn vay lớn bị mất. Khi đó, ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó
sang mục nợ từ nhóm 2 trở lên phát sinh. Khoản mục này phát sinh vào thời
gian đáo hạn của hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, đấy chưa phải là khoản mất
mát thực sự của ngân hàng vì có thể do tiến độ thực hiện hoạt động kinh
doanh của khách hàng bị chậm so với kế hoạch đã đề ra khi vay ngân hàng, và
khách hàng tạm thời chưa có đủ vốn trả nợ.
- Không thu được đủ lãi.
Trong tình trạng này tình hình kinh doanh của khách hàng có thể đã
kém hiệu quả đến mức không thể trả đủ lãi cho ngân hàng. Khi đó, ngân hàng
12
phải chuyển khoản lãi này vào khoản mục lãi treo đóng băng và thậm chí có
thể phải thực hiện miễn giảm lãi cho khách hàng.
- Không thu đủ vốn cho vay:
Tình huống xấu nhất xảy ra khi ngân hàng không thu đủ vốn cho vay và
lúc này ngân hàng đã bị mất vốn. Tại thời điểm này, ngân hàng sẽ chuyển
khoản nợ vào mục nợ không có khả năng thu hồi hoặc phải xoá nợ, coi như
khép lại một hợp đồng tín dụng không có hiệu quả.
Trên đây chủ yếu là bốn hình thức giúp cho ngân hàng thương mại phân
biệt rủi ro tín dụng và có biện pháp xử lý. Tuy nhiên, không phải lúc nào gặp
rủi ro tín dụng thì ngân hàng đều phải trải qua bốn trường hợp trên. Có trường
hợp khách hàng đã trả lãi rất đầy đủ và đúng hạn nhưng cuối cùng lại không
thể trả được nợ gốc cho ngân hàng. Vì vậy, khi nghiên cứu về rủi ro tín dụng,
người ta thường chú trọng vào các trường hợp có nguy cơ xảy ra rủi ro tín
dụng như là lãi treo phát sinh và đặc biệt là nợ quá xấu phát sinh. Còn ở các
trường hợp khác có lãi treo đóng băng hay nợ không có khả năng thu hồi được coi
là rủi ro thực sự nên thường được xem xét để giải quyết hậu quả và rút ra
những bài học kinh nghiệm.
d. Căn cứ vào đặc điểm nội tại của rủi ro tín dụng
- Rủi ro giao dịch:
Nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch
và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận
chính là rủi ro lựa chọn , rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
* Rủi ro lựa chọn : Là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và
phân tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu
quả để quyết định cho vay.
13
* Rủi ro bảo đảm : Phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều
khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo,chủ thể đảm bảo,cách
thức đảm bảo và mức cho vay trên trị giá của tài sản đảm bảo.
* Rủi ro nghiệp vụ : Là rủi ro liên quan đến công tác quản lí khoản vay
và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và
kỹ thuật xử lí các khoản cho vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục
Là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do
những hạn chế trong quản lí danh mục cho vay của ngân hàng , được phân
chia thành hai loại: rủi ro nội tại (Intrinsic risk) và rủi ro tập trung
(Concentration risk).
* Rủi ro nội tại: Xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có,mang
tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế .
Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách
hàng vay vốn.
* Rủi ro tập trung: Là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá
nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động
trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế, hoặc trong cùng một vùng địa lí nhất
định, hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.1.2.3. Hậu quả của rủi ro tín dụng
a. Đối với ngân hàng cấp tín dụng:
Rủi ro tín dụng làm ảnh hưởng đến uy tín, thu nhập của ngân hàng, làm
giảm khả năng thanh toán của ngân hàng và có nguy cơ dẫn đến phá sản ngân
hàng. Rủi ro tín dụng là kết quả tất yếu của một hoạt động tín dụng không
lành mạnh cả về số lượng và chất lượng. Rủi ro tín dụng xảy ra làm cho ngân
hàng không thu được vốn và lãi theo đúng thời hạn để tiếp tục thực hiện hoạt
động cấp tín dụng. Do vậy, rủi ro tín dụng sẽ làm giảm tốc độ quay vòng vốn
14
của ngân hàng, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, kết quả là uy tín và sức cạnh
tranh của ngân hàng sẽ giảm theo. Nếu mức độ rủi ro trong tầm kiểm soát của
ngân hàng thì ngân hàng có thể bù đắp bằng các quỹ dự phòng rủi ro hoặc vốn
tự có, còn nếu rủi ro xảy ra ở mức độ nghiêm trọng thì sẽ làm mất khả năng
thanh toán của ngân hàng và lòng tin của khách hàng với ngân hàng sẽ bị
giảm sút nhanh chóng. Mặt khác, hoạt động tín dụng có liên quan mật thiết
với nhiều hoạt động khác trong ngân hàng do đó khi rủi ro tín dụng xảy ra
không chỉ làm giảm thu nhập của ngân hàng từ hoạt động tín dụng mà còn
làm giảm thu nhập từ các hoạt động khác. Một khi thu nhập không thể bù
đắp nổi chi phí thì sẽ dẫn đến nguy cơ phá sản ngân hàng.
b. Đối với nền kinh tế:
Rủi ro tín dụng không chỉ ảnh hưởng tới ngân hàng mà còn ảnh hưởng
tới toàn bộ nền kinh tế. Bởi hoạt động của ngân hàng mang tính xã hội hoá
cao nên khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hoặc bị phá sản ngay lập
tức nó sẽ ảnh hưởng đến các ngân hàng khác trong nền kinh tế, gây nên các
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ.
Rủi ro tín dụng có thể gây ra hậu quả tiêu cực tới mọi đối tượng trong xã
hội, làm giảm lòng tin của công chúng vào sự vững chắc và lành mạnh của hệ
thống tài chính, cũng như hiệu lực các chính sách tài chính tiền tệ của Chính
phủ.
Những hậu quả nặng nề có thể gây ra bởi rủi ro tín dụng cho thấy sự
cần thiết phải quan tâm đến hoạt động xác định, đo lường, quản lý và kiểm soát
rủi ro và do đó, hạn chế và quản lý rủi ro tín dụng không chỉ là nhiệm vụ của
ngân hàng mà còn là nhiệm vụ của tất cả các chủ thể có liên quan đến hoạt động
tín dụng ngân hàng.
15
1.2. HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Nội dung hạn chế rủi ro tín dụng
Hạn chế rủi ro tín dụng là toàn bộ các hoạt động của ngân hàng nhằm
giảm thiểu rủi ro tín dụng thông qua việc sử dụng các công cụ và biện pháp
thích hợp.
Hạn chế rủi ro tín dụng bao gồm cả hai nội dung cơ bản: ngăn ngừa,
giảm thiểu khả năng xuất hiện rủi ro tín dụng và giảm bớt mức độ tổn thất khi
rủi ro tín dụng xảy ra từ đó giảm các tác động tiêu cực của rủi ro tín dụng
(giảm lợi nhuận; giảm khả năng thanh khoản; giảm giá trị tài sản; dẫn tới
nguy cơ phá sản ngân hàng...)
Các nghiên cứu về rủi ro tín dụng đã chỉ ra hai thành phần dẫn đến rủi
ro tín dụng đối với một người vay cụ thể là: khả năng trả nợ của người vay và
ý muốn trả nợ của người vay. Tiếp cận dưới góc độ thông tin bất đối xứng, rủi
ro tín dụng phát sinh do tình trạng thiếu thông tin của ngân hàng về hai thành
phần trên của người vay dẫn đến hai hậu quả: sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro
đạo đức. Thông tin trên thị trường thường bị nhiễu loạn bởi người đi vay,
người không có khả năng trả được nợ là người tích cực vay và họ cố tạo ra
hình ảnh đầy đủ để được vay. Kết quả họ là người đầu tiên được lựa chọn, sự
lựa chọn này gọi là sự lựa chọn đối nghịch. Nếu chọn họ, ngân hàng sẽ đứng
trước nguy cơ rủi ro không thu được nợ đồng thời bỏ mất cơ hội kiếm lợi
nhuận từ những khách hàng đáng tin cậy không được lựa chọn.
Ngoài ra, thông tin không cân xứng cũng dẫn đến rủi ro đạo đức (diễn
ra sau khi thực hiện giao dịch tài chính). Nhiều người vay tiền có ý muốn thực
hiện những hoạt động không đạo đức (xét trên quan điểm người cho vay), sau
khi vay được tiền, họ đầu tư vào những dự án rủi ro cao, hoặc sử dụng vốn
không đúng với cam kết, hoặc có ý định chiếm đoạt vốn ngân hàng. Họ có thể
16
có hành vi thiếu đạo đức ngay từ ban đầu hoặc xuất hiện trong quá trình sử
dụng vốn vay (do yếu kém về quản lý, khả năng cạnh tranh và năng lực kinh
doanh dẫn đến thất bại trong kinh doanh mà nảy sinh).
Xem xét dưới góc độ này, bản chất của các hoạt động hạn chế rủi ro tín
dụng là thực hiện các công cụ, biện pháp nhằm sản xuất thông tin có hiệu quả
về khả năng trả nợ và ý muốn trả nợ của khách hàng vay qua đó hạn chế khả
năng phát sinh rủi ro và những tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra đối với ngân
hàng.
Nội dung hạn chế rủi ro cũng dược xem xét dưới góc độ các biện pháp,
công cụ mà ngân hàng thực hiện trước, trong và sau khi cấp tín dụng cho
khách hàng, bao gồm:
- Các biện pháp, công cụ nhằm hạn chế khả năng (hay xác suất) xảy ra rủi
ro tín dụng :
+ Tiến hành thẩm định tín dụng để lấy các quyết định về tín dụng đối
với một khoản vay cụ thể
+ Triển khai hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng
+ Các yêu cầu về bảo đảm
+ Sử dụng các điều khoản hạn chế trong hợp đồng tín dụng
+ Giám sát sau khi cho vay, bao gồm cả việc giám sát việc tuân thủ các
điều khoản hạn chế của hợp đồng....
- Các biện pháp nhằm hạn chế tổn thất nếu xảy ra rủi ro tín dụng: Ngân
hàng có thể thực hiện các biện pháp: Xử lý từ dự phòng rủi ro tín dụng; phát
mãi tài sản bảo đảm; bán nợ; thu hồi nợ xấu, nợ từ nhóm 2 trở lên; tái cơ cấu
các khoản nợ; chuyển giao rủi ro thông qua bảo hiểm; sử dụng các công cụ
phát sinh
1.2.2. Chỉ tiêu đánh giá kết quả hạn chế rủi ro tín dụng
1.2.2.1. Mức giảm tỷ lệ các khoản nợ từ nhóm 2 trở lên:
17
Tỷ lệ các khoản nợ từ nhóm 2 trở lên là một chỉ tiêu rất quan trọng
trong việc đánh giá rủi ro tín dụng của một ngân hàng thương mại. Đây là chỉ
tiêu phản ánh chất lượng tín dụng cũng như mức độ rủi ro trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng thương mại. Chỉ tiêu này càng lớn thì khả năng tổn thất
rủi ro tín dụng của ngân hàng càng cao, việc quản lý rủi ro tín dụng của ngân
hàng kém hiệu quả.
Tỷ lệ các khoản nợ từ nhóm 2 trở lên: Tỷ lệ này càng cao thì mức độ
rủi ro tín dụng của ngân hàng càng lớn. Theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước cho phép tỷ lệ các khoản nợ từ nhóm 2 trở lên không quá 5% có thể
chấp nhận được.
Tỷ lệ các khoản nợ từ nhóm 2 trở lên được xác định như sau:
Tỷ lệ các khoản nợ từ
nhóm 2 trở lên trong kỳ
=
Nợ từ nhóm 2 trở lên trong kỳ
Tổng dư nợ trong kỳ
x
100%
- Mức độ giảm tỷ lệ các khoản nợ từ nhóm 2 trở lên : Tỷ lệ các khoản nợ
từ nhóm 2 trở lên cuối kỳ - Tỷ lệ các khoản nợ từ nhóm 2 trở lên đầu kỳ .
1.2.2.2. Sự thay đổi trong cơ cấu nhóm nợ.
Theo thông lệ nợ được phân thành các nhóm căn cứ vào mức độ rủi ro
tín dụng. Phổ biến nợ được chia thành năm nhóm căn cứ vào hai tiêu chí: tiêu
chí thời gian quá hạn và các tiêu chí định tính.
Tại Việt Nam, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, việc phân loại nợ
và trích lập dự phòng rủi ro theo QĐ 493/2005/QĐ – NHNN. Theo đó, nợ được
phân loại vào 5 nhóm nợ: Nợ nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn), Nợ nhóm 2 (Nợ cần
chú ý), Nợ nhóm 3 (dưới chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ), và nhóm 5 (có khả năng
mất vốn).
Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi trong cơ cấu nhóm nợ. Tỷ trọng của
các nhóm nợ có rủi ro cao lớn hơn phản ảnh mức độ rủi ro gia tăng so với kỳ
trước và ngược lại.
18
1.2.2.3. Mức giảm tỷ lệ nợ xấu:
Nợ xấu theo QĐ 493/2005/QĐ - NHNN là nợ được phân loại vào
nhóm 3 (dưới chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ), và nhóm 5 (có khả năng mất vốn).
Đây là những khoản nợ rất khó có khả năng hoàn trả. Nó thể hiện khả năng
mất vốn rất lớn. Tỷ lệ này càng cao càng mức độ nguy cơ tổn thất trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng càng lớn.
Tỷ lệ nợ xấu
=
Nợ xấu
Tổng dư nợ
x
100%
1.2.2.4. Mức giảm tỷ lệ trích lập dự phòng :
Dự phòng rủi ro tín dụng bao gồm hai loại: dự phòng chung và dự
phòng cụ thể. Việc trích lập dự phòng về cơ bản dựa trên việc phân loại các
nhóm nợ theo mức rủi ro.
Số trích lập dự phòng phản ảnh mức độ rủi ro tín dụng chung do tỷ lệ
trích lập dự phòng dựa trên việc phân loại nợ theo mức độ rủi ro.
Tỷ lệ trích lập dự
phòng
=
Số đã trích lập dự phòng
Tổng dư nợ
x
100%
Do đó, mức giảm tỷ lệ này phản ảnh khả năng kiểm soát rủi ro tín dụng
tốt hơn của ngân hàng. Ngược lại, chỉ tiêu này tăng lên so với kỳ trước thể
hiện mức độ rủi ro tín dụng tổng thể của ngân hàng là cao hơn trước.
1.2.2.5 Mức giảm lãi treo:
Chỉ tiêu này phản ảnh những dấu hiệu có khả năng xảy ra rủi ro tín
dụng vì khách hàng không thực hiện được việc trả lãi vay theo cam kết trong
hợp đồng tín dụng, chứng tỏ rằng khả năng về tài chính của khách hàng bị
giảm sút có nguy cơ dẫn đến rủi ro tín dụng.
- Mức giảm lãi treo : Số lãi treo phát sinh - Số lãi treo đã thu hồi được
19
1.2.2.6 Mức giảm tỷ lệ xóa nợ ròng so với tổng dư nợ:
Xóa nợ ròng = Dư nợ xóa trong bảng – số tiền đã thu hồi được
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ nợ xấu đã được xoá nợ, và cho biết mức
độ tổn thất tín dụng thực sự của ngân hàng.
Tỷ lệ xóa nợ
=
Các khoản xóa nợ ròng
Tổng dư nợ
x
100%
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng
thương mại
1.2.3.1. Các nhân tố thuộc về ngân hàng thương mại.
Có thể nói, nhân tố từ phía ngân hàng thương mại vẫn là nhân tố quan
trọng nhất, quyết định đến kết quả hạn chế rủi ro tín dụng. Việc hạn chế rủi ro
tín dụng đạt kết quả tốt khi kỹ năng về nhận biết rủi ro tín dụng thành thạo,
khi các phương pháp đánh giá rủi ro được chuẩn hoá, khi trình độ của đội ngũ
cán bộ được nâng cao, khi cơ cấu tổ chức hợp lý, khi chính sách tín dụng, quy
trình tín dụng khoa học rõ ràng. Ngược lại, những nhân tố trên không tốt sẽ
tạo nhiều lỗ hổng cho rủi ro nảy sinh và tất nhiên việc hạn chế rủi ro tín dụng
của ngân hàng cũng không có hiệu quả. Nhìn chung, có nhiều nhân tố thuộc
về ngân hàng ảnh hưởng đến hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng, Luận văn
chỉ xin đề cập đến những nhân tố cơ bản sau:
- Chính sách tín dụng :
Một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm cho danh mục tín dụng
của ngân hàng an toàn và hiệu quả đó là việc hình thành một chính sách tín
dụng hiệu quả. Chính sách tín dụng sẽ giúp cực tiểu hóa rủi ro tín dụng của
ngân hàng để theo đuổi mục tiêu lợi nhuận bằng cách định hướng việc ra
quyết định từ cho vay bán lẻ đến cho vay doanh nghiệp cũng như giới hạn
mức cho vay đối với một khách hàng, một nhóm khách hàng, định giá khoản
vay và kỳ hạn cho vay, tài sản đảm bảo, cho đến việc đa dạng danh mục đầu
20
tư tín dụng, sử dụng công cụ tín dụng phát sinh và chứng khoán hóa tài sản.
thông qua chính sách tín dụng, cán bộ tín dụng biết được họ phải làm gì và
làm như thế nào khi thực hiện một khoản vay, trách nhiệm của họ tới đâu,
đồng thời nhà quản lý có định hướng để đạt được một danh mục tín dụng đa
mục đích như tăng khả năng sinh lợi, kiểm soát rủi ro và đáp ứng các đòi hỏi
từ phía nhà quản lý.
- Sự tuân thủ trong việc thực thi chính sách tín dụng và quy trình quản
trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay:
Việc xây dựng quy trình cho vay chặt chẽ và thực hiện đúng quy trình
này sẽ hạn chế được điều bất lợi xảy ra và đảm bảo được độ an toàn được
đồng vốn. Trên thực tế, nhiều cán bộ tín dụng không chấp hành đầy đủ quy
trình nghiệp vụ cho vay như : Thực hiện không đúng các nguyên tắc, thể lệ
cho vay, thiếu khả năng hoặc sự phân tích các báo cáo tài chính chưa chính
xác, xác định kỳ hạn các khoản cho vay không thích hợp, thiếu sự giám sát
sau khi cho vay sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng.
Về phương diện quản trị rủi ro tín dụng, quy trình tín dụng trong cho
vay được bắt đầu từ khâu nhận dạng, đo lường rủi ro tín dụng, quyết định tín
dụng, giải ngân, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay đến khi thu hồi được nợ.
Trong quá trình thực hiện quy trình cho vay, công tác nhận dạng, đánh giá rủi
ro tín dụng là khâu quan trọng nhất quyết định đến việc tăng hay giảm rủi ro
tín dụng đối với mỗi khoản vay. Làm tốt khâu này sẽ tạo tiền đề cho việc thu
hồi vốn và lãi khi đến hạn thanh toán, tạo điều kiện cho vốn tín dụng luân
chuyển nhanh. Tuy nhiên, nhận dạng và đo lường rủi ro khó có thể đạt đến
mức dự đoán chính xác về một khoản vay hoàn trả đúng hạn hay không. Vì
thế, công tác kiểm soát rủi ro sẽ giúp ngân hàng khắc phục được những thiếu
sót này.
- Chất lượng và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ nhân viên ngân hàng:
- Xem thêm -