Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng tmcp quốc tế việt nam, chi nhánh...

Tài liệu Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng tmcp quốc tế việt nam, chi nhánh đăk lăk

.PDF
92
130
81

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại nói chung, ngân hàng thương mại Việt Nam nói riêng, hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động mang lại nguồn thu chủ yếu cho các ngân hàng. Tuy nhiên, đây cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro. Rủi ro tín dụng xảy ra sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hồi được vốn vay, làm ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng, làm giảm khả năng cung cấp vốn cho nền kinh tế và cuối cùng ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng. Do vậy, hạn chế rủi ro tín dụng luôn là vấn đề mà các ngân hàng thương mại quan tâm. Cũng như các ngân hàng thương mại Việt Nam, Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam – Chi nhánh Đăk Lăk lợi nhuận chủ yếu từ hoạt động tín dụng (chiếm khoảng 80% tổng thu nhập của ngân hàng). Hay nói khác, chính chức năng này có thể dẫn đến những rủi ro lớn nhất đối với một ngân hàng và toàn bộ gánh nặng rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Nguyên nhân là họat động quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa tiếp cận được các phương pháp quản lý ngân hàng hiện đại. Quá trình hội nhập quốc tế và cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ, rủi ro tín dụng có xu hướng tăng. Do đó, việc nghiên cứu giải pháp để chủ động hạn chế rủi ro tín dụng có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam - Chi nhánh Đăk Lăk . Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam - Chi nhánh Đăk Lăk” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu lý luận về hạn chế rủi ro tín dụng và phân tích, đánh giá thực trạng hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam - 2 Chi nhánh Đăk Lăk, từ đó đề xuất các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam - Chi nhánh Đăk Lăk. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam - Chi nhánh Đăk Lăk. Phạm vi nghiên cứu: - Nội dung: Đề tài chỉ tập trung vào nội dung hạn chế rủi ro tín dụng mà không nghiên cứu toàn bộ nội dung quản trị rủi ro tín dụng. - Thời gian: Các dữ liệu về rủi ro tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng chỉ giới hạn trong các năm 2009, 2010 và 2011. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, cùng với việc vận dụng các phương pháp luận nghiên cứu khoa học như: duy vật lịch sử, duy vật biện chứng… luận văn chú trọng sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: logic và lịch sử; quy nạp và diễn dịch; phân tích và tổng hợp; các phương pháp thống kê… Các số liệu và thông tin về công tác tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng được thu thập từ các báo cáo qua các năm của VIB Đăk Lăk như: Báo cáo tổng kết; Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; Báo cáo tài chính, và Báo cáo tổng kết của Ngân hàng Nhà nước - Chi nhánh Đăk Lăk cũng như các tư liệu nghiên cứu hiện có về quản trị rủi ro tín dụng đã được đăng tải trên các báo, tạp chí và trên Internet… Ngoài ra, các báo cáo khoa học, luận văn của những người đi trước cũng được sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo quý giá và đã được kế thừa một cách hợp lý trong luận văn. 3 Trên cơ sở các tài liệu đã được tổng hợp, vận dụng các phương pháp phân tích thống kê như số tương đối, số tuyệt đối, số bình quân gia quyền, lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn, tốc độ phát triển liên hoàn, tốc độ tăng (giảm) liên hoàn, phương pháp dãy số theo thời gian và phương pháp so sánh để phân tích thực trạng và chất lượng hoạt động tín dụng qua các năm nhằm đáp ứng được mục đích nghiên cứu của đề tài đã đặt ra. 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn chia thành 3 chương chính: Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG. Chương 2: THỰC TRẠNG HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP QUỐC TẾ VIỆT NAM - CHI NHÁNH ĐĂK LĂK. Chương 3: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP QUỐC TẾ VIỆT NAM - CHI NHÁNH ĐĂK LĂK. 4 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.1. Tín dụng ngân hàng 1.1.1.1. Khái niệm Tín dụng ngân hàng Tín dụng ngân hàng là hoạt động mà ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng dưới hình thức cho vay, bảo lãnh, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính và các hình thức khác. Bản chất của tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một khoảng thời gian nhất định với một khoản chi phí nhất định. Cũng như quan hệ tín dụng khác, tín dụng ngân hàng chứa đựng ba nội dung: - Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử dụng. - Sự chuyển nhượng này có thời hạn hay mang tính tạm thời. - Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí. Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12, định nghĩa hoạt động cấp tín dụng là “việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”. Để có cơ sở để tiếp cận một cách nhất quán các hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại, cần có định nghĩa rõ ràng và hợp chuẩn pháp lý cho các hình thức cấp tín dụng nói ở trên: 5 - Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. - Bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng hoặc bên mua hàng thông qua việc mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các khoản phải thu hoặc các khoản phải trả phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo hợp đồng mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ. - Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận. - Chiết khấu là việc mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán. - Tái chiết khấu là việc chiết khấu các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác đã được chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán. - Hoạt động cho thuê tài chính là việc cấp tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính và phải có một trong các điều kiện sau đây: + Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được nhận chuyển quyền sở hữu tài sản cho thuê hoặc tiếp tục thuê theo thỏa thuận của hai bên; + Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua tài sản cho thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản cho thuê tại thời điểm mua lại; 6 + Thời hạn cho thuê một tài sản phải ít nhất bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản cho thuê đó; + Tổng số tiền thuê một tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính ít nhất phải bằng giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng. 1.1.1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng a. Căn cứ vào thời hạn, tín dụng ngân hàng có các loại sau. - Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm, được sử dụng để cho vay bổ sung vốn lưu động tạm thời của các doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân. - Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng ở giữa hai kỳ hạn trên, loại tín dụng này được cung cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh. - Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm, được sử dụng để cấp vốn cho các doanh nghiệp, đáp ứng các nhu cầu như: xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng xí nghiệp mới, cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất. b. Căn cứ vào tính chất luân chuyển vốn, tín dụng ngân hàng có các loại sau. - Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được dùng để hình thành vốn lưu động, được sử dụng để bù đắp mức vốn thiếu hụt tạm thời cho các tổ chức kinh tế, được chia ra làm các loại sau: bổ sung vốn lưu động, dự trữ hàng hóa, thanh toán các khoản nợ… Thời hạn cho vay đối với loại tín dụng này là ngắn hạn. - Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được dùng để hình thành tài sản cố định, thường được đầu tư để mua tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới. Thời hạn cho vay đối với loại tín dụng này là trung hạn và dài hạn. 7 c. Căn cứ vào tính chất đảm bảo, tín dụng ngân hàng có các loại sau. - Tín dụng bằng tín chấp (hay tín dụng bảo đảm không bằng tài sản): là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín, khả năng trả nợ thực chất của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung. - Tín dụng có đảm bảo: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có sự bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thu thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. d. Căn cứ vào mối quan hệ giữa các chủ thể, tín dụng ngân hàng có các loại sau. - Tín dụng trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho khách hàng có nhu cầu và khách hàng trực tiếp trả nợ vay cho ngân hàng. - Tín dụng gián tiếp: Là khoản vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước, chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán, như chiết khấu thương phiếu, mua các phiếu bán hàng tiêu dùng… e. Căn cứ vào phương pháp cấp tiền vay, tín dụng ngân hàng có các loại sau. - Tín dụng từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và ngân hàng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. Tín dụng hạn mức: Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. f. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn, tín dụng ngân hàng có các loại sa 8 - Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại tín dụng dành cho các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hóa. - Tín dụng tiêu dùng: là hình thức tín dụng dành cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu như: mua nhà cửa, xe cộ, du học… thường do các ngân hàng, quỹ tiết kiệm, hợp tác xã tín dụng và các tổ chức tín dụng cung cấp. Ngoài ra, bán trả góp cũng được coi là hình thức tín dụng do các công ty, cửa hàng thực hiện. 1.1.2. Rủi ro tín dụng trong kinh doanh ngân hàng 1.1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng Có rất nhiều học giả nghiên cứu về rủi ro và đã đưa ra những khái niệm về rủi ro như: “Rủi ro là bất trắc gây ra mất mát, thiệt hại”; “Rủi ro là bất trắc cụ thể liên quan đến nhiều biến cố không mang đợi”. Tuy nhiên, hầu hết các quan điểm đều thống nhất quan điểm: “Rủi ro là khả năng xảy ra các biến cố không lường trước và thường gây ra hậu quả xấu”. Rủi ro luôn xuất hiện bất ngờ và đe dọa sự sống còn của doanh nghiệp. Thường thì những hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận càng cao thì ẩn chứa rủi ro càng lớn, mâu thuẫn này luôn luôn tồn tại. Vì vậy, muốn có lợi nhuận cao thì cần phải chấp nhận rủi ro. Vì thế, để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh gây gắt và biến động, các doanh nghiệp cần phải đương đầu với rủi ro bằng những dự đoán rủi ro có thể xảy ra để tìm những biện pháp hạn chế, phòng ngừa nhằm giảm thiểu thiệt hại do rủi ro gây ra. Là một đơn vị kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng thương mại phải thường xuyên đối mặt với nhiều loại rủi ro. Do đặc thù kinh doanh của mình nên ngân hàng thường hay đối mặt với những rủi ro như: rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro đạo đức, rủi ro lạm phát, rủi ro tỷ giá hối đoái. 9 Trong điều kiện hiện nay, cung cấp tín dụng vẫn là một hoạt động cơ bản nhất của ngân hàng và đồng thời, rủi ro tín dụng cũng là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và gây ra hậu quả nặng nề nhất đối với hoạt động của ngân hàng. Sở dĩ vậy là vì đối với hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng thường chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng. Hơn nữa, rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu vào danh mục tín dụng. Khi ngân hàng rơi vào tình trạng tài chính khó khăn nghiêm trọng thì nguyên nhân là thường phát sinh từ các hoạt động tín dụng của ngân hàng. Vì thế, rủi ro tín dụng cũng được rất nhiều tác giả nghiên cứu và đưa ra nhiều quan niệm về rủi ro tín dụng. - Rủi ro tín dụng được hiểu là những tổn thất do khách hàng không trả được nợ hoặc sự giảm sút chất lượng tín dụng của những khoản vay; - Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ gốc và lãi của khoản vay hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn; - Rủi ro tín dụng được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời gian đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. Đây là thuộc tính vốn có của hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng tức là việc chi trả bị trì hoãn, hoặc tồi tệ hơn là không hoàn trả dược toàn bộ. Điều này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ và gây ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân hàng. - Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”. Nếu coi tín dụng là việc “tin tưởng” mà đưa cho khách hàng sử dụng giá 10 trị hiện tại với mong muốn nhận được giá trị tương lai trong một thời gian nhất định thì rủi ro tín dụng chính là khả năng mà mong muốn đó không được đáp ứng hay nói một cách khác đó là khả năng xảy ra sự khác biệt không mong muốn giữa kết quả thực tế và kết quả kỳ vọng theo kế hoạch - đúng hạn nhận được đầy đủ gốc và lãi. Với mục tiêu là đúng hạn theo hợp đồng tín dụng, bên cho vay nhận được đầy đủ gốc và lãi như đã nêu ở trên, thì rủi ro tín dụng có thể được hiểu là những tổn thất tiềm năng có thể xảy ra do các bên đối tác trong hợp đồng tín dụng không có khả năng hoặc không có đủ năng lực thực hiện nghĩa vụ của họ một cách đầy đủ hoặc đúng hạn theo cam kết. Như vậy, rủi ro tín dụng là khả năng bên vay không trả, hoặc không trả đúng hạn hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi cho ngân hàng. Như trên đã phân tích, rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, đó là hoạt động tín dụng. Các khoản cho vay thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản của ngân hàng thương mại, mang lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng. Song hoạt động này cũng mang lại những tổn thất nặng nề, có khi dẫn đến phá sản ngân hàng. Trước khi cấp tín dụng, ngân hàng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra. Tuy nhiên không phải bao giờ ngân hàng cũng dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa nhiều cán bộ tín dụng ngân hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ. 11 1.1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng a. Theo phương diện quản lý thì rủi ro tín dụng được chia thành 2 loại: + Rủi ro tín dụng có thể kiểm soát được (hay còn gọi là rủi ro khả kháng) + Rủi ro tín dụng không thể kiểm soát được (hay còn gọi là rủi ro bất khả kháng) b. Theo tính chất của rủi ro tín dụng thì chia thành 2 loại: + Rủi ro sai hẹn + Rủi ro mất vốn c. Căn cứ vào biểu hiện của rủi ro tín dụng. - Không thu được lãi đúng hạn: Cấp độ thấp nhất khi người vay không trả được lãi đúng hạn, khi đó ngân hàng sẽ chuyển số lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh nhập ngoại bảng để theo dõi. Hình thức rủi ro này được xếp vào mức rủi ro thấp vì ngoại trừ trường hợp khách hàng muốn quỵt nợ, chiếm dụng vốn thì phần lớn đều xuất phát từ việc thiếu cân đối trong kỳ hạn thu nợ và trả nợ của khách hàng. - Không thu được vốn đúng hạn. Khi không thu được vốn đúng hạn thì rủi ro sẽ ở mức cao hơn, một phần do một lượng vốn vay lớn bị mất. Khi đó, ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang mục nợ từ nhóm 2 trở lên phát sinh. Khoản mục này phát sinh vào thời gian đáo hạn của hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, đấy chưa phải là khoản mất mát thực sự của ngân hàng vì có thể do tiến độ thực hiện hoạt động kinh doanh của khách hàng bị chậm so với kế hoạch đã đề ra khi vay ngân hàng, và khách hàng tạm thời chưa có đủ vốn trả nợ. - Không thu được đủ lãi. Trong tình trạng này tình hình kinh doanh của khách hàng có thể đã kém hiệu quả đến mức không thể trả đủ lãi cho ngân hàng. Khi đó, ngân hàng 12 phải chuyển khoản lãi này vào khoản mục lãi treo đóng băng và thậm chí có thể phải thực hiện miễn giảm lãi cho khách hàng. - Không thu đủ vốn cho vay: Tình huống xấu nhất xảy ra khi ngân hàng không thu đủ vốn cho vay và lúc này ngân hàng đã bị mất vốn. Tại thời điểm này, ngân hàng sẽ chuyển khoản nợ vào mục nợ không có khả năng thu hồi hoặc phải xoá nợ, coi như khép lại một hợp đồng tín dụng không có hiệu quả. Trên đây chủ yếu là bốn hình thức giúp cho ngân hàng thương mại phân biệt rủi ro tín dụng và có biện pháp xử lý. Tuy nhiên, không phải lúc nào gặp rủi ro tín dụng thì ngân hàng đều phải trải qua bốn trường hợp trên. Có trường hợp khách hàng đã trả lãi rất đầy đủ và đúng hạn nhưng cuối cùng lại không thể trả được nợ gốc cho ngân hàng. Vì vậy, khi nghiên cứu về rủi ro tín dụng, người ta thường chú trọng vào các trường hợp có nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng như là lãi treo phát sinh và đặc biệt là nợ quá xấu phát sinh. Còn ở các trường hợp khác có lãi treo đóng băng hay nợ không có khả năng thu hồi được coi là rủi ro thực sự nên thường được xem xét để giải quyết hậu quả và rút ra những bài học kinh nghiệm. d. Căn cứ vào đặc điểm nội tại của rủi ro tín dụng - Rủi ro giao dịch: Nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận chính là rủi ro lựa chọn , rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ. * Rủi ro lựa chọn : Là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để quyết định cho vay. 13 * Rủi ro bảo đảm : Phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo,chủ thể đảm bảo,cách thức đảm bảo và mức cho vay trên trị giá của tài sản đảm bảo. * Rủi ro nghiệp vụ : Là rủi ro liên quan đến công tác quản lí khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lí các khoản cho vay có vấn đề. - Rủi ro danh mục Là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lí danh mục cho vay của ngân hàng , được phân chia thành hai loại: rủi ro nội tại (Intrinsic risk) và rủi ro tập trung (Concentration risk). * Rủi ro nội tại: Xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có,mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế . Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn. * Rủi ro tập trung: Là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế, hoặc trong cùng một vùng địa lí nhất định, hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao. 1.1.2.3. Hậu quả của rủi ro tín dụng a. Đối với ngân hàng cấp tín dụng: Rủi ro tín dụng làm ảnh hưởng đến uy tín, thu nhập của ngân hàng, làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng và có nguy cơ dẫn đến phá sản ngân hàng. Rủi ro tín dụng là kết quả tất yếu của một hoạt động tín dụng không lành mạnh cả về số lượng và chất lượng. Rủi ro tín dụng xảy ra làm cho ngân hàng không thu được vốn và lãi theo đúng thời hạn để tiếp tục thực hiện hoạt động cấp tín dụng. Do vậy, rủi ro tín dụng sẽ làm giảm tốc độ quay vòng vốn 14 của ngân hàng, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, kết quả là uy tín và sức cạnh tranh của ngân hàng sẽ giảm theo. Nếu mức độ rủi ro trong tầm kiểm soát của ngân hàng thì ngân hàng có thể bù đắp bằng các quỹ dự phòng rủi ro hoặc vốn tự có, còn nếu rủi ro xảy ra ở mức độ nghiêm trọng thì sẽ làm mất khả năng thanh toán của ngân hàng và lòng tin của khách hàng với ngân hàng sẽ bị giảm sút nhanh chóng. Mặt khác, hoạt động tín dụng có liên quan mật thiết với nhiều hoạt động khác trong ngân hàng do đó khi rủi ro tín dụng xảy ra không chỉ làm giảm thu nhập của ngân hàng từ hoạt động tín dụng mà còn làm giảm thu nhập từ các hoạt động khác. Một khi thu nhập không thể bù đắp nổi chi phí thì sẽ dẫn đến nguy cơ phá sản ngân hàng. b. Đối với nền kinh tế: Rủi ro tín dụng không chỉ ảnh hưởng tới ngân hàng mà còn ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế. Bởi hoạt động của ngân hàng mang tính xã hội hoá cao nên khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hoặc bị phá sản ngay lập tức nó sẽ ảnh hưởng đến các ngân hàng khác trong nền kinh tế, gây nên các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Rủi ro tín dụng có thể gây ra hậu quả tiêu cực tới mọi đối tượng trong xã hội, làm giảm lòng tin của công chúng vào sự vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính, cũng như hiệu lực các chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ. Những hậu quả nặng nề có thể gây ra bởi rủi ro tín dụng cho thấy sự cần thiết phải quan tâm đến hoạt động xác định, đo lường, quản lý và kiểm soát rủi ro và do đó, hạn chế và quản lý rủi ro tín dụng không chỉ là nhiệm vụ của ngân hàng mà còn là nhiệm vụ của tất cả các chủ thể có liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. 15 1.2. HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.2.1. Nội dung hạn chế rủi ro tín dụng Hạn chế rủi ro tín dụng là toàn bộ các hoạt động của ngân hàng nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng thông qua việc sử dụng các công cụ và biện pháp thích hợp. Hạn chế rủi ro tín dụng bao gồm cả hai nội dung cơ bản: ngăn ngừa, giảm thiểu khả năng xuất hiện rủi ro tín dụng và giảm bớt mức độ tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra từ đó giảm các tác động tiêu cực của rủi ro tín dụng (giảm lợi nhuận; giảm khả năng thanh khoản; giảm giá trị tài sản; dẫn tới nguy cơ phá sản ngân hàng...) Các nghiên cứu về rủi ro tín dụng đã chỉ ra hai thành phần dẫn đến rủi ro tín dụng đối với một người vay cụ thể là: khả năng trả nợ của người vay và ý muốn trả nợ của người vay. Tiếp cận dưới góc độ thông tin bất đối xứng, rủi ro tín dụng phát sinh do tình trạng thiếu thông tin của ngân hàng về hai thành phần trên của người vay dẫn đến hai hậu quả: sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Thông tin trên thị trường thường bị nhiễu loạn bởi người đi vay, người không có khả năng trả được nợ là người tích cực vay và họ cố tạo ra hình ảnh đầy đủ để được vay. Kết quả họ là người đầu tiên được lựa chọn, sự lựa chọn này gọi là sự lựa chọn đối nghịch. Nếu chọn họ, ngân hàng sẽ đứng trước nguy cơ rủi ro không thu được nợ đồng thời bỏ mất cơ hội kiếm lợi nhuận từ những khách hàng đáng tin cậy không được lựa chọn. Ngoài ra, thông tin không cân xứng cũng dẫn đến rủi ro đạo đức (diễn ra sau khi thực hiện giao dịch tài chính). Nhiều người vay tiền có ý muốn thực hiện những hoạt động không đạo đức (xét trên quan điểm người cho vay), sau khi vay được tiền, họ đầu tư vào những dự án rủi ro cao, hoặc sử dụng vốn không đúng với cam kết, hoặc có ý định chiếm đoạt vốn ngân hàng. Họ có thể 16 có hành vi thiếu đạo đức ngay từ ban đầu hoặc xuất hiện trong quá trình sử dụng vốn vay (do yếu kém về quản lý, khả năng cạnh tranh và năng lực kinh doanh dẫn đến thất bại trong kinh doanh mà nảy sinh). Xem xét dưới góc độ này, bản chất của các hoạt động hạn chế rủi ro tín dụng là thực hiện các công cụ, biện pháp nhằm sản xuất thông tin có hiệu quả về khả năng trả nợ và ý muốn trả nợ của khách hàng vay qua đó hạn chế khả năng phát sinh rủi ro và những tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra đối với ngân hàng. Nội dung hạn chế rủi ro cũng dược xem xét dưới góc độ các biện pháp, công cụ mà ngân hàng thực hiện trước, trong và sau khi cấp tín dụng cho khách hàng, bao gồm: - Các biện pháp, công cụ nhằm hạn chế khả năng (hay xác suất) xảy ra rủi ro tín dụng : + Tiến hành thẩm định tín dụng để lấy các quyết định về tín dụng đối với một khoản vay cụ thể + Triển khai hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng + Các yêu cầu về bảo đảm + Sử dụng các điều khoản hạn chế trong hợp đồng tín dụng + Giám sát sau khi cho vay, bao gồm cả việc giám sát việc tuân thủ các điều khoản hạn chế của hợp đồng.... - Các biện pháp nhằm hạn chế tổn thất nếu xảy ra rủi ro tín dụng: Ngân hàng có thể thực hiện các biện pháp: Xử lý từ dự phòng rủi ro tín dụng; phát mãi tài sản bảo đảm; bán nợ; thu hồi nợ xấu, nợ từ nhóm 2 trở lên; tái cơ cấu các khoản nợ; chuyển giao rủi ro thông qua bảo hiểm; sử dụng các công cụ phát sinh 1.2.2. Chỉ tiêu đánh giá kết quả hạn chế rủi ro tín dụng 1.2.2.1. Mức giảm tỷ lệ các khoản nợ từ nhóm 2 trở lên: 17 Tỷ lệ các khoản nợ từ nhóm 2 trở lên là một chỉ tiêu rất quan trọng trong việc đánh giá rủi ro tín dụng của một ngân hàng thương mại. Đây là chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng cũng như mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Chỉ tiêu này càng lớn thì khả năng tổn thất rủi ro tín dụng của ngân hàng càng cao, việc quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng kém hiệu quả. Tỷ lệ các khoản nợ từ nhóm 2 trở lên: Tỷ lệ này càng cao thì mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng càng lớn. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước cho phép tỷ lệ các khoản nợ từ nhóm 2 trở lên không quá 5% có thể chấp nhận được. Tỷ lệ các khoản nợ từ nhóm 2 trở lên được xác định như sau: Tỷ lệ các khoản nợ từ nhóm 2 trở lên trong kỳ = Nợ từ nhóm 2 trở lên trong kỳ Tổng dư nợ trong kỳ x 100% - Mức độ giảm tỷ lệ các khoản nợ từ nhóm 2 trở lên : Tỷ lệ các khoản nợ từ nhóm 2 trở lên cuối kỳ - Tỷ lệ các khoản nợ từ nhóm 2 trở lên đầu kỳ . 1.2.2.2. Sự thay đổi trong cơ cấu nhóm nợ. Theo thông lệ nợ được phân thành các nhóm căn cứ vào mức độ rủi ro tín dụng. Phổ biến nợ được chia thành năm nhóm căn cứ vào hai tiêu chí: tiêu chí thời gian quá hạn và các tiêu chí định tính. Tại Việt Nam, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo QĐ 493/2005/QĐ – NHNN. Theo đó, nợ được phân loại vào 5 nhóm nợ: Nợ nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn), Nợ nhóm 2 (Nợ cần chú ý), Nợ nhóm 3 (dưới chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ), và nhóm 5 (có khả năng mất vốn). Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi trong cơ cấu nhóm nợ. Tỷ trọng của các nhóm nợ có rủi ro cao lớn hơn phản ảnh mức độ rủi ro gia tăng so với kỳ trước và ngược lại. 18 1.2.2.3. Mức giảm tỷ lệ nợ xấu: Nợ xấu theo QĐ 493/2005/QĐ - NHNN là nợ được phân loại vào nhóm 3 (dưới chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ), và nhóm 5 (có khả năng mất vốn). Đây là những khoản nợ rất khó có khả năng hoàn trả. Nó thể hiện khả năng mất vốn rất lớn. Tỷ lệ này càng cao càng mức độ nguy cơ tổn thất trong hoạt động tín dụng của ngân hàng càng lớn. Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu Tổng dư nợ x 100% 1.2.2.4. Mức giảm tỷ lệ trích lập dự phòng : Dự phòng rủi ro tín dụng bao gồm hai loại: dự phòng chung và dự phòng cụ thể. Việc trích lập dự phòng về cơ bản dựa trên việc phân loại các nhóm nợ theo mức rủi ro. Số trích lập dự phòng phản ảnh mức độ rủi ro tín dụng chung do tỷ lệ trích lập dự phòng dựa trên việc phân loại nợ theo mức độ rủi ro. Tỷ lệ trích lập dự phòng = Số đã trích lập dự phòng Tổng dư nợ x 100% Do đó, mức giảm tỷ lệ này phản ảnh khả năng kiểm soát rủi ro tín dụng tốt hơn của ngân hàng. Ngược lại, chỉ tiêu này tăng lên so với kỳ trước thể hiện mức độ rủi ro tín dụng tổng thể của ngân hàng là cao hơn trước. 1.2.2.5 Mức giảm lãi treo: Chỉ tiêu này phản ảnh những dấu hiệu có khả năng xảy ra rủi ro tín dụng vì khách hàng không thực hiện được việc trả lãi vay theo cam kết trong hợp đồng tín dụng, chứng tỏ rằng khả năng về tài chính của khách hàng bị giảm sút có nguy cơ dẫn đến rủi ro tín dụng. - Mức giảm lãi treo : Số lãi treo phát sinh - Số lãi treo đã thu hồi được 19 1.2.2.6 Mức giảm tỷ lệ xóa nợ ròng so với tổng dư nợ: Xóa nợ ròng = Dư nợ xóa trong bảng – số tiền đã thu hồi được Chỉ tiêu này phản ánh mức độ nợ xấu đã được xoá nợ, và cho biết mức độ tổn thất tín dụng thực sự của ngân hàng. Tỷ lệ xóa nợ = Các khoản xóa nợ ròng Tổng dư nợ x 100% 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại 1.2.3.1. Các nhân tố thuộc về ngân hàng thương mại. Có thể nói, nhân tố từ phía ngân hàng thương mại vẫn là nhân tố quan trọng nhất, quyết định đến kết quả hạn chế rủi ro tín dụng. Việc hạn chế rủi ro tín dụng đạt kết quả tốt khi kỹ năng về nhận biết rủi ro tín dụng thành thạo, khi các phương pháp đánh giá rủi ro được chuẩn hoá, khi trình độ của đội ngũ cán bộ được nâng cao, khi cơ cấu tổ chức hợp lý, khi chính sách tín dụng, quy trình tín dụng khoa học rõ ràng. Ngược lại, những nhân tố trên không tốt sẽ tạo nhiều lỗ hổng cho rủi ro nảy sinh và tất nhiên việc hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng cũng không có hiệu quả. Nhìn chung, có nhiều nhân tố thuộc về ngân hàng ảnh hưởng đến hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng, Luận văn chỉ xin đề cập đến những nhân tố cơ bản sau: - Chính sách tín dụng : Một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm cho danh mục tín dụng của ngân hàng an toàn và hiệu quả đó là việc hình thành một chính sách tín dụng hiệu quả. Chính sách tín dụng sẽ giúp cực tiểu hóa rủi ro tín dụng của ngân hàng để theo đuổi mục tiêu lợi nhuận bằng cách định hướng việc ra quyết định từ cho vay bán lẻ đến cho vay doanh nghiệp cũng như giới hạn mức cho vay đối với một khách hàng, một nhóm khách hàng, định giá khoản vay và kỳ hạn cho vay, tài sản đảm bảo, cho đến việc đa dạng danh mục đầu 20 tư tín dụng, sử dụng công cụ tín dụng phát sinh và chứng khoán hóa tài sản. thông qua chính sách tín dụng, cán bộ tín dụng biết được họ phải làm gì và làm như thế nào khi thực hiện một khoản vay, trách nhiệm của họ tới đâu, đồng thời nhà quản lý có định hướng để đạt được một danh mục tín dụng đa mục đích như tăng khả năng sinh lợi, kiểm soát rủi ro và đáp ứng các đòi hỏi từ phía nhà quản lý. - Sự tuân thủ trong việc thực thi chính sách tín dụng và quy trình quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay: Việc xây dựng quy trình cho vay chặt chẽ và thực hiện đúng quy trình này sẽ hạn chế được điều bất lợi xảy ra và đảm bảo được độ an toàn được đồng vốn. Trên thực tế, nhiều cán bộ tín dụng không chấp hành đầy đủ quy trình nghiệp vụ cho vay như : Thực hiện không đúng các nguyên tắc, thể lệ cho vay, thiếu khả năng hoặc sự phân tích các báo cáo tài chính chưa chính xác, xác định kỳ hạn các khoản cho vay không thích hợp, thiếu sự giám sát sau khi cho vay sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng. Về phương diện quản trị rủi ro tín dụng, quy trình tín dụng trong cho vay được bắt đầu từ khâu nhận dạng, đo lường rủi ro tín dụng, quyết định tín dụng, giải ngân, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay đến khi thu hồi được nợ. Trong quá trình thực hiện quy trình cho vay, công tác nhận dạng, đánh giá rủi ro tín dụng là khâu quan trọng nhất quyết định đến việc tăng hay giảm rủi ro tín dụng đối với mỗi khoản vay. Làm tốt khâu này sẽ tạo tiền đề cho việc thu hồi vốn và lãi khi đến hạn thanh toán, tạo điều kiện cho vốn tín dụng luân chuyển nhanh. Tuy nhiên, nhận dạng và đo lường rủi ro khó có thể đạt đến mức dự đoán chính xác về một khoản vay hoàn trả đúng hạn hay không. Vì thế, công tác kiểm soát rủi ro sẽ giúp ngân hàng khắc phục được những thiếu sót này. - Chất lượng và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ nhân viên ngân hàng:
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan