Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nông thôn mới ở thị xã bắc kạn tỉnh bắc kạn...

Tài liệu Giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nông thôn mới ở thị xã bắc kạn tỉnh bắc kạn

.PDF
164
27
142

Mô tả:

NGUYỄN TUẤN KHANH ®¹i häc th¸i nguyªn TRƯỜNG ĐH KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH -------------------- NGUYỄN TUẤN KHANH * LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở THỊ XÃ BẮC KẠN, TỈNH BẮC KẠN LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ * THÁI NGUYÊN - 2011 THÁI NGUYÊN - 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Ðảng nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi. Ðời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hóa. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy 1 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Ðời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Những hạn chế, yếu kém trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chính: nhận thức về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn bất cập so với thực tiễn; chưa hình thành một cách có hệ thống các quan điểm lý luận về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực này thiếu đồng bộ, thiếu tính đột phá; một số chủ trương, chính sách không hợp lý, thiếu tính khả thi nhưng chậm được điều chỉnh, bổ sung kịp thời; đầu tư từ ngân sách nhà nước và các thành phần kinh tế vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; tổ chức chỉ đạo thực hiện và công tác quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, yếu kém; vai trò của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng trong việc triển khai các chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở nhiều nơi còn hạn chế. Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được và những tồn tại, yếu kém cần khắc phục, nhằm xây dựng nông nghiệp, nông thôn theo đúng mục tiêu, định hướng của Đảng đã đề ra. Tại Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Để thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng, Chính phủ xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn (Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28 2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn tháng 10 năm 2008). Thực hiện Nghị quyết trên, ngày 16 tháng 4 năm 2009 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 491/QĐ-TTg về việc ban hàn bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới làm căn cứ để xây dựng mội dung chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04 tháng 06 năm 2010 của Thủ tưởng Chính phủ phê duyệt chương trình mực tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới 2010 – 2020. Bắc Kạn là một tỉnh miền núi thuộc vùng Đông bắc Bắc bộ được tái lập tỉnh từ năm 1997, đến nay tỉnh có 8 đơn vị hành chính gồm 7 huyện và 1 thị xã với tổng số 122 xã, phường, thị trấn. Dân số trên 295.000 người, với 7 dân tộc anh em gồm Tày, Nùng, Dao, Kinh, Mông, Hoa, Sán Chay, trong đó dân tộc thiểu số chiếm trên 80%. Diện tích đất tự nhiên là 486.842 ha, trong đó đất nông nghiệp là 371.767 ha chiếm 76,36%. Bắc Kạn là một tỉnh còn nghèo so với cả nước, Sản xuất Nông nghiệp và phát triển nông thôn của tỉnh trong những năm gần đây đã đạt được những thành tựu quan trọng, với tốc độ phát triển nông nghiệp nhanh và bền vững: Sản xuất lương thực có bước phát triển vượt bậc, đảm bảo an ninh lương thực trên địa bàn tỉnh; bước đầu đã hình thành một số vùng sản xuất chuyên canh tập trung để làm tiền đề cho phát triển công nghiệp chế biến. Nông thôn từng bước phát triển vượt bậc, cơ sở hạ tầng nông nghiệp có chuyển biến tích cực. Thực hiện định hướng của Đảng và Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn mới, tỉnh Bắc Kạn đang tiến hành xây dựng nông thôn mới trên toàn tỉnh. Để xây dựng nông thôn mới cần phải đánh giá thực trạng và đưa ra giải pháp mang tính khoa học, điều đó có ý nghĩa thực tế khách quan và có tính cấp thiết. Xuất phát từ thực tế khách quan trên, tôi chọn đề tài: "Giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nông thôn mới ở thị xã Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn", là yêu cầu đặt ra mang tính cấp thiết. 3 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu chung Nghiên cứu cơ sở khoa học và đánh giá thực trang tình hình nông thôn ở thị xã Bắc Kạn, từ đó đề xuất những giải pháp khoa học nhằm xây dựng nông thôn mới ở thị xã Bắc Kạn góp phần thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu mà tỉnh đề ra về xây dựng nông thôn mới đến năm 2020. 2.2. Mục tiêu cụ thể Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng nông thôn mới. Đánh giá thực trạng tình hình nông thôn so với hệ thống tiêu chí quốc gia về nông thôn mới ở thị xã Bắc Kạn. Phân tích những điểm mạnh, những khó khăn trở ngại và những tiềm năng trong xây dựng nông thôn mới ở thị xã Bắc Kạn. Đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nông thôn mới thành công, phù hợp với điều kiện thực tiễn của thị xã Bắc Kạn. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các giải pháp về xây dựng nông thôn mới ở các xã thuộc khu vực nông thôn ở thị xã Bắc Kạn. 3.2. Phạm vi nghiên cứu * Phạm vi không gian: Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn thị xã Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. * Phạm vi thời gian: Số liệu thứ cấp được thu thập từ các tài liệu đã công bố từ năm 2008 đến nay. Số liệu đánh giá thực trạng được điều tra trong năm 2010 và năm 2011. * Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung vào những giải pháp chủ yếu mang tính đột phá, có ý nghĩa thực tiễn nhằm xây dựng nông thôn mới ở thị xã Bắc Kạn. 4 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về xây dựng nông thôn mới và phương pháp nghiên cứu. Chương 2: Thực trạng nông thôn của thị xã Bắc Kạn và so sánh với các tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Chương 3: Giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nông thôn mới ở thị xã Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. 5 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI 1.1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1.1. Nông thôn và vai trò của nông thôn * Khái niệm về nông thôn: Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm nông thôn. Có quan điểm cho rằng nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Cũng có quan điểm cho rằng dựa vào trình độ phát triển cơ sở hạ tầng hoặc dựa vào chỉ tiêu trình độ tiếp cận thị trường để xác định vùng nông thôn. Theo Từ điển tiếng việt: Nông thôn là danh từ để chỉ khu vực dân cư tập trung chủ yếu làm nghề nông, phân biệt với thành thị. Cũng có từ điển khái niệm nông thôn Việt Nam là danh từ để chỉ những vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam, ở đó người dân sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Khái niệm về nông thôn trong văn bản chính thức của Bộ Nông nghiệp và PTNT tại thông tư Số: 54/2009/TT-BNNPTNT thì: Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã. Như vậy, Nông thôn là phần lãnh thổ sinh sống chủ yếu làm nghề nông của tập hợp dân cư, tập hợp dân cư này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa - xã hội và môi trường trong một thể chế chính trị nhất định và được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là uỷ ban nhân dân xã. 6 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn * Phát triển nông thôn Phát triển nông thôn là một quá trình tất yếu cải thiện một cách bền vững về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường, nhằm nâng cao chất lượng sống của dân cư nông thôn. Phát triển nông thôn là những thay đổi cần thiết ở vùng nông thôn. Tuy nhiên, những gì coi là cần thì lại khác nhau ở từng nước, từng vùng, từng địa phương; theo quan điểm thông thường, bản chất của phát triển là tăng trưởng và hiện đại hoá mang lại cho người nghèo chút lợi nho nhỏ. Phát triển nông thôn là một chiến lược đời sống kinh tế và xã hội của một nhóm người riêng biệt, người nghèo ở nông thôn. Nó đòi hỏi phải mở rộng các lợi ích của sự phát triển đến với những người nghèo nhất trong những người nghèo nhất trong những người đang tìm kế sinh nhai ở các vùng nông thôn. Nhóm này gồm những tiểu nông, tá điền và những người không có đất. Phát triển nông thôn bền vững là sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn với tốc độ cao, là quá trình làm tăng mức sống của người dân nông thôn. Phát triển nông thôn phù hợp với nhu cầu của con người, đảm bảo sự tồn tại bền vững và sự tiến bộ lâu dài trong nông thôn. Sự phát triển đó dựa trên việc sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên mà vẫn bảo đảm giữ gìn môi trường sinh thái nông thôn. Phát triển nông thôn đáp ứng nhu cầu xã hội hiện nay nhưng không làm cạn kiệt tài nguyên, không để lại hậu quả cho thế hệ tương lai. Như vậy, Phát triển nông thôn là một quá trình nhằm cải thiện và nâng cao đời sống của người dân nông thôn một cách bền vững về kinh tế xã hội, văn hoá và môi trường; quá trình này, trước hết là do nỗ lực từ chính người dân nông thôn và có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước và các tổ chức khác. * Vai trò của nông thôn và phát triển nông thôn Nông thôn là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm cho đời sống của người dân; cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu; cung cấp 7 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn hàng hóa cho xuất khẩu; cung cấp lao động cho công nghiệp và thành thị; thị trường rộng lớn để tiêu thụ những sản phẩm của công nghiệp và dịch vụ. Phát triển nông thôn sẽ góp phần tạo ra những tiền đề quan trọng không thể thiếu bảo đảm thắng lợi cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển nông thôn sẽ góp phần thực hiện có hiệu quả quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại chỗ. Các hoạt động ở nông thôn trở nên sôi động hơn. Cơ cấu kinh tế, phân công lao động chuyển dịch đúng hướng có hiệu quả. Vấn đề việc làm cho người lao động sẽ được gia tăng ngày càng nhiều trên địa bàn nông thôn. Trên cơ sở đó, tăng thu nhập, cải thiện từng bước đời sống vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; giảm sức ép của sự chênh lệch kinh tế và đời sống giữa thành thị và nông thôn, giữa vùng phát triển và vùng kém phát triển. Phát triển nông thôn sẽ góp phần to lớn trong việc bảo vệ và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái; Sẽ tạo cơ sở vật chất cho sự phát triển văn hóa ở nông thôn. Phát triển nông thôn sẽ góp phần quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nông thôn nói riêng và đất nước nói chung; Là cơ sở ổn định kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Phát triển nông thôn gắn liền với phát triển xã hội, văn hóa, chính trị và kiến trúc thượng tầng theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một nông thôn có kinh tế và văn hóa phát triển, đời sống ấm no, đầy đủ về vật chất, yên vui về tinh thần sẽ là một nhân tố quyết định củng cố vững chắc trận địa lòng dân, thắt chặt mối liên minh công - nông, bảo đảm cho nhân dân ta có đủ sức mạnh, đánh bại mọi âm mưu và thủ đoạn của mọi kẻ thù, dưới bất cứ hình thức nào. Đó cũng là cơ sở thắng lợi của việc giữ vững và bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền lợi ích quốc gia và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. 8 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1.1.1.2. Xây dựng nông thôn mới Xây dựng nông thôn mới là xây dựng, tổ chức cuộc sống của dân cư nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại, giữ gìn bản sắc văn hoá và môi trường sinh thái gắn với phát triển đô thị, thị trấn, thị tứ. Phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn phù hợp quy hoạch không gian xây dựng làng (ấp, thôn, bản), xã và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của ngành, địa phương; kết hợp giữa hỗ trợ của Nhà nước với phát huy nội lực của cộng đồng dân cư nông thôn. Nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và tổ chức tốt đời sống văn hoá cơ sở. Xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp với yêu cầu của nền nông nghiệp hiện đại, sản xuất hàng hoá gồm cả nông nghiệp và phi nông nghiệp, thực hiện "mỗi làng một nghề". Tóm lại: Xây dựng nông thôn mới là một chương trình tổng thể về phát triển kinh tế xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng tại khu vực nông thôn. * Sự ra đời của chƣơng trình xây dựng nông thôn mới. Hội nghị BCH Trung ương Ðảng lần thứ 7 khóa X đã thảo luận và thông qua Nghị quyết số 26-NQ/T.Ư "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn". Đánh giá kiểm điểm sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới về lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân và đưa ra quan điểm mục tiêu thực hiện trong những năm tiếp theo như sau: Thứ nhất: Về quan điểm Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công 9 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai, rừng và biển; khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế cho phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn; phát huy cao nội lực; đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; trước hết, phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông thôn ổn định, hòa thuận, dân chủ, có đời sống văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân. Thứ hai: Về mục tiêu Mục tiêu tổng quát Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hòa giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ 10 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn nông thôn mới. Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Ðảng được tăng cường. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu đến năm 2020 Tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thủy sản đạt 3,5 - 4%/năm; sử dụng đất nông nghiệp tiết kiệm và hiệu quả; duy trì diện tích đất lúa đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài. Phát triển nông nghiệp kết hợp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp trên 2,5 lần so với hiện nay. Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%. Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, trước hết là hệ thống thủy lợi đảm bảo tưới tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích đất lúa 2 vụ, mở rộng diện tích tưới cho rau màu, cây công nghiệp, cấp thóat nước chủ động cho diện tích nuôi trồng thủy sản, làm muối; đảm bảo giao thông thông suốt 4 mùa tới hầu hết các xã và cơ bản có đường ô-tô tới các thôn, bản; xây 11 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn dựng cảng cá, khu neo đậu tàu thuyền và hạ tầng nghề cá; cấp điện sinh hoạt cho hầu hết dân cư, các cơ sở công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; đảm bảo cơ bản điều kiện học tập, chữa bệnh, sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao ở hầu hết các vùng nông thôn tiến gần tới mức các đô thị trung bình. Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo; nâng cao trình độ giác ngộ và vị thế chính trị của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, hòan chỉnh hệ thống đê sông, đê biển và rừng phòng hộ ven biển, hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi, cụm dân cư đáp ứng yêu cầu phòng chống bão, lũ, ngăn mặn và chống nước biển dâng; tạo điều kiện sống an toàn cho nhân dân đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung và các vùng thường xuyên bị bão, lũ, thiên tai; chủ động triển khai một bước các biện pháp thích ứng và đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu. Ngăn chặn, xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường, từng bước nâng cao chất lượng môi trường nông thôn. * Sự cần thiết phải xây dựng nông thôn mới Nông thôn hiện nay phát triển thiếu quy hoạch, mang tính tự phát: Quy hoạch dân cư nông thôn đến nay mới có khoảng 23% trên tổng số xã có quy hoạch. Thiếu quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết sử dụng đất cho từng lĩnh vực như: sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ; quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế xã hội. Không có quy định, quy chế quản lý phát triển theo quy hoạch. Nông thôn xây dựng phát, kiến trức, cảnh quan làng quêa tạp, lôn xộn, môi trường ô nhiễm, nhiều nét đẹp văn hóa truyền thống bị hủy hoại hoặc mai một. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hôi còn lạc hậu, không đáp ứng yêu cầu phát triển lâu dài: Đường trục xã được cứng hóa đạt chuẩn chiếm 30%; Tỷ lệ thôn có nhà văn hóa đạt 80%, hệ thống điện nông thôn đạt chuẩn chiếm 72%. 12 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Quan hệ sản xuất chậm đổi mới, đời sống người dân còn ở mức thấp: Kinh tế hộ đóng vai trò chủ yếu nhưng ở quy mô nhỏ; kinh tế trang trại hình thức sản xuất hiệu quả nhất trong nông nghiệp hiện nay chiếm xấp xỉ 1% tổng số hộ; Trên 54% số hợp tác xã hoạt động ở mức trung bình và yếu; Doanh nghiệp trong nông nghiệp không đáng kể; liên kết tổ chức sản xuất hàng hóa yếu; đời sống người dân nông thôn còn ở mức thấp, tỷ lệp hộ nghèo còn cao, chênh lệch giàu nghèo cao ( 13,5 lần). Các vấn đề về văn hóa, xã hội, y tế, môi trường: Tỷ lệ thôn không có lớp mẫu giáo chiếm 45,5%, tỷ lệ thôn không có nhà trẻ chiếm 84%; tỷ lệ lao động qua đào tạo là 12,8%, chất lượng rất thấp, nhất là vùng sâu vùng xa; tệ nạn xã hội tăng, hủ tục lạc hậu còn dai dẳng; Hệ thống an sinh xã hội chưa phát triển; môi trường sống ô nhiễm... Hệ thống chính trị cơ sở còn yếu, nhất là trình độ và năng lực điều hành: Trong xấp xỉ 81 nghìn công chức xã có 0,1% công chức xã không biết chữ; 2,4% công chức xã đạt trình độ tiểu học; 22,5% công chức xã đạt trình độ trung học cơ sở; 75% công chức xã đạt trình độ trung học phổ thông. Trình độ chuyên môn có 9,1% công chức xã đạt trình độ đại học và cao đẳng, trung cấp chiểm 32,4%; sơ cấp chiểm 9,8%; chưa qua đào tạo chiếm 48,7%. 1.1.1.3. Bộ tiêu chí xây dựng nông thôn mới * Ý nghĩa của bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới: Cụ thể hóa đặc tính của xã Nông thôn mới trong thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước. Bộ tiêu chí là căn cứ để xây dựng nội dung Chương trình mực tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, là chuẩn mực để các xã lập kế hoạch phấn đấu đạt 19 tiêu chí nông thôn mới. Là căn cứ để chỉ đạo, đánh giá kết quả thực hiện xây dựng Nông thôn mới của các địa phương trong từng thời kỳ; Đánh giá công nhận xã, huyện, 13 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn tỉnh đạt NTM; Đánh giá trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền xã trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. * Nội dung của Bộ tiêu chí quốc gia xây dựng nông thôn mới. Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 về việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới. Theo bộ tiêu chí chỉ tiêu quốc gia bộ tiêu chí có 3 cấp độ: xã nông thôn mới, huyện nông thôn mới và tỉnh nông thôn mới, trong đó xã nông thôn mới có 19 tiêu chí cụ thể, còn đối với huyện nông thôn mới căn cứ vào tỷ lệ số xã thuộc huyện đạt nông thôn mới (75% số xã đạt 19 tiêu chí nông thôn mới) và tỉnh nông thôn mới căn cứ vào tỷ lệ số huyện thuộc tỉnh đạt nông thôn mới (80% số huyện đạt tiêu chí nông thôn mới). 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới bao gồm: Nhóm tiêu chí về quy hoạch có 01 tiêu chí: Tiêu chí Quy hoạch và thực hiện quy hoạch bao gồm: Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ; Quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội – môi trường theo chuẩn mới; Quy hoạch phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện có theo hướng văn minh, bảo tồn được bản sắc văn hóa tốt đẹp. Nhóm tiêu chí về hạ tầng Kinh tế - Xã hội có 08 tiêu chí: Tiêu chí Giao thông bao gồm: Tỷ lệ km đường trục xã, liên xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ GTVT; tỷ lệ km đường trục thôn, xóm được cứng hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ GTVT; tỷ lệ km đường ngõ, xóm sạch và không lầy lội vào mùa mưa; tỷ lệ km đường trục chính nội đồng được cứng hóa, xe cơ giới đi lại thuận tiện. Tiêu chí Thủy lợi bao gồm: Hệ thống thủy lợi cơ bản đáp ứng yêu cầu sản xuất và dân sinh; tỷ lệ km trên mương do xã quản lý được kiên cố hóa. 14 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Tiêu chí Điện bao gồm: Hệ thống điện đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của ngành điện; tỷ lệ hộ sử dụng điện thường xuyên, an toàn từ các nguồn. Tiêu chí Trường học bao gồm: Tỷ lệ trường học các cấp: mầm non, mẫu giáo, tiểu học, THCS có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia. Tiêu chí về cơ sở vật chất văn hóa bao gồm: Nhà văn hóa và khu thể thao xã đạt chuẩn của Bộ VH-TT-DL; tỷ lệ thôn có nhà văn hóa và khu thể thao thôn đạt quy định của Bộ VH-TT-DL. Tiêu chí Chợ nông thôn: Chợ đạt chuẩn của Bộ Xây dựng. Tiêu chí Bưu điện bao gồm: Có điểm phục vụ bưu chính viễn thông; có Internet đến thôn. Tiêu chí nhà ở dân cư bao gồm: Nhà tạm, dột nát; Tỷ lệ hộ có nhà ở đạt tiêu chuẩn Bộ Xây dựng. Nhóm tiêu chí về Kinh tế và tổ chức sản xuất có 04 tiêu chí: Tiêu chí thu nhập: Thu nhập bình quân đầu người/năm so với mức bình quân chung của tỉnh. Tiêu chí hộ nghèo: Tỷ lệ hộ nghèo. Tiêu chí cơ cấu lao động: Tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Tiêu chí hình thức tổ chức sản xuất: Có tổ hợp tác hoặc hợp tác xã hoạt động có hiệu quả. Nhóm tiêu chí về Văn hóa – Xã hội – Môi trƣờng có 04 tiêu chí: Tiêu chí về giáo dục bao gồm: Phổ cập giáo dục trung học; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học trung học (phổ thông, bổ túc, học nghề); Tỷ lệ lao động qua đào tạo. Tiêu chí về y tế bao gồm: Tỷ lệ người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế; Y tế xã đạt chuẩn quốc gia. Tiêu chí về văn hóa: Xã có từ 70% số thôn, bản trở lên đạt tiêu chuẩn làng văn hóa theo quy định của Bộ VH-TT-DL. 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Tiêu chí về môi trường bao gồm: Tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn Quốc gia; Các cơ sở SX-KD đạt tiêu chuẩn về môi trường; không có các hoạt động suy giảm môi trường và có các hoạt động phát triển môi trường xanh, sạch, đẹp; Nghĩa trang được xây dựng theo quy hoạch; Chất thải, nước thải được thu gom và xử lý theo quy định. Nhóm tiêu chí hệ thống chính trị gồm 02 tiêu chí: Tiêu chí hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh bao gồm: Cán bộ xã đạt chuẩn; Có đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở theo quy định; Đảng bộ, chính quyền xã đạt tiêu chuẩn “trong sạch, vững mạnh”; Các tổ chức đoàn thể chính trị của xã đều đạt danh hiệu tiên tiến trở lên. Tiêu chí an ninh, trật tự xã hội: An ninh, trật tự xã hội được giữ vững. (Chi tiết theo phụ lục số 01) 1.1.2. Kinh nghiệm phát triển nông thôn trên thế giới và xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam 1.1.2.1. Kinh nghiệm phát triển nông thôn ở một số nước trên thế giới * Trung Quốc Tháng 3/2006 Trung ương Đảng cộng sản và Quốc vụ viện (Chính phủ) Trung Quốc công bố Bản “tài liệu số 1” Trung Quốc quyết tâm giải quyết vấn đề nông thôn; chủ trương xây dựng “Nông thôn mới xã hội chủ nghĩa” là nhiệm vụ chính của kế hoạch 5 năm 2006 – 2010. Tài liệu này đề cập những chiến lược cơ bản trong đó chú trọng đến “Điều chỉnh mối quan hệ trong phân phối thu nhập, quy phạm, trật tự phân phối: thu nhập, tăng thu nhập cho tầng lớp người có mức sống trung bình và thấp. Kiên trì “Cho nhiều, lấy ít, nuôi sống” đặc biệt là áp dụng nhiều biện pháp trong việc “cho nhiều” đối với nông dân; đồng thời đưa ra các giải pháp nhiều mặt về xây dựng nông thôn, vấn đề xã hội và dân chủ, khác với tài liệu các năm trước nói đến các vấn đề riêng biệt như sản xuất lương thực, thu nhập nông dân và khả năng sản xuất 16 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn nông nghiệp. Việc phát triển kinh tế và xã hội của Trung Quốc đã vào một thời kỳ mới. Có 5 lý do để đặt vấn đề xây dựng nông thôn xã hội chủ nghĩa mới: Một là: Nông nghiệp chưa đạt mức có thể làm cơ sở cho việc phát triển kinh tế xã hội và nâng cao sinh kế của nhân dân. Hai là: Sản lượng lương thực đạt 484 triệu tấn năm 2005, chưa đủ thoả mãn yêu cầu, so với năm cao nhất thấp hơn 30 triệu tấn. Ba là: Thiếu đất trồng trọt và nước là cản trở cho việc phát triển nông nghiệp. Bốn là: Cần đầu tư nhiều hơn nữa vào nông nghiệp để tăng việc áp dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất. Năm là: Khoảng cách giữa đô thị và nông thôn đang tăng thêm. Thu nhập thuần đầu người của nông thôn Trung Quốc năm 2005 là 3.255 nguyên (402 USD), trong lúc của dân đô thị là 10.493 nguyên, cao hơn 322%, nếu lấy sự khác nhau về cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội như giáo dục, y tế, văn hóa thì còn cao hơn nhiều. Một nông thôn xã hội chủ nghĩa mới cần cho sự tăng nhu cầu trong nước. Thu nhập và sức mua thấp của nông dân làm cho nhu cầu của nông thôn không mở rộng, năm 2005 chỉ chiếm 32,9% của giá trị bán lẻ trong nước. Xây dựng nông thôn xã hội chủ nghĩa mới sẽ tạo ra một xã hội hài hòa, công bằng và có lợi cho toàn dân. Năm mục tiêu của nông thôn xã hội chủ nghĩa là: năng suất nông thôn, cơ sở hạ tầng, phát triển xã hội, dân chủ và mức sống. Đây không phải là xây dựng làng xã mới. Phải chú ý đến hiệu quả và hệ quả trước mắt hơn là vào bề ngoài. Phải sử dụng sự thương lượng dân chủ hơn là dùng chỉ thị. Nông thôn phải phát triển tùy theo khả năng và đặc điểm bản thân, Nhà nước chỉ hỗ trợ bằng dự án. Tài liệu này đưa ra 7 nhiệm vụ chính để tăng lợi nhuận cho nông dân, giảm gánh nặng cho họ và cụ thể hóa nhiệm vụ, chiến lược đề ra thành 32 17 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn biện pháp có lợi cho nông dân trong đó có phát triển nông nghiệp hiện đại, tăng thu nhập của nông dân và cải tiến cơ sở hạ tầng nông thôn. Sau đây là tóm tắt nội dung các biện pháp: Nhà nước đầu tư nhiều hơn vào nông nghiệp: Ngân sách cho phát triển nông thôn tăng lên. Xây dựng một cơ chế để công nghiệp và đô thị thúc đẩy phát triển nông thôn. Sự phân phối thu nhập quốc dân sẽ được điều chỉnh để cho việc tiêu thụ thuế, đầu tư ngân sách, tài sản cố định và tín dụng sẽ tăng cho nông nghiệp và nông thôn. Hỗ trợ từ vốn nhà nước sẽ lớn và tăng liên tục. Phần lớn trái phiếu, vốn ngân sách sẽ đi về phát triển nông thôn. Đặc biệt đầu tư để cải tiến sản xuất và điều kiện sống sẽ trở thành một luồng ổn định để tăng vốn cho xây dựng. Cơ sở hạ tầng: Thuế vào việc sử dụng đất canh tác sẽ tăng lên và nhiều thứ thuế mới sẽ được áp dụng trong phát triển nông thôn. Sẽ có các quy định để đảm bảo, điều tiết thu nhập thuế đất cho việc phát triển đất nông nghiệp. Phí thu từ sử dụng đất sẽ được dùng chủ yếu vào các dự án phát triển đất nông nghiệp nhỏ và bảo vệ nước. Chính phủ sẽ ưu tiên xây dựng các cơ sở hạ tầng cần cấp thiết cho đời sống nông dân. Chương trình nước sạch sẽ được thực hiện nhanh hơn, trước hết ở các vùng nước bị ô nhiễm. Năng lượng sạch sẽ được áp dụng rộng rãi. * Hàn Quốc Vào những năm 1960, nông thôn Hàn Quốc còn hết sức lạc hậu, đời sống nhân dân còn gặp vô vàn khó khăn. Trong cả nước có 34% dân thuộc vào nhóm nghèo đói và chỉ 20% có thể tiếp cận với điện. Dù đã đình chiến nhưng tình hình hai miền Bắc - Nam vẫn đang căng thẳng, không có đủ kinh phí để đầu tư phát triển nông thôn. Trước hoàn cảnh đó, bước vào những năm 1970, Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu thực hiện mô hình “Nông thôn mới” để thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp-nông thôn. 18 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Chính phủ Hàn Quốc thực hiện mô hình “Nông thôn mới” (Saemaul Undong- SMU) với mục tiêu công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông thôn. Mô hình này thực hiện 16 dự án mà mục tiêu chính là cải thiện môi trường sống cho người dân nông thôn: Mở rộng đường giao thông, hoàn thiện hệ thống nước thải sinh hoạt, Xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng, Trồng thêm cây xanh và xây dựng sân chơi cho trẻ em… Cải thiện môi trường sống cho người dân nông thôn được coi là nền tảng để bắt đầu cho quá trình phát triển nông thôn. Chính phủ đã liên tục điều chỉnh chính sách hỗ trợ phát triển để phù hợp với tình hình thực tiễn. Năm 1971 các dự án thực hiện hỗ trợ cho 33 nghìn làng với mỗi làng là 300 bao xi măng. Đất đai và công lao động do người dân trong chính các làng đó bỏ ra. Nhưng đến năm 1972, chiến lược đầu tư đựơc điều chỉnh. Chỉ còn một nửa trong sô 33 nghìn làng của năm 1971 tiếp tục đựơc hỗ trợ. Nhưng Nhà nước đã tăng cuờng đầu tư cho các làng này thêm một tấn thép và tăng lên 500 bao xi măng. Để đánh giá kết quả của những chính sách này, dự án thực hiện việc đánh giá và xếp loại các làng theo ba nhóm: Nhóm làng tích cực nhất, nhóm trung bình và nhóm cơ bản. Bằng việc trao thưởng cho mỗi làng 2000 $ nếu được thăng nhóm xếp hạng, chương trình đã tạo sư chuyển biến rõ rệt trong việc phân loại các nhóm làng trong vòng 3 năm sau đó. Nhóm 1973 1976 Nhóm làng tích cực 6,7% 4,7% Nhóm trung bình 40,2% 54,4% Nhóm cơ bản 53,1% 0,9 % Để thực hiện có hiệu quả quá trình hỗ trợ cho các làng, dự án Nông thôn mới chú trọng đến nhân tố con người. Trình độ văn hoá của người dân nông thôn rất thấp cho nên việc phổ biến chính sách gặp phải không ít khó 19 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan