Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Giá trị và hạn chế trong phép biện chứng duy tâm của hêghen...

Tài liệu Giá trị và hạn chế trong phép biện chứng duy tâm của hêghen

.DOC
29
459
112

Mô tả:

GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM CỦA HÊGHEN LỜI MỞ ĐẦU Nền triết học cổ điển Đức là nền triết học được tạo nên từ cuối thếkỷXVIII - đầu thếkỷ XIX là thành tựu rực rỡ của nền văn minh Tây Âu và thế giới. Đây là đỉnh cao của thời kỳ triết học Tây Âu, đồng thời có ảnh hưởng to lớn đến triết học hiện đại triết học cổ điển Đức. Vì vậy, nó trở thành một trong ba nguồn gốc hình thành chủ nghĩa Marx - nguồn gốc triết học (cùng với kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp). Nền triết học cổ điển Đức là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng, bản hợp xướng của triết học Tây Âu. Trong bản giao hưởng đầy tính bác học của triết học Tây Âu mà khúc dạo đầu lại rực rỡ âm sắc trang hoàng đó là tư tưởng biện chứng triết học cổ điển Đức, nó bước ra khỏi những nốt nhạc trời đầy màu sắc thần linh để khảy lên bằng chính đôi tay người phàm tục. Những đôi tay vàng ấy được phản ánh qua những triết gia dệt nên những trang bất hủ bởi thời gian. Đặc biệt là tư tưởng biện chứng của triết học cổ điển Đức thể hiện thông qua một số đại biểu tiêu biểu như: Canter, Hegel, Feurbach. Tuy đứng trên lập trường duy tâm nhưng các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng nên các hệ thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng, logic biện chứng, học thuyết về các quá trình phát triển mà tìm tòi lớn nhất trong tất cả các tìm tòi của họ đó là phép biện chứng. Với cách nhìn tổng quát về phương pháp biện chứng, các nhà triết học cổ điển Đức có ý đồ hệ thống hóa toàn bộ tri thức và thành tựu mà nhân loại đã đạt được.Trong sốcác nhà triết học vĩ đại nhất đó không thể không kể tới Georg Wilhelm Friedrich Hegel. Ông là nhà biện chứng lỗi lạc, phép biện chứng của ông là một tiền đề lý luận quan trọng của triết học Mácxit. Triết học của Hegel có ảnh hưởng rất mạnh đến tư tưởng của nước Đức và cả Châu Âu đương thời, triết học của ông được gọi là "tinh thần Phổ". Phép biện chứng của Hegel là phép biện chứng duy tâm, tức là phép biện chứng về sự vận động và phát triển của các khái niệm được ông đồng nhất với biện chứng sự vật. Không chỉ là đại biểu tiêu biểu của nền triết học cổ điển Đức mà Hegel đã đem lại cho triết học địa vị vốn có và sứ mệnh cao cả của nó trong đời sống tinh thần nhân loại. Với những luận cứ sâu sắc và có cơ sở khoa học, Hegel đã làm sáng tỏ đối tượng, chức năng và phương pháp của triết học, mối quan hệ của triết học với các khoa học khác và qua đó, trình bày một cách khúc chiết, đúng đắn bản chất của triết học. I. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC: 1. Điều kiện lịch sử: Triết học cổ điển Đức ra đời trong điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt. Nước Đức vào cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX vẫn còn là một quốc gia phong kiến điển hình với 360 tiểu vương quốc tự lập trong một liên bang Đức chỉ còn là hình thức,lạc hậu về kinh tế và chính trị. Thủ công nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp bị đình đốn. Lúc này vương triều PhổPhriđrich Vin Hem vẫn tăng cường quyền lực duy trì chế độquân chủ, cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủnghĩa. Cả đất nước bao trùm bầu không khí bất bình của đông đảo quần chúng. Trong khi đó ở nước Pháp đã tiến hành cuộc cách mạng tư sản. Ở nước Anh thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp làm rung chuyển châu Âu, đưa châu Âu bước vào nền văn minh công nghiệp. Tấm gương của các nước Tây Âu đã thức tỉnh tinh thần cách mạng của giai cấp tưsản Đức và những bộphận tiến bộkhác của xã hội Đức. Nhưng vì giai cấp tư sản Đức lúc này tỏ ra hèn kém, những lực lượng tiến bộ khác nằm rải rác ở những vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và chính trị nên không thể tiến hành cách mạng tư sản trong thực tiễn mà chỉ tiến hành cách mạng về phương diện tư tưởng. Người ta nói rằng tương lai của tư sản nước Đức vẫn còn rất xa vời. Họ muốn thỏa hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết những vấn đềphát triển đất nước. Nhưng với tinh thần cách mạng của mình, giai cấp tư sản Đức phải tìm cách nào đó đểthểhiện tinh thần đó và đã gửi gắm vào trong triết học cổ điển Đức. Đồng thời, trước đòi hỏi của quá trình phát triển phương thức sản xuất tư bản ở các nước Tây Âu, khoa học tự nhiên đã đạt nhiều thành tựu lớn: phát hiện ra điện, phát hiện ra ôxy và bản chất sự cháy của Lavoadie; việc phát hiện ra tế bào của Lơvenhuc; học thuyết về dưỡng khí của Pritski và Sielo... Những thành tựu đó chứng tỏsự hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản chất của các hiện tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra. Nó đòi hỏi cần có cách nhìn mới, phương pháp mới, quan niệm mới vềvai trò và khảnăng của con người. Triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đó. 2. Những đặc điểm cơ bản: - Triết học cổ điển Đức là tiếng nói của giai cấp tư sản Đức nhằm phê phán trật tự xã hội đương thời. Tuy nhiên, tinh thần phê phán đó là tinh thần mang tính ôn hòa. Người ta nói rằng: triết học cổ điển Đức là sự thể hiện cách mạng tư sản Pháp trên nước Đức. Triết học cổ điển Đức nhằm phê phán trật tự xã hội đương thời, vẫn còn dưới sự thống trị của vương triều Phổ. Tuy nhiên, nếu so sánh tinh thần phê phán của triết học cổ điển Đức vào nửa đầu thế kỷ XIX với tinh thần phê phán của triết học Tây Âu thế kỷXVII thì tinh thần phê phán đó mang tính ôn hòa hơn, nó không quyết liệt bằng tinh thần phê phán của triết học Tây Âu thếkỷXVII - XVIII vì nó được bao bọc bởi những vỏ sinh tâm thần bí trong triết học của Hegel hay Canter, Phicter… Điều này được cắt nghĩa bởi hai lý do: - Sự hèn kém của giai cấp tư sản Đức. - Tinh thần phê phán của triết học cổ điển Đức được gửi gắm vào các triết gia người Đức. Phần lớn các triết gia này là giáo sư ăn lương nhà nước, đảm nhận công việc khai mở trí tuệ cho thanh niên, vì vậy tinh thần phê phán đó không quyết liệt được. Đó là điều hiển nhiên. Ngay cả Hegel cũng là giáo sư dạy trong trường đại học hay là Feurbach… Feurbach trình bày quan điểm duy vật của mình đã bị nhà nước Phổ tước bằng giáo sư. Chính vì vậy triết học cổ điển Đức mang tính ôn hòa. - Triết học cổ điển Đức tiếp tục truyền thống đềcao lý trí trong triết học phương Tây nhưng đề cao lý trí trong điều kiện kinh tế, xã hội chưa thực sự phát triển đã dẫn đến sự ra đời của chủnghĩa duy tâm. Truyền thống này bắt nguồn từ Hy Lạp cổ đại, được khẳng định qua các thời đại lịch sử. Người ta đặc biệt đề cao lý trí vào thế kỷXVII - XVIII trong triết học của Bacon hay Descartes… Đến đầu thế kỷ XIX, trong triết học cổ điển Đức, Hegel đã dệt nên cả một huyền thoại về lý trí, thậm chí Hegel biến lý trí thành bản thể sáng tạo ra giới tự nhiên và toàn thể nhân loại. Đề cao trí tuệ là chưa từng có trong lịch sử. Nhưng cái gì cũng mang tính hai mặt. Đề cao lý trí thể hiện sự đề cao con người, nhưng đề cao lý trí trong điều kiện kinh tế chưa phát triển thì sự ra đời, phát triển của chủ nghĩa duy tâm là điều tất nhiên. Lúc này nước Đức bao trùm bởi chủ nghĩa duy tâm. Duy tâm điển hình là khách quan của Hegel nhưng chủ quan của Canter. Nước Đức lúc này nền kinh tế dường như phát triển nhất các nước Châu Âu. Đề cao trí tuệ nhưng đi quá giới hạn rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Đây cũng là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm có hai nguồn gốc: - Đề cao trí tuệ nhưng quá giới hạn rơi vào chủ nghĩa duy tâm. - Đềcao lao động trí óc đi quá giới hạn rơi vào chủnghĩa duy tâm. Ở nước Đức là trường hợp thứ nhất. Đề cao trí tuệ là điều không thể phủ nhận, đây cũng là một trong những cống hiến của triết học cổ điển Đức. Đề cao trí tuệ như nước Đức là chưa từng có - Triết học cổ điển Đức có những đóng góp to lớn với sựphát triển văn hóa và khoa học của nhân loại, đóng góp lớn nhất là đóng góp về phép biện chứng gắn liền với tên tuổi của Hegel, đóng góp thứ hai là đóng góp về thếgiới quan duy vật (chủnghĩa duy vật) gắn liền với tên tuổi của L.L.Feurbach (1804 - 1872). Đặc điểm này là đặc điểm quan trọng nhất, nổi bật nhất và đáng lưu ý nhất của triết học cổ điển Đức. Thật ra sựra đời của triết học cổ điển Đức nói đến tính độc lập tương đối của nước xã hội. Sự phát triển và hưng thịnh của văn hóa, của khoa học không phải lúc nào cũng gắn liền với sự phát triển và suy tàn của kinh tế. Nước Pháp vào nửa đầu thế kỷXVIII có nền kinh tế lạc hậu rất nhiều so với nước Anh, nhưng vềlý luận chính trị ở đỉnh cao của nó. Còn nước Đức vào nửa đầu thế kỷ XIX có nền kinh tế rất lạc hậu hơn nhiều so với Anh và Pháp nhưng lý luận phát triển ở đỉnh cao. Phép biện chứng của Hegel là tuyệt vời. Những quy luật phủ định của phủ định, lượng chất hay quy luật mâu thuẫn, người khái quát nên đầu tiên chính là Hegel. Không có phép biện chứng của Hegel thì không có phép biện chứng của Marx và Engels vào giữa thế kỷXIX. Đây là cống hiến rất to lớn của triết học cổ điển Đức, văn hóa, khoa học của nhân loại và đồng thời cho sự ra đời của triết học Marx vào giữa thếkỷXIX. - Triết học cổ điển Đức với tưcách là sự kết thúc một cách hiểu cũ, cho rằng triết học là khoa học của mọi khoa học mà Hegel là toan tính cuối cùng. Tuy nhiên, cách hiểu này lại gợi mởcho Marx và Engels một cách hiểu mới vềvai trò của triết học với các khoa học cụthểmà sau này Marx và Engels thực hiện trong hệ thống triết học của mình. Một lần nữa, quan điểm triết học là khoa học của mọi khoa học được bắt đầu từ Hy Lạp cổ đại, được khẳng định qua các thời đại lịch sử. Cho đến tận thếkỷ XVII - XVIII, Bacon hiểu triết học theo nghĩa rộng, Descartes hiểu là cái cây triết học và đến Hegel là toan tính cuối cùng. Các nhà triết học cổ điển Đức, điển hình là Hegel muốn xây dựng một triết học mang tính vạn năng, là nềntảng cho tất cảcác ngành khoa học, quan điểm triết học là khoa học của mọi khoa học. Quan điểm này tất nhiên không còn đúng vì đến nửa đầu thếkỷXIX, khoa học phát triển mạnh như vậy mà vẫn quan niệm như thế là hoàn toàn sai lầm. Vật lý, hóa học, toán học đã tách rời khỏi triết học. Như vậy triết học của Hegel là toan tính cuối cùng. Đây là cống hiến to lớn của Marx và Engels nhưng lại bắt đầu từ nền tảng sai lầm của Hegel. Một lần nữa khẳng định rằng, chính triết học cổ điển Đức là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Marx. II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM CỦA HEGEL - NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ: G.Ph.Hegel (1770 - 1831) xuất thân trong gia đình công chức, đã từng tốt nghiệp đại học tổng hợp. Bản thân ông từng là giáo sư dạy trung học, sau đó là giáo sư giảng dạy trong trường đại học. Theo đánh giá các nhà kinh điển của chủnghĩa Marx: Hegel không chỉ là một thiên tài sáng tạo mà còn là nhà triết học có tri thức bách khoa nên tất cả mọi lĩnh vực, Hegel đều là người của mọi thời đại. Triết học của Hegel là tinh hoacủa triết học cổ điển Đức và là nguồn gốc lý luận trực tiếp của cổ điển Marx. Hegel đã để lại cho đời sau rất nhiều tác phẩm nổi tiếng. Hệ thống của Hegel rất khó đọc. Thời kỳ nước Đức lên cơn sốt Hegel chứng tỏ trình độ tư duy của người Đức rất cao. Lúc bấy giờ nước Đức hình thành hai phái: một Hegel già và Hegel trẻ, đều ảnh hưởng trực tiếp của Hegel. Hegel từng tuyên bố: triết học của Hegel là cuối cùng trong lịch sử, về sau này sẽ không tìm được bộ óc nào vĩ đại hơn Hegel. Sự tuyên bố đó tất nhiên là không đúng nhưng có cơ sở của nó. Tư tưởng của Hegel bao bọc bởi duy tâm huyền bí. 1. Phép biện chứng duy tâm khách quan về ý niệm tuyệt đối: Đây là điểm khởi đầu và là nền tảng của triết học Hegel. Nó là thực thể tinh thần sáng tạo ra giới tự nhiên và toàn thể nhân loại. Theo Hegel, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới, kể cả những sản phẩm hoạt động của con người chỉ là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối là thực thểtinh thần, giống thượng đế sáng tạo ra giới tự nhiên và toàn thể nhân loại. Theo Hegel, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều được sinh ra bởi một thực thể tinh thần, ý thức, tinh thần có trước vật chất nhưng đó không phải là ý thức, tinh thần của từng cá nhân, con người cụ thể mà là một thực thể tinh thần bên ngoài con người và ông đặt tên là ý niệm tuyệt đối. Điều đó chứng tỏ triết học của Hegel là duy tâm khách quan. Ông coi ý niệm tuyệt đối là cái có trước.Trong quá trình vận động, phát triển, ý niệm tuyệt đối tha hóa thành giới tự nhiên và xã hội, cuối cùng lại trởvềvới chính mình trong tinh thần tuyệt đối. Sai lầm của phép biện chứng duy tâm khách quan của Hegel là ở chỗ ông cho rằng biện chứng của ý niệm sản sinh ra biện chứng của sự vật. Đó là phép biện chứng duy tâm khách quan, thiếu triệt để, thiếu khoa học. Cho dù là nhà triết học duy tâm nhưng Hegel đặc biệt đề cao con người, không hạ thấp con người xuống, đó là điểm sáng của triết học Hegel. Hegel cho rằng: ý niệm tuyệt đối sinh ra vạn vật, con người là giai đoạn phát triển cao nhất của ý niệm tuyệt đối, giống nhưbảo rằng: “Thượng đế sinh ra vạn vật, con người là giai đoạn phát triển cao nhất của thượng đế”, vậy ông đề cao con người. Chính Hegel khẳng định hoạt động của con người và nhận thức của con người là chìa khóa đểý niệm tuyệt đối nhận thức bản thân mình trở về với chính bản thân mình. Điều này cho thấy rằng với những nhà triết học duy tâm trước đây thường hạ thấp con người xuống, đề cao thực thể tinh thần nhưng duy tâm Hegel đặc biệt đề cao con người. Đó là điểm đặc sắc trong triết học của Hegel, từ đó đề cao trí tuệ con người. Hegel cho rằng: ban đầu trong vũ trụ bao la không có cái gì cả, chỉcó một thực thể duy nhất, ông gọi là ý niệm tuyệt đối, là một thực thểtinh thần với bản tính ham hiểu biết. Muốn thỏa mãn bản tính ham hiểu biết này cần phải tha hóa thành khác mình nhưng cũng chính là mình. Ví dụ: giả sử ch ỉcó một mình mình thôi mà mình ham hiểu biết thì muốn thỏa mãn bản tính này tha hóa thành khác mình nhưng cũng chính là mình. Vậy sự tồn tại của thế giới vật chất xung quanh ta là nhằm thỏa mãn bản tính ham hiểu biết của con người mà thôi. Hegel đặc biệt đề cao trí tuệ con người. Ông khẳng định: giới tự nhiên này nằm trong quá trình phát triển vô cơ, hữu cơ cho đến con người, và khi con người phản ánh đầy đủ về giới tự nhiên, tức là con người quay trở lại điểm khởi đầu là ý niệm tuyệt đối. Vì vậy, trong triết học của Hegel, điểm khởi đầu là ý niệm tuyệt đối, điểm kết thúc cũng là ý niệm tuyệt đối mà tồn tại ý thức của mỗi cá nhân, con người chúng ta. Thông qua tưtưởng này, Hegel đặc biệt đềcao con người, trí tuệcon người, chứng tỏ Hegel là nhà triết học duy tâm khách quan. Thật ra khái niệm tha hóa không phải lần đầu tiên Marx đưa ra mà là Hegel. Tha hóa là mình trở thành khác mình, đối lập với mình. 2. Phép biện chứng duy tâm về triết học: - Theo Hegel, đối tượng nghiên cứu của triết học là ý niệm tuyệt đối, lịch sử nhân loại là giai đoạn phát triển cao nhất. Đây là quan điểm duy tâm. Triết học nghiên cứu lịch sử nhân loại, mà lịch sửnhân loại là giai đoạn cao nhất của ý niệm tuyệt đối. Thật ra, triết học là ngành khoa học nghiên cứu ý niệm tuyệt đối. - Hegel là người có công khôi phục lại quan điểm triết học là khoa học của mọi khoa học. Hegel muốn xây dựng triết học mang tính vạn năng, đóng vai trò nền tảng cho tất cảcác ngành khoa học, nghĩa là toàn bộ khoa học cụ thể phải nằm trong triết học. Quan điểm này là quan điểm sai lầm và sau này đã gợi mởi cho Marx và Engels một cách hiểu mới về vai trò của triết học với khoa học cụ thể. Trong tư tưởng của Hegel có một điểm đáng lưu ý là triết học là khoa học của tất cả mọi khoa học. Quan niệm này ra đời trong thời buổi trình độ nhận thức con người chưa cao nên triết học là một lý luận mang tính phổ quát, bao trùm và thậm chí là duy nhất. Nó có tham vọng giải thích tất cả lĩnh vực khoa học cụ thể mà trong thời kỳ đó còn mang tính chất tảng mạn và sơ khai. Thời kỳ đó, khoa học chưa phân ngành, người ta không thể tìm thấy tri thức về khoa học tự nhiên trong khoa học cụ thể như ngày hôm nay mà chỉ có thể tìm thấy những tư tưởng khoa học tự nhiên trong hệ thống triết học tự nhiên của các nhà triết học. Từ đó nảy sinh quan điểm cho rằng triết học là khoa học của tất cả mọi khoa học, còn các nhà triết học là các nhà thông thái, không chỉ am hiểu một lĩnh vực mà am hiểu mọi lĩnh vực khác nhau của nhận thức. Quan điểm này bắt đầu từHy Lạp cổ đại, được khẳng định qua các thời đại lịch sử và đến Hegel là toan tính cuối cùng. Đến tận nửa đầu thếkỷXIX, Hegel vẫn cho rằng triết học vẫn là môn học mang tính phổquát và bao trùm. Quan điểm đó là quan điểm sai lầm, gợi mở cho Marx cách hiểu mới vềtriết học và lien minh của triết học khoa học tựnhiên. Đến giữa thếkỷXIX, Marx và Engels mới xóa bỏquan điểm này, chỉ ra rằng triết học là ngành khoa học độc lập, có đối tượng nghiên cứu riêng của mình. Chính từ đó, người ta đã biến triết học thành đặc quyền của một số nhà thông thái, tách lý luận ra khỏi thực tiễn và biến lý luận thành nhận thức để nhận thức, tư duy để tư duy, tức là nhận thức tự thân. - Triết học là tinh hoa của thời đại thể hiện ở dạng tinh thần. Lịch sử triết học đã khái quát lại toàn bộ lịch sử tư tưởng nhân loại. Hệ thống triết học cuối cùng trong lịch sử là kết quả của các hệ thống triết học trước đó. Trong quan điểm này phảng phất sự ngạo mạn của Hegel. Theo Hegel, triết học là sự thể hiện thời đại mình ở dạng tinh thần và là tinh hoa của thời đại. Ông đặc biệt đề cao vai trò của triết học theo nghĩa rộng. Ông nói các trường phái triết học tưởng là khác nhau nhưng thật ra là một vì tất cảchúng đều là triết học và mang tính kế thừa. Từ đó khẳng định hệ thống triết học cuối cùng trong lịch sử là kết quả của toàn bộ hệ thống triết học trước đó, đồng thời tuyên bố triết học của Hegel là cuối cùng trong lịch sử. Chính quan điểm này mâu thuẫn với phép biện chứng của Hegel. Vì nếu là biện chứng thì không thểcuối cùng được, không tìm ra nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng. Hegel tuyên bố: “Bộ óc của Hegel là vĩ đại nhất trong lịch sử và nhân loại không thể nào tìm bộ óc nào vĩ đại hơn Hegel được, đồng thời triết học của ông là cuối cùng trong lịch sử”. Nhưng Hegel đâu biết rằng sau đó chính triết học của Marx và Engels đã phủ định triết học của Hegel. Đó cũng là lẽ đương nhiên vì theo tinh thần biện chứng mà Hegel đã chỉ ra. 3. Phép biện chứng duy tâm trong khoa học logic: Để xây dựng logic học mới với tính cách là logic biện chứng, Hegel đã nghiên cứu toàn bộquá trình phát triển của logic hình thức cổ điển trước đây. Tuy không phủ nhận ý nghĩa và vai trò của logic hình thức trong lịch sử nhận thức nhưng Hegel đã chỉ ra những hạn chế của nó. Hegel phê phán logic học cũ ởcác khía cạnh: - Đối tượng nghiên cứu. - Tính bất động của các phạm trù quy luật của nó. Logic học là bộ môn khoa học nghiên cứu về tư duy. Trong thời kỳ cổ đại đã có hình thức logic học của Aristote, đến thời cận đại phát triển thành logic toán gắn liền với tên tuổi của Leibniz. Hegel phê phán logic cũ vì logic học nghiên cứu vềtư duy, còn logic trước đây là logic học hình thức nghiên cứu về tư duy hình thức chủ quan, nghĩa là tư duy trong trạng thái bất biến, cô lập, không sinh thành, không biến đổi và không phát triển. Vì vậy logic học trước đây chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được với sự phát triển của triết học và khoa học. Trên cơ sở đó, Hegel đã sáng tạo ra một hệ thống logic học mới - logic biện chứng nhằm đem lại cho con người một cách hiểu mới về bản chất của tư duy và trang bị cho các ngành khoa học một phương pháp nhận thức mới, đó chính là phương pháp biện chứng. Phép biện chứng của Hegel là một trong những thành tựu quý giá nhất của triết học cổ điển Đức nói riêng và lịch sử triết học trước Marx nói chung. Tuy nhiên, Hegel đã sang tạo logic biện chứng trên lập trường duy tâm, ông đã xuất phát từcơsở đồng nhất giữa tưduy và tồn tại khi coi những quy luật của tựnhiên, của lịch sử cũng là những quy luật của tư duy. Phương pháp tư duy là phương thức, cách thức nhìn nhận của đối tượng để hình thành nên hiểu biết về chúng trong đầu óc con người. Phương pháp tư duy hình thức là phương pháp tư duy nhận thức của sựvật trong trạng thái bất biến, trạng thái tĩnh và cô lập. Còn phương pháp tư duy biện chứng là phương pháp tư duy khảo sát đối tượng trong sinh thành, biến đổi và phát triển. Chính Hegel là người đã khai sinh ra phương pháp tưduy biện chứng này, trở thành phương pháp khoa học, làm công cụ khoa học khám phá ra chân lý. Theo Hegel, tư duy ở đây hoàn toàn không được xem xét như là sản phẩm đặc biệt của bộ óc con người như là nét đặc thù của con người. Hegel đồng nhất tư duy với hoạt động của ý niệm tuyệt đối với tư cách là cơ sở của mọi sự vật, hiện tượng của thế giới. Hơn nữa tư duy đồng thời vừa là khách thể, vừa là chủ thể, nó vừa là những gì đang tư duy, vừa là những gì được tư duy. Tuy nhiên, Hegel cũng thừa nhận cảm giác, trực giác, biểu tượng, mong muốn là những hình thức của ý thức con người. Nhưng tất cảchúng đối với ông chỉ là những thể hiện không đầy đủ, là những nét hoa văn bên ngoài của tư duy, tư tưởng. Vì vậy, vật chất theo ông cũng thuộc về tư duy, tư tưởng mà thôi. Hegel cho rằng, đối tượng đúng đắn của tư tưởng chính là bản thân tư tưởng vì tư tưởng là chân lý của mọi sự vật, cho nên sự phát triển cũng cần phải được tiến hành theo những quy luật của tư tưởng, theo những quy luật của logic học. Chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hegel vì vậy còn được xác định như là chủ nghĩa duy tâm logic. Ý niệm tuyệt đối là tư duy về tư duy, đồng thời cũng có nghĩa là tự nhận thức, là sự mở rộng những xác định logic vốn có đối với nó. Hegel cho rằng bản thân tư duy của loài người luôn sinh thành, biến đổi, phát triển, logic lại khảo sát tư duy ở trạng thái bất biến và cô lập. Đây là quan niệm sai lầm của ông. Từ đó ông cho rằng những phạm trù, quy luật của logic học trước đây mang tính bất biến, không thay đổi cũng là sai lầm thứ hai. Nếu logic cũ khảo sát tư duy ở trạng thái bất biến và cô lập thì logic biện chứng của Hegel nghiên cứu về tư duy trong trạng thái sinh thành, biến đổi và phát triển. Do đó, những phạm trù, quy luật logic của Hegel đưa ra cũng nằm trong sựsinh thành, biến đổi và phát triển. Hegel đã mang lại cho con người một cách hiểu mới vềbản chất của tưduy. Trước Hegel, người ta chỉ hiểu tư duy ở trạng thái bất biến, cô lập, một tư tưởng hoặc đúng, hoặc sai, không có khả năng thứ ba. Ví dụ nói: đồng dẫn điện thì tư tưởng này hoặc đúng hoặc sai, nghĩa là tư duy bất biến, không thay đổi. Nhưng Hegel chỉ ra rằng ngay cả tư duy của con người cũng nằm trong sự sinh thành, biến đổi và phát triển. Những phạm trù là những xác định logic này, hơn nữa chúng còn thể hiện sự phát triển của ý niệm tuyệt đối. Theo Hegel, những phạm trù không phải là sự phản ánh thế giới hiện thực khách quan mà là những khái niệm thuần túy. Những nguyên lý, phạm trù của logic học trước đây là bất biến, cô lập và không thay đổi. Hegel lại cho rằng những phạm trù của tư duy phải mang tính sống động, nó cũng nằm trong trạng thái sinh thành, biến đổi và phát triển. Như vậy, phép biện chứng là linh hồn của logic học, nhờ đó logic học trở thành cơ thể sống sống động, không phải bất động như logic học trước đây. Điều này chứng tỏrằng Hegel là người đầu tiên đã trang bịcho khoa học một phương pháp nhận thức mới, đó chính là phương pháp biện chứng. Theo Hegel, những phạm trù logic không phải là cái gì khác hơn là những trừu tượng được tách ra từbản thân hiện thực, cho nên chúng có nội dung sinh động, phong phú, từ đó tạo nên nội dung sâu sắc của khoa học logic. Tuy nhiên, dưới góc độduy tâm, Hegel đã đánh giá những phạm trù cao hơn thếgiới khách quan khi ông coi chúng là những tấm vải mộc, còn mọi hiện tượng, quá trình của thếgiới chỉlà những hoa văn được trang trí trên những tấm vải này. Hegel đồng nhất khoa học logic với logic học duy tâm. Logic học này sửdụng những kết quảphát triển của những khoa học tựnhiên. Theo Hegel, những khoa học này có nhiệm vụchuẩn bịtài liệu cho logic học nhằm phát hiện những quy luật, những khái niệm chung. Logic học duy tâm của Hegel đã coi những khoa học này dưới những hình thức khác nhau và đặt đấu ấn vào chúng. Nó chỉra rằng những quy luật và những khái niệm của các khoa học tựnhiên là sựthểhiện không đầy đủ của những ssphạm trù lý tính thuần tuý. Chính trong khoa học logic cũng nhưlogic học, Hegel đã trình bày một cách đầy đủvà sâu sắc phép biện chứng trên cơsởduy tâm. Theo Marx, phép biện chứng của Hegel (hay nhưchính Hegel gọi là phươngpháp tuyệt đối) là sự trừu tượng của vận động, trừu tượng của phát triển của thế giới hiện thực khách quan. Phép biện chứng này được Hegel hình dung như là sự vận động dưới hình thức cực kỳ trừu tượng, sự vận động của lý tính thuần tuý. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Hegel đã tạo ra được một lý luận biện chứng phát triển với tưcách logic học và là phương pháp. Ông đã kết hợp phép biện chứng và logic học thành một quan niệm thống nhất vềlogic biện chứng. Phép biện chứng là linh hồn của logic học, nhờ đó khoa học logic trở thành một cơ thể sống chứ không phải là những phạm trù khô cứng như logic học trước đây. Công lao của Hegel so với những bậc tiền bối chính là ởchỗông đã đưa ra được một sựphân tích biện chứng, khái quát tất cả những phạm trù quan trọng nhất của triết học và đã hình thành nên ba quy luật cơ bản của tư duy trên cơ sở duy tâm. Không nghi ngờ gì nữa có thể khẳng định rằng: "Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hegel tuyệt nhiên không ngăn cản Hegel trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức hình thái vận dụng chung của phép biện chứng đó”.Dù logic biện chứng duy tâm của Hegel không phải là một khoa học thật sự nhưng nó có nhiều giá trị to lớn đối với quá trình xây dựng tư duy biện chứng. Do đó, nó đã làm thay đổi sâu sắc quan niệm của con người về logic học. Chính Hegel là người đóng công lao to lớn. Giữa thếkỷXIX, Marx và Engels cải tạo lại phép biện chứng duy tâm của Hegel và sáng lập ra biện chứng duy vật. 4. Phép biện chứng duy tâm về nhà nước: Theo Hegel, nhà nước là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Nó ra đời nhằm duy trì, bảo tồn các gia đình, xã hội và công dân. Nhà nước ra đời từnhững mâu thuẫn trong xã hội nhằm điều hòa mâu thuẫn các giai cấp, đẳng cấp khác nhau. Bản chất của nhà nước là tổng thể các quy chế, kỷ cương về chính trị, văn hóa, pháp luật… Đây chính là quan niệm duy tâm của Hegel vềnhà nước đã ảnh hưởng trực tiếp đến quan điểm của Marx. Năm 1841, lúc bảo vệ luận án tiến sĩ của mình, Marx đã chuyển đổi quan điểm này của Hegel. Hegel cho rằng nhà nước Phổ là cuối cùng trong lịch sử và nhà nước cho mọi giai cấp. Sai lầm đầu tiên của Hegel là quan niệm sai về bản chất của nhà nước. Trong thời kỳ công xã nguyên thủy, nền kinh tế là săn bắt và hái lượm. Săn bắt do đàn ông đảm đương bằng công cụ thô sơ, hái lượm do đàn bà đảm đương bằng sự khéo léo của đôi tay mình. Lúc này xã hội chưa có của cải dư thừa. Vậy thời công xã nguyên thủy, của cải xã hội do con người làm ra chỉ vừa đủ. Nhưng đến cuối thời công xã nguyên thủy, nghề trồng trọt, chăn nuôi mới xuất hiện, xã hội bắt đầu có của cải dư thừa. Khi đó người đứng đầu thị tộc, bộ lạc có điều kiện chọn lòng son, hoán đổi của mình, người ta bắt đầu dùng quyền lực, chiếm của dư thừa đó làm của cải riêng và chế độ tư hữu bắt đầu xuất hiện. Trong thời công xã nguyên thủy, tất cả đều là của chung, thậm chí chồng chung, vợ chung. Khi chế độ tư hữu xuất hiện, loài người bắt đầu phân thành giai cấp. Hai giai cấp đối lập đầu tiên trong lịch sử là giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Để bảo vệ lợi ích của mình, các giai cấp tiến hành đấu tranh với nhau. Cuộc đấu tranh có nguy cơ đưa các giai cấp có thể tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn toàn xã hội. Để tránh thảm họa đó không xảy ra, để bảo vệ lợi ích của mình, giai cấp thống trị là giai cấp chủ nô đã lập nên bộ máy trấn áp bạo lực. Bộ máy đó chính là nhà nước và giai cấp chủ nô này đã sử dụng bộ máy nhà nước thông qua quân đội, cảnh sát, nhà tù, trại giam, trại tập trung… để duy trì các giai cấp tầng lớp trong vòng trật tự do mình đặt ra. Như vậy nó thống trị bằng bạo lực. Tuy nhiên, thống trị bằng bạo lực là chưa đủ và không thể mang tính lâu dài, cần phải thống trị luôn về mặt tư tưởng. Vậy nhà nước ra đời từ sản phẩm mâu thuẫn giai cấp không điều hòa được, nhưng nhà nước ra đời không phải để điều hòa mâu thuẫn giai cấp mà trái lại làm mâu thuẫn giai cấp càng sâu sắc, không thể điều hòa được vì nhà nước là của các giai cấp thống trị về kinh tế. Nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản là của giai cấp chủ nô, phong kiến, tư sản, còn nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước vô sản mang bản chất của giai cấp vô sản. Hegel cho rằng nhà nước ra đời để duy trì xã hội công dân và bảo toàn các gia đình, để điều hòa mâu thuẫn các giai cấp là sai lầm của ông. Theo Hegel, nhà nước là cho tất cả mọi tầng lớp nhưng lịch sử đã chứng minh điều đó hoàn toàn sai lầm. Năm 1841, sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ của mình, Marx trở thành cộng tác viên của tờ báo Sông Gianh. Lúc này Marx viết nhiều bài báo, có những bài được đăng, có những bài không được đăng, càng về sau những bài không được đăng càng tăng lên. Marx tìm hiểu và chợt nhận ra rằng những bài không được đăng là những bài bênh vực quyền lợi của người lao động, đụng chạm đến nhà nước, quyền lợi ích của giai cấp quý tộc. Từ đó Marx nhận ra rằng nhà nước chỉcó một giai cấp thống trị về kinh tế. Thực tế lịch sử đã chứng minh điều này. Nếu bảo rằng nhà nước là cho mọi giai cấp tầng lớp, điều đó hoàn toàn sai lầm. Như vậy Hegel đã xóa nhòa mâu thuẫn giai cấp. Hegel cho rằng: xã hội bất công - đó là tất yếu - sinh ra từbản tính của con người, ý nói bản tính con người là tham lam, ích kỷ. Từ đó, việc giải quyết mâu thuẫn xã hội là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Quan điểm này là hợp lý. Nhưng ông cho rằng nhà nước ra đời từ mâu thuẫn xã hội để làm điều hòa mâu thuẫn trong xã hội là sai lầm của Hegel. Hegel đứng trên lập trường bảo thủ cải lương, coi nhà nước Đức là chân lý - lập trường của chủnghĩa Sô-vanh, đề cao dân tộc Đức, miệt thị dân tộc khác, coi nước Đức là hiện thân của tinh thần “vũtrụmới”. Chế độ nhà nước đương thời được Hegel xem nó như đỉnh cao của sự phát triển của nhà nước và pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh những tư tưởng phản tiến bộ, Hegel đã nêu ra nhiều tư tưởng biện chứng quý báu vềsựphát triển của đời sống xã hội. Trong đó, ông đặc biệt quan tâm nghiên cứu về vấn đề nguồn gốc và bản chất của nhà nước. Hegel tìm nguồn gốc nhà nước từ mâu thuẫn xã hội. Bản chất của nhà nước là mang bản chất thống trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhưng Hegel cho rằng: “Nhà nước không chỉ là cơ quan hành pháp mà còn là tổng thể các quy chế kỹ cương, chuẩn mực và mọi lĩnh vực đạo đức, pháp quyền, chính trị, văn hoá,…” của xã hội, nhờ đó mà xã hội được phát triển bình thường. Vậy trong tưtưởng của Hegel không mang tính giai cấp. 5. Phép biện chứng duy tâm của Hegel: Đây là một trong những cống hiến vĩ đại của Hegel trong lịch sử khoa học của nhân loại. Phép biện chứng của Hegel bao gồm những nội dung: - Phép biện chứng của Hegel có hạt nhân là tưtưởng về sự phát triển là điểm sáng nhưng đó là phép biện chứng duy tâm. Phép biện chứng của Hegel là phép biện chứng của những khái niệm mà Hegel đồng nhất với bản thân sự vật. Đáng lẽ khái niệm phản ánh sự vật thì trong tư tưởng Hegel, ý niệm, khái niệm có trước sự vật. Đáng lẽ phép biện chứng của sự vật sinh biện chứng của tư tưởng nhưng theo Hegel biện chứng của tư tưởng lại sinh biện chứng của sự vật, phép biện chứng đó là duy tâm. Ý thức của tư duy con người phản ánh sự vật trong thế giới, nhưng nếu bản thân sự vật là liên hệ, biến đổi thì tư duy con người phản ánh nó cũng liên hệ, biến đổi. Đó là tư tưởng biện chứng mang tính duy vật. Theo Hegel, ý niệm tuyệt đối có trước tự nhiên và sinh ra giới tự nhiên, biện chứng của ý niệm tuyệt đối sinh ra biện chứng của sự vật, do đó phép biện chứng của Hegel là duy tâm. - Luận điểm xuyên suốt toàn bộ phép biện chứng của Hegel là tất cả những gì hiện thực đều hợp lý, tất cảnhững gì hợp lý đều là hiện thực. Hiện thực là sự tồn tại trong tính tất yếu. Đây là cách đánh giá của Marx: “Luận điểm xuyên suốt toàn bộ phép biện chứng của Hegel: hiện thực không chỉ đơn giản là sự tồn tại mà là sự tồn tại trong tính tất yếu, nghĩa là tất cả các sự vật, hiện tượng và cả Vũ trụ này vận động và phát triển theo các quy luật vốn có”. Đây là tư tưởng tuyệt vời của Hegel. Đằng sau vỏ duy tâm hợp lý đó, ông cho rằng tất cảsự vật trên thế giới, kể cả tư duy của con người đều vận động, phát triển theo các quy luật, chính Hegel là người đầu tiên khái quát nên quy luật đó. Toàn bộ ba quy luật cơ bản, sáu quy luật không cơ bản, sáu khoa học phạm trù được khái quát lên chính là Hegel. Đây là điểm sáng thứ hai trong phép biện chứng. - Hegel là người đầu tiên trình bày giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, đồng thời hiểu phát triển là quá trình phủ định biện chứng, trong đó cái mới ra đời thay thế cái cũ nhưng vẫn kế thừa của cái cũ những mặt tích cực có thể thúc đẩy sự phát triển. Tự nhiên, lịch sử và tư duy theo Hegel trình bày ở dạng quá trình, tức là trong sự sinh thành, biến đổi và phát triển. Khác với siêu hình, siêu hình cho rằng phát triển là sự tăng giảm đơn thuần về lượng, còn Hegel hiểu rằng phát triển là quá trình phủ định từthấp đến cao, đó là quá trình phủ định biện chứng. Phủ định biện chứng có hai đặc điểm: khách quan và kế thừa, kế thừa có sự chọn lọc, phê phán, người đầu tiên khái quát lên tư tưởng đó là Hegel. Học thuyết của Hegel chứng minh: con cái ra đời từ cha mẹ sẽ kế thừa những mặt tích cực của cha mẹ, loại bỏ những mặt tiêu cực. Ví dụ: chế độ tư bản ra đời dưới chế độ phong kiến, cũng là quá trình phủ định biện chứng, nó không phủ định sạch trơn tất cả những chế độ, hệ tư tưởng, những tư tưởng mà chế độ phong kiến đã tạo ra, không phải đạp đổ tất cả mọi thành quách, đền đài, lăng tẩm mà cũng kế thừa những mặt tích cực, chọn lọc phát triển chủ nghĩa tư bản. Với tinh thần biện chứng, khi đánh giá bất kỳ sự vật nào đó phải thấy hai mặt: tích cực và tiêu cực để từ đó loại bỏ những mặt tiêu cực và kế thừa những mặt tích cực. Như vậy, tinh thần của biện chứng người đầu tiên khái quát lên là Hegel. Nếu thừa nhận phủ định biện chứng này thì đánh giá của các nhà chủ nghĩa tư bản đa số đều khách quan. - Theo Hegel, con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả hoạt động của mình, nhận thức và tư duy của con người được hình thành trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới. Ý thức của mỗi cá nhân là sự khái quát lại toàn bộ ý thức mà nhân loại đã trải qua. Quan điểm con người là sản phẩm, là chủ thể của chính bản thân mình là quan điểm hoàn toàn đúng đắn. Hegel đã thấy được vai trò của lao động đối với sự hình thành và phát triển của ý thức. Lao động đã giải phóng hai tri thức của loài người, đưa con người đi lên thẳng đứng, tách con người ra khỏi thế giới loài vật. Cũng chính lao động, con người đã tạo thức ăn mới hoàn thiện não bộ. Trong lao động, con người tác động vào thế giới xung quanh, bộc lộ những đặc điểm, tính chất để con người nhận thức. Cũng chính trong quá trình lao động, con người tự hoàn thiện chính bản thân mình. Vậy không có quá trình lao động, con người không tách khỏi loài vật, bộ óc con người không hoàn thiện, không nảy sinh nhu cầu nhận thức về thế giới, không có ý thức của con người. Hegel khẳng định ý thức và tư duy của con người hình thành trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới, chứng tỏ rằng đã bắt đầu thấy vai trò của lao động đối với sự hình thành và phát triển ý thức và tư duy. Từ đó Hegel cho rằng: bằng cách đó, con người tác động vào giới tự nhiên, tạo ra giới tự nhiên thứ hai cho mình và làm chủ giới tự nhiên. Quan điểm giới tự nhiên thứ hai người đầu tiên đưa ra chính là Hegel. Chân lý là sự thống nhất của tinh thần và vật chất là cả một quá trình. Chân lý là tri thức có nội dung phản ánh phù hợp với hiện thực khách quan. Ví dụ: tổng ba góc trong một tam giác = 1800 là chân lý. Những quan điểm về chân lý sau này của Marx cũng chính là sự kế thừa quan điểm của Hegel. Chân lý là cả một quá trình, nghĩa là toàn bộ tri thức mà con người có được đến thời điểm hiện tại là chân lý, có thể thực tiễn sau đó sẽ bác bỏ nó, không là chân lý nữa. Có nhiều luận điểm cả ngàn năm là chân lý, thực tiễn sau đó bác bỏ nó, nghĩa là thực tiễn kiểm tra chân lý. Theo Hegel, con người là sản phẩm của lịch sử, lịch sử lại mang tính kế thừa. Vì vậy, ý thức của mỗi cá nhân, của mỗi con người là khái quát lại toàn bộ lịch sử mà tư tưởng nhân loại đã trải qua. Như vậy, trong ý thức của ta có ý thức của nhân loại trong quá khứ và trong hiện tại. Đây chính là quan điểm duy tâm của Hegel. Những quan hệ xã hội hình thành nên bản chất của ta, không chỉ trong hiện tại mà còn trong cả quá khứ. Nếu tách con người hiện tại ra khỏi liên hệ lịch sử thì con người trong hiện tại phát triển phiến diện và bề ngoài. Người đặt nền móng tư tưởng này chính là Hegel. - Hegel là người nâng phép biện chứng từ trình độ tự phát lên trình độ lý luận và là người đầu tiên trình bày phép biện chứng ở dạng nguyên lý, quy luật, phạm trù. Trải qua nhiều bước thăng trầm của lịch sử, phép biện chứng tồn tại dưới ba hình thức cơ bản, đó là: ƒ Phép biện chứng chất phác trong thời kỳ cổ đại. ƒ Phép biện chứng duy tâm gắn liền tên tuổi Hegel. ƒ Phép biện chứng duy vật do Marx - Engels sáng lập vào giữa thế kỷ XIX. Trong thời kỳ cổ đại, các nhà tư tưởng đã khái quát một bức tranh chung về thế giới mang tính biện chứng dựa trên sự quan sát mang tính trực quan cảm tính. Ví dụ: trong thời kỳ đó, Hecralite đưa ra luận điểm nổi tiếng, cho rằng trong thế giới không có sự vật, hiện tượng nào đứng im tuyệt đối mà vạn vật vừa tồn tại, vừa không tồn tại, chúng luôn trôi qua, luôn nằm trong quá trình không ngừng sinh thành, biến đổi và chuyển hóa, cái này biến hóa thành cái kia và ngược lại. “Con người không ai tắm hai lần ở trong cùng một dòng sông”, nghĩa là vạn vật không ngừng thay đổi. Theo Hecralite, dòng sông ngày hôm nay sẽ không là dòng sông của ngày hôm qua vì dòng nước đã thay đổi. Chúng ta ngày hôm qua và hôm nay cũng khác nhau bởi theo biến đổi tâm sinh lý trong cơthể. Tư tưởng đó là tư tưởng biện chứng. Sau này học trò của Hecralite còn nói lên phép biện chứng còn hơn cả thầy mình là: “Con người không ai tắm một lần ở trong cùng một dòng sông”. Với tư tưởng đó mới chỉ ra thấy rằng thế giới là sự vận động, phát triển liên tục và vô tận. Tuy nhiên, cả thế giới vận động, phát triển theo quy luật biện chứng nào thì tư tưởng biện chứng ở thời cổ đại không trả lời câu hỏi đó. Phương pháp biện chứng ở thời kỳ cổ đại mang tính chất sơ và thời kỳ này phép biện chứng chưa thật sự trở thành khoa học. Chính vì vậy ở thế kỷ XVII - XVIII, khi phong kiến phát triển thì phép biện chứng đã bị phủ định bởi phép siêu hình. Sự phát triển của khoa học tự nhiên thế kỷ XVII và XVIII, đặc biệt là sự phát triển của vật lý học và toán học khiến người ta nhìn nhận thế giới ởtrong trạng thái bất biến và cô lập. Ảnh hưởng của khoa học Newton, người ta cho rằng thế giới là một kho đáy khổng lồ và các bộ phận thế giới là những bộ phận riêng biệt, tách rời nhau. Cũng thời kỳ này, sự phát triển của khoa học tự nhiên đòi hỏi phát triển khoa học tựnhiên để phát triển lực lượng sản xuất. Khi khoa học tự nhiên phát triển như vậy dẫn đến sự ra đời của một phương pháp nghiên cứu, gọi là phương pháp thực nghiệm. Thực nghiệm là khảo sát, nghiên cứu của hiện tượng nào đó bằng cách tạo ra điều kiện phù hợp với mục đích nghiên cứu. Ở trong khoa học tự nhiên, thực nghiệm thực hiện trong phòng thí nghiệm để nghiên cứu hiện tượng nào đó. Bằng phương pháp thực nghiệm, khi khảo sát hiện tượng A trong giới tự nhiên, người ta tạm thời cô lập nó, không tính tới sự hình thành, biến đổi và phát triển của nó. Từ đó người ta có thói quen nhìn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan