Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giá trị tác phẩm chuyện con mèo dạy hải âu bay của luis sepulveda sepulveda sepu...

Tài liệu Giá trị tác phẩm chuyện con mèo dạy hải âu bay của luis sepulveda sepulveda sepulveda sepulveda

.PDF
65
1244
140

Mô tả:

TR ƯỜ NG ĐẠ Ơ TRƯỜ ƯỜNG ĐẠII HỌC CẦN TH THƠ KHOA KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NH ÂN VĂN NH Ữ VĂN BỘ MÔN NG NGỮ ��� �-------� ỄN TH ỌC DUY ÊN NGUY NGUYỄ THỊỊ NG NGỌ DUYÊ MSSV: 6106307 GI Á TR ẨM GIÁ TRỊỊ TÁC PH PHẨ CHUY ỆN CON MÈO DẠY HẢI ÂU BAY CHUYỆ CỦA LUIS SEPULVEDA Lu Luậận văn tốt nghi nghiệệp Đạ Đạii học Ng ữ Văn Ngàành Ng Ngữ ng dẫn: Th.s LÊ TH ÊN Cán bộ hướ ướng THỊỊ NHI NHIÊ ơ, 2013 Cần Th Thơ NG TỔNG QU ÁT ĐỀ CƯƠ ƯƠNG QUÁ ẦN MỞ ĐẦ U PH PHẦ ĐẦU Lí do chọn đề tài Lịch sử nghiên cứu vấn đề Mục đích nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu ẦN NỘI DUNG PH PHẦ CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ SỞ 1.1 Tác giả và tác phẩm 1.2 Khái niệm chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân văn 1.3 Khái niệm kết cấu trần thuật 1.4 Khái niệm nhân vật văn học CHƯƠNG 2 GIÁ TRỊ NỘI DUNG TÁC PHẨM ỆN CON MÈO DẠY HÀI ÂU BAY CỦA LUIS SEPULVEDA CHUY CHUYỆ 2.1 Hiện thực cuộc sống trong Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay 2.2 Tính nhân văn trong Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay CHƯƠNG 3 GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT TÁC PHẨM CHUY ỆN CON MÈO DẠY HẢI ÂU BAY CỦA LUIS SEPULVEDA CHUYỆ 3.1 Nghệ thuật khắc họa hình tượng nhân vật 3.2 Tình huống và kết cấu truyện 3.3 Giọng điệu, ngôn ngữ và ngôi trần thuật ẦN KẾT LU ẬN PH PHẦ LUẬ ỆU THAM KH ẢO TÀI LI LIỆ KHẢ M ỤC L ỤC 2 ẦN MỞ ĐẦ U PH PHẦ ĐẦU 1. Lí do ch chọọn đề tài Trong kho tàng văn học có vô vàn những tác giả lớn nổi tiếng cả trong và ngoài nước với những tác phẩm hay và xuất sắc, lưu lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc. Hầu hết các tác phẩm của những tác giả ấy không thể phủ nhận một điều là rất đáng để chúng ta tìm hiểu và nghiên cứu. Tuy nhiên, theo quan điểm riêng của chúng tôi thì chúng tôi muốn tìm đến một tác phẩm mới lạ hơn; lạ ở đây không có nghĩa là xa rời với những lề lối truyền thống mà đó là một tác phẩm có thể không đồ sộ, không triết lí sâu xa nhưng vẫn mang lại những giá trị chân nguyên đến con người. Chúng tôi muốn tìm đến một tác phẩm không chỉ dành riêng cho một lớp người nào đó mà là được viết để dành cho tất cả mọi người, đặc biệt đó là không dùng con người để nói về con người. Trải qua quá trình sàng lọc và lựa chọn, cuối cùng chúng tôi đã thống nhất đi đến quyết định đó là sẽ nghiên cứu về tác phẩm Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay của tác giả Luis Sepulveda, bởi vì tác phẩm này đã đáp ứng hầu như đầy đủ những mong muốn của chúng tôi trước khi nghiên cứu công trình này. Với sự nghiệp sáng tác tuy không đồ sộ nhưng cũng đủ để tác giả Luis Sepulveda gây nên một tiếng vang khá lớn trên thế giới văn đàn, chính điều này làm nên động lực để chúng tôi tìm đến với các tác phẩm của ông. Với mỗi một cuốn sách Luis Sepulveda lại đưa chúng ta đến với những bài học khác nhau, cái mà chúng tôi thích nhất trong hai tác phẩm của ông nói chung và Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay nói riêng đó là sự trong trẻo và nhân hậu sâu xa tồn tại trong từng câu chuyện đó. Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay thực chất là một câu chuyện dành cho thiếu nhi, thế nhưng khi chúng tôi tiếp xúc với tác phẩm thì chúng tôi đã nhận thấy rằng: cuốn sách này được viết để dành cho mọi người lớn và trẻ em, bởi nó chứa đựng khá nhiều giá trị hiện thực và nhân văn mà nhiều lúc người lớn như chúng ta đã vô tình bỏ quên. Đối với chúng tôi, điều thôi thúc cũng như cuốn hút bản thân đến với tác phẩm này mà không phải một tác phẩm nào khác bởi lẽ đây là tác phẩm thấm đẫm cả tình mèo và tình người nhiều nhất mà chúng tôi đã được biết đến. Nó không chỉ mô tả một cách sống động thế giới của những loài vật mà còn là một cách nói ví von về thế giới loài người và có lẽ bất cứ ai khi tìm hiểu về tác phẩm này đều nhìn thấy được bản thân mình đâu đó trong câu chuyện. 3 Chính nhờ vào những điều thú vị và quý giá đó trong các tác phẩm của mình mà tác giả Luis Sepulveda đã trở thành một hiện tượng văn học trên thế giới. Xuất phát từ lí do mong muốn người đọc có thể đi sâu và hiểu rộng thêm về tác phẩm của ông nên chúng tôi đã tiến hành công trình nghiên cứu này; cũng như một phần nào đó hiểu rõ hơn về quan niệm và triết lí sống của tác giả. 2. Lịch sử nghi nghiêên cứu vấn đề Mặc dù đã là một tác giả nổi tiếng trên thế giới văn đàn, thế nhưng những công trình nghiên cứu chuyên sâu về Luis Sepulveda hầu như rất ít. Nếu có thì đó cũng chỉ là những đánh giá và nhận định của các tác giả khác về sự nghiệp sáng tác, tổng hợp tất cả các tác phẩm của ông mà thôi. Chúng tôi hầu như khá khó khăn trong việc tìm kiếm một số công trình nào đó đi sâu vào tìm hiểu và phân tích các tác phẩm văn học của Luis Sepulveda nói chung và Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay nói riêng. Sau đây là một số công trình nghiên cứu về tác giả Luis Sepulveda và tác phẩm của ông của một số tác giả khác nhưng đa số chỉ là những bài cảm nhận mang xu hướng cá nhân mà thôi: Về tác giả Luis Sepulveda, tác giả Tiểu Quyên trong Nh Nhàà văn Luis Sepulveda – ững hành tr vi viếết từ nh nhữ trìình thi thiêên di đã nhận định rằng: “Sức hút từ những câu chuyện ngồn ngộn chất sống và thấm đẫm giá trị nhân văn mà Luis thể hiện trong tác phẩm đã hoàn toàn chinh phục người đọc”, vì thế cho nên “Luis Sepulveda được xem là một nhà văn đại diện cho nền văn học Chile đương đại”. Quả vậy, chỉ khi tìm đến với tác phẩm của Luis Sepulveda thì mọi cung bậc cảm xúc, mọi giác quan trong con người chúng ta mới được đánh thức một cách mạnh mẽ nhất. Chính nhờ vào điều đó mà chúng ta hiểu được hơn về nền văn học Latinh này. Tác giả Nam Giang trong Cảm ngh nghĩĩ về Sepulveda đã nêu ra suy nghĩ của mình về tác giả Luis Sepulveda và tác phẩm Lão gi giàà mê đọ đọcc truy truyệện tình như sau: “Tôi chỉ muốn kể lại một sự ngộ nhận tình cờ của mình, một người đọc bình thường, đã dẫn tôi tới việc tiếp cận nhà văn Luis Sepúlveda. Sự tình cờ này đã làm cho tôi biết tới một nhà văn. Sự nổi tiếng của ông thực ra không quan trọng. Sự nổi tiếng nhiều khi chỉ là một thương hiệu, để dẫn người ta tới một sự tiếp cận. Sau đó thích hay không thích, yêu mến hay khinh ghét, đó là thái độ riêng của mỗi người, tuỳ thuộc vào những gì người ta có thể rung cảm, đồng cảm được. 4 Tôi hi vọng rằng, bạn đọc sẽ tình cờ cầm cuốn sách này lên, có khi chỉ vì một lý do rất tủn mủn chẳng dính dáng gì tới văn chương cả để rồi bắt đầu bị cuốn hút bởi lối kể chuyện hấp dẫn của nhà văn Chile đương đại: Luis Sepulveda.” Chúng tôi – những người nghiên cứu tác phẩm này cũng đến với nó theo một sự tình cờ không chủ đích, thế nhưng chính những điều tường chừng như đơn giản ấy đã mang đến cho tâm trí chúng tôi những cánh cửa đầy ánh sáng của những điều kì diệu mà đôi khi bản thân bỏ quên trên đường đời. Theo tác giả Ngọc Hà: “ Ngòi bút của nhà văn Luis Sepulveda đã dệt nên câu chuyện nhân văn đầy tình người. Văn không còn là văn, qua cuốn sách ta hiểu rằng những trang văn chân chính chính là tình người, chính là cuộc đời.” Mỗi độc giả khi đến với Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay đều dành những lời nói ngọt ngào cho nó, điều này không phải là những cảm xúc nhất thời mà đó là những cảm giác chân thực được tích tụ ngày qua ngày trong suốt một quá trình nghiên cứu sâu xa. Tác phẩm cho người ta một cảm giác muốn trân trọng và nâng niu nó như tình cảm lớn lao mà bình dị dành cho các nhân vật trong tuyến truyện thông qua tất cả những điều tốt đẹp mà chúng mang đến. Trang http://gocsuyngam.com/chuyen-con-meo-day-hai-au-bay/ cũng đã đưa ra một số suy nghĩ về tác phẩm Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay: “Chú mèo béo ú bụng phệ Zobar cũng dạy tôi cách yêu thương và trân trọng, yêu thương một người đôi khi là phải cho họ tự do, bay theo cuộc sống của họ và dành cho họ… cô bé hải âu Lucky luôn muốn mình là mèo con, để có thể mãi mãi ở bên Zobar và bầy mèo ở cảng song hải âu luôn thuộc về bầu trời, bản năng của cô luôn vẫy gọi, khi ấy, yêu thương là phải học cách buông tay, trở về là mình và cho người mình yêu thương được là chính mình.” Câu chuyện là bài học to lớn về đức hi sinh và lòng thương người giữa những cá thể khác nhau hoàn toàn. Không phải ai cũng có thể mạnh dạn cho phép người khác trở thành hình tượng mà họ muốn khi sống trong cộng động mà mình điều khiển. Thế nên việc cộng đồng mèo chấp nhận hướng Lucky trở về với giống loài của cô bé là một điều không tưởng về sự tốt bụng, rộng lượng trong xã hội. Thêm một cảm nghĩ nữa về tác phẩm Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay trên Chuy trang http://trithucthoidai.vn/chuyen-con-meo-day-hai-au-bay thế này: “Chuy Chuyệện con 5 mèo dạy hải âu bay mang nhiều triết lý thâm thúy chứa đựng trong những gì tươi nguyên và dễ bắt gặp nhất. Khi ta yêu thương một ai đó, đừng bắt họ trở thành những gì ta mong muốn mà hãy giúp họ trở thành hình tượng theo đúng bản chất của chính mình.” “Tác phẩm không chỉ là một câu chuyện ấm áp, trong sáng, dễ thương về loài vật mà còn chuyển tải thông điệp về trách nhiệm đối với môi trường, về sự sẻ chia và yêu thương cũng như ý nghĩa của những nỗ lực” – một cảm nhận được tìm thấy trên trang http://www.zun.vn/tai-lieu/truyen-con-meo-day-hai-cau-bay-luis-sepulveda- 1941/. Thật vậy, toàn bộ câu chuyện là những bài học nhân văn bình dị giữa đời thường, giúp mỗi con người chúng ta mở rộng và khai sáng tâm trí lòng mình hơn. Trên đây chỉ là một số ít những công trình hay nói đúng hơn là những bài cảm nghĩ sâu sắc của các tác giả khác sau khi đã tiếp xúc với tác phẩm của Luis Sepulveda. Tuy hầu hết chỉ là những bài cảm nhận nhưng dựa vào đó chúng ta có thể phần nào đó hình dung ra được những ảnh hưởng sâu sắc của tác giả Luis Sepulveda và tác phẩm của ông đối với cách sống và sự nhận thức của người đọc. Thế nhưng do số lượng hạn chế của các công trình nghiên cứu nên công trình này của chúng tôi chủ yếu dựa vào sự hiểu biết của bản thân về tác phẩm cùng với việc nghiên cứu sâu hơn về tác giả Luis Sepulveda và những đặc điểm sáng tác của ông. ch nghi 3. Mục đí đích nghiêên cứu Ra đời sau thành công vang dội của tác phẩm Lão gi giàà mê đọ đọcc truy truyệện tình, Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay được độc giả chờ đợi và hi vọng khá nhiều vào những điều mà nó sẽ mang lại như “người anh em” của nó. Đúng như mong ước, Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay đã không làm thất vọng toàn thể độc giả - những người yêu mến trung thành của tác giả Luis Sepulveda – tác phẩm mang lại thêm nhiều hơn nữa so với tác phẩm thành công rực rỡ kia. Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay mang đến cho tâm hồn người đọc không còn là những giây phút nghẹt thở, sống động và đầy lôi cuốn như Lão gi giàà mê đọ đọcc truy truyệện tình, mà thay vào đó là những giá trị tốt đẹp đơn sơ chúng ta dễ dàng bắt gặp hay tìm thấy trong chính cuộc sống đời thường. Bên cạnh đó, sau khi tìm hiểu tác phẩm, người 6 đọc sẽ có một cái nhìn khác hơn về thế giới mèo và thế giới con người, qua đó người đọc có thể xâu chuỗi cũng như đối chiếu sự tương phản mà thông qua thế giới mèo tác giả đã gửi gắm điều gì về thế giới con người. Cuối cùng nhưng cũng không kém phần quan trọng, Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay là một viên ngọc quý khó tìm giữa vô vàn những viên ngọc quý khác, bởi lẽ tác phẩm tuy nhỏ về số lượng nhưng chất lượng thì là một điều đáng để chúng ta học hỏi và khâm phục. Chính vì ba trong số nhiều điều thú vị và tuyệt vời trên đây mà chúng tôi đã quyết định chứng minh một lần nữa những giá trị tiêu biểu và điển hình của tác phẩm này, một lần nữa khắc họa nó rõ nét hơn, đào sâu về bên trong hơn để độc giả có nhiều cái nhìn đa dạng và phong phú về nó – Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay. ạm vi nghi 4. Ph Phạ nghiêên cứu Đối với đề tài này, phạm vi nghiên cứu của chúng tôi chỉ xoay quanh tác phẩm Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay của Luis Sepulveda. Bên cạnh đó, chúng tôi còn nghiên cứu thêm về tác phẩm Lão gi giàà mê đọ đọcc truy truyệện tình để biết thêm về quan điểm sáng tác của tác giả. Đặc biệt là những công trình, những bài viết có liên quan đến tác giả và tác phẩm này đều được chúng tôi tìm đến, mong sẽ khám phá ra được nét gì đó mới lạ hơn giúp công trình của mình thêm hấp dẫn và sinh động. Đó cũng chính là những tài liệu chính để chúng tôi căn cứ và khảo sát Giá trị của tác phẩm Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay bay. ươ ng ph 5. Ph Phươ ương phááp nghi nghiêên cứu Để đạt được kết quả tốt nhất khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã vận dụng một số phương pháp sau: Phân loại các chi tiết đã được chọn lọc cẩn thận và chặt chẽ để tiện cho quá trình phân tích, phân loại các chi tiết có liên quan với nhau thành những tiêu đề riêng và tiến hành phân tích chúng theo tiêu chí thích hợp. Hệ thống và khái quát những luận điểm về giá trị nội dung cũng như những giá trị nghệ thuật đặc sắc để xây dựng lí luận chung về giá trị của tác phẩm. 7 Kết hợp với một số thao tác quan trọng quen thuộc theo xuyên suốt cả công trình nghiên cứu, đó là phân tích, giải thích, chứng minh… những giá trị về mặt nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay. 8 ẦN NỘI DUNG PH PHẦ ƯƠ NG 1 NH ỮNG VẤN ĐỀ CƠ SỞ CH CHƯƠ ƯƠNG NHỮ ả và tác ph ẩm 1.1 Tác gi giả phẩ 1.1.1 Tác giả Luis Sepulveda 1.1.1.1 Tiểu sử tác giả Luis Sepulveda sinh năm 1949 tại thành phố Ovalle, Chile. Ông là nhà văn, nhà báo, đạo diễn, nhà cách mạng nổi tiếng của Chile. Sau khi tốt nghiệp trung học ở Santiago, ông học ngành sân khấu tại Đại học Quốc gia Chile. Năm 1969, Luis Sepulveda học về kịch tại Đại học Tổng hợp Moscow. Năm 1978 ông đến Quito (Ecuador), thành lập đoàn kịch và trở thành đạo diễn của nhà hát Aliance Francaise. Tại đây Sepulveda tham gia cuộc thám hiểm kéo dài bảy tháng do UNESCO tổ chức và Lão gi giàà mê đọ đọcc truy truyệện tình được viết từ cảm hứng của chuyến đi đó. Ông được biết tới nhiều nhất qua Lão gi giàà mê đọ đọcc truy truyệện tình với 18 triệu bản lưu hành trên toàn thế giới. Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay - cuốn sách dành cho thiếu nhi đầu tiên của Luis Sepulveda, cho thấy một phong cách trong sáng, hài hước đầy tinh tế, trái tim khao khát tự do cũng như tấm lòng quý giá của một con người đối với tự nhiên và môi trường. 1.1.1.2 Sự nghiệp sáng tác Nhà văn Luis Sepulveda được độc giả lần đầu tiên biết đến qua tác phẩm Lão gi giàà mê đọ đọcc truy truyệện tình – đó là câu chuyện về một ông già sống đơn độc trong một túp lều bên dòng sông Amazon và những trải nghiệm cũng như chinh phục thiên nhiên hoang dã, kì vĩ của chính ông. Chính nhờ sự lôi cuốn đến nghẹt thở trong từng chi tiết mà tác phẩm này đã chinh phục được hàng triệu trái tim người đọc say mê. Dù chỉ là một tác phẩm được viết dành cho thiếu nhi nhưng Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay đã gây nên sự bất ngờ đến kích động trong giới độc giả, một tác phẩm nhẹ nhàng mà lại chứa đựng rất nhiều điều tinh tế. Câu chuyện khởi đầu chỉ bằng một lời hứa của con mèo mun mập ú với một con hải âu mẹ sắp lìa đời, ấy vậy mà hành trình thực hiện lời hứa của con mèo đó đã dẫn dắt không chỉ thiếu nhi mà còn 9 cả người lớn đi đến những giá trị cuộc sống vô cùng tốt đẹp mà không phải ai trong chúng ta cũng có thể làm được điều đó. Tuy chỉ với một sự nghiệp sáng tác khá nhỏ, nhưng nhà văn Luis Sepulveda đã cho chúng ta thấy không phải chỉ có những thứ lớn, đồ sộ mới làm nên những áng văn bất hủ và bài học để đời; với Lão gi giàà mê đọ đọcc truy truyệện tình và Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay Luis Sepulveda cũng đã làm được điều đó – những giá trị to lớn, những bài học sâu sắc mà chưa chắc những tác giả khác có thể làm được. Và đến thời điểm mà chúng tôi nghiên cứu về tác phẩm của ông thì ở tuổi 50 tác giả Luis Sepulveda đã có trong tay hơn 30 tác phẩm gồm nhiều thể loại văn học, kịch bản sân khấu và cả báo chí; thế nhưng Lão gi giàà mê đọ đọcc truy truyệện tình và Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay vẫn là hai tác phẩm sáng giá nhất của ông. Đặc điểm sáng tác Tuy sự nghiệp sáng tác của tác giả trải dài qua nhiều thể loại, nhưng xét về khía cạnh tác phẩm văn học chúng tôi chỉ tìm thấy những công trình hay những lời nhận xét về hai tác phẩm kể trên, nên chúng tôi chưa thể thống nhất được phong cách sáng tác của ông mà chỉ có thể nêu lên một số nét chính đặc sắc mà chúng tôi tìm thấy được trên những câu văn mà tác giả đã gửi gắm mà thôi. Có thể thấy văn phong mà Luis Sepulveda truyền tải trong hai tác phẩm xuất sắc của mình là những câu văn chứa đầy sự phóng khoáng và bay lượn, không cầu kì, sắc sảo nhưng mỗi câu, mỗi chữ đều cô đúc, ẩn chứa những thông điệp sâu xa. Trong Lão gi giàà mê đọ đọcc truy truyệện tình đó là những trang viết ngồn ngộn chất sống, trào dâng niềm mãnh lực khao khát của con người đối với tự nhiên và sự thách thức chất ngất ngược lại của thiên nhiên dành cho con người. Một cuộc thám hiểm chốn thâm sâu hòa cùng với những biến thiên bất ngờ trong cuộc sống tự nhiên đã lôi cuốn độc giả khắp nơi trên trang viết của Luis Sepulveda. Có một ý kiến đã nói về tác phẩm này cũng như tác giả Luis Sepulveda như sau: “Cái tài của người viết là luôn tạo được kịch tính trong từng chương sách, miêu tả cuộc sống ở rừng già chi tiết như một cuốn phim chiếu chậm. Đó cũng là một cách vận dụng nghệ thuật “phối cảnh, tạo tình huống” của nhà văn kiêm đạo diễn Luis Sepulveda.” Với Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay bằng một giọng văn trong trẻo và cách khai thác nhân vật rất tài tình, tác giả đã đưa người đọc – dù là người lớn hay trẻ nhỏ 10 - ngược về với những giá trị đơn giản thuở ấu thơ – ngày tháng mà những bài học làm người đầu đời ai cũng khẳng định rằng mình sẽ hiểu và nhớ hết tất cả nhưng không có bao nhiêu người có thể làm đúng theo được như thế. Những thông điệp mà tác giả gửi gắm không cứng nhắc, giáo điều mà đó chỉ là một cách truyền đạt hết sức nhẹ nhàng và tinh tế. “Vũ khí” chỉ là những cuộc hội thoại ngắn, những hành động vô cùng đơn giản nhưng gom chung lại lại có thể tạo ra muôn vàn ý nghĩa to lớn cho mọi lứa tuổi con người. Trên đây không được gọi là phong cách hay quan điểm sáng tác của nhà văn nhưng theo cách nhìn nhận của chúng tôi thì đó là những nghệ thuật bút pháp ưu tú nhất trong hai sáng tác của tác giả. Chính nhờ những câu văn đơn giản nhưng không kém phần trau chuốt, phóng khoáng, tự do nhưng cũng không tách rời những quy ước chung đã làm nên nét khác lạ trên sáng tác của Luis Sepulveda mà không phải tác giả nào cũng có thể làm được điều đó. Đây chính là nét đặc sắc mà theo chúng tôi Luis Sepulveda là một trong số ít những người sở hữu được nó. 1.1.2 Tác phẩm Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay Tóm tắt tác phẩm Mọi chuyện khởi thủy bằng lời hứa của con mèo mun to đùng mập ú Zorba với cô nàng hải âu xấu số Kengah không may dính phải dầu loang trên biển và sắp lìa đời. “Không được ăn quả trứng, chăm lo cho quả trứng đến khi con chim non chào đời và sẽ dạy cho nó bay” là ba lời hứa của Zorba, cũng là điểm bắt đầu cho những ngày tháng khác lạ không chỉ của Zorba mà còn là của tất cả những con mèo trên bến cảng. Đó là quá trình Zorba và các đồng sự của mình gắn liền bản thân với quả trứng hải âu và sau này cô chim bé nhỏ mang tên Lucky. Hành trình ấp trứng, chăm lo cho chim non từng miếng ăn giấc ngủ đi đến thỏa thuận với kẻ thù, thậm chí không ngần ngại khoe nanh múa vuốt để thị uy rốt cuộc cũng chỉ để bảo vệ an toàn cho cô chim bé nhỏ. Trải qua bao nhiêu ngày tháng với biết bao bài học quý báu mà một con mèo dạy cho một con hải âu, cuối cùng cũng đi đến điểm kết thúc – dạy bay cho Lucky. Cuộc thử sức, tính toán kĩ càng của toán mèo không làm cho Lucky có thể bay được, đành bắt buộc chúng phải đưa ra phương án quyết định, đó là nhờ đến con người – một người mà chúng có thể tin cậy được. Nhờ vào sự giúp đó mà hình ảnh Zorba ngồi trên thành tháp cao nhìn theo sải cánh vững chãi của Lucky trên bầu trời lúc đó 11 Zorba mới nhận ra rằng hải âu là loài chim của bão tố, chỉ có sức mạnh của gió, của mưa, của cuồng phong mới cất được cánh hải âu mà thôi. ủ ngh ực và ch ủ ngh ân văn 1.2 Kh Kháái ni niệệm ch chủ nghĩĩa hi hiệện th thự chủ nghĩĩa nh nhâ 1.2.1 Chủ nghĩa hiện thực Theo nghĩa rộng thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực dùng để xác định quan hệ giữa tác phẩm văn học đối với hiện thực, bất kể tác phẩm đó là của nhà văn thuộc trường phái hoặc khuynh hướng văn học nào. Với ý nghĩa này, khái niệm chủ nghĩa hiện thực gần đồng nghĩa với khái niệm sự thật đời sống, bởi lẽ tác phẩm văn học nào cũng phản ánh hiện thực. Vì vậy, khi nói đến tính hiện thực hoặc chủ nghĩa hiện thực trong văn học cổ, trong sáng tác Home, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị… là người ta muốn lưu ý rằng tác phẩm của nền văn học đó, của các tác giả đó gần gũi, gắn bó với cuộc sống và mang tính chân thực sâu sắc. Cách hiểu chủ nghĩa hiện thực như vậy hiện nay không còn lưu hành nữa vì không mang lại hiệu quả gì đáng kể cho nghiên cứu văn học. Theo nghĩa hẹp, khái niệm chủ nghĩa hiện thực được dùng để chỉ một phương pháp nghệ thuật, hay một khuynh hướng, một trào lưu văn học có nội dung chặt chẽ, xác định trên cơ sở các nguyên tắc mĩ học sau đây: Thứ nhất, mô tả cuộc sống bằng hình tượng tương ứng với bản chất những hiện tượng của chính cuộc sống và bằng điển hính hóa các sự kiện của thực tế đời sống. Thứ hai, thừa nhận sự tác động qua lại của con người và môi trướng sống, giữa tính cách và hoàn cảnh, các hình tượng nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa hướng tới tái hiện chân thực các mối quan hệ khác của con người và hoàn cảnh. Thứ ba, cùng với sự điển hình hóa nghệ thuật, coi trọng những chi tiết cụ thể và độ chính xác của chúng trong việc mô tả con người và cuộc sống, coi trọng việc khách quan hóa những điểu được mô tả, làm cho chúng tự nói lên tiếng nói của mình. Chủ nghĩa hiện thực luôn luôn quan tâm đến sự đa dạng phong phú về hình thức. Nó sử dụng cả huyền thoại, tượng trưng, cường điệu, ẩn dụ… song tất cả những cái đó đều phục tùng những nguyên tắc sáng tác hiện thực chủ nghĩa, phục tùng sự nhận thức con người trong các mối quan hệ phức tạp với những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể. Nhà văn hiện thực chủ nghĩa tiếp cận với những hiện tượng đời sống không phải như một người ghi chép thụ động dửng dưng mà với ý thức chủ động khám phá. Điều quan trọng nhất đối với văn học hiện thực chủ nghĩa là sự trung thành, chính xác trong nhận 12 thực, chuyển đạt bản chất cuộc sống và tầm quan trọng của những tư tưởng mà nhà văn muốn thể hiện. [4; Tr.66 - 67 - 68] 1.2.2 Chủ nghĩa nhân văn (còn gọi là chủ nghĩa nhân đạo) Một hệ thống quan điểm triết học – đạo đức, chính trị - xã hội coi con người và đời sống hiện thực, trần thế của nó, một đời sống văn minh, hạnh phúc, hữu ái, là mục đích cao nhất. Nó giải thích những nguyên nhân đã gây ra cho nhân loại cảnh bất hạnh, tội lỗi, đồi trụy… và đề ra phương pháp giải quyết những hiện tượng đó để cho con người được sống một cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Những nhân tố của chủ nghĩa nhân văn đã từng tồn tại trong văn học nhân gian, trong gia tài văn hóa tinh thần ở nhiều dân tộc thời cổ. Nhưng phải đến thời kì Phục hưng ở phương Tây thì chủ nghĩa nhân văn mới xuất hiện với tư cách là một hệ thống quan điểm triết học – đạo đức, chính trị - xã hội, thuật ngữ “chủ nghĩa nhân văn” đến lúc này mới ra đời. Chiến tranh phong kiến, chủ nghĩa khổ hạnh tôn giáo, chủ nghĩa cấm dục, chủ nghĩa giáo điều, kinh viện, ngu dân, thói đàn ap tự do tư tưởng… là trái với tự nhiên, là nguồn gốc của mọi cảnh bất hạnh, xấu xa, tội lỗi trên thế giới, gây ra rối loạn trong đời sống. Từ đó các nhà nhân văn đã khẳng định: “Con người là vẻ đẹp của thế gian, kiểu mẫu của muôn loài” (Secxpia). Boccaxio chế giễu thói đạo đức giả của giới tăng lữ bằng những truyện cười ca ngợi sức hấp dẫn của “tòa thiên nhiên” đến mức làm cả đấng bề trên, bề dưới mê mẩn tâm thần, quên mất cả những điều răn của Chúa. Secpia cười cả những quý tộc sẵn sàng từ bỏ những cam kết “trung thế kỉ” của mình để tuân theo tiếng gọi tình cảm thật, tự nhiên. Trong nhiều vở kịch cũng như hài kịch, ông ca ngợi tình yêu chân thành, trung thực, tự do, dũng cảm vượt qua những thành kiến về màu da, địa vị, tiền tài, dòng dõi, đẳng cấp… Rabole và Mongtenho kết án toàn bộ nền giáo dục trung cổ chỉ đào tạo ra những con người “vẹt”, ngu xuẩn, vô dụng. Các ông đề ra một chương trình giáo dục toàn diện, bách khoa với những phương pháp sư phạm khác hẳn: tôn trọng danh dự và nhân phẩm của học sinh, gắn với học hành, coi trọng việc rèn luyện trí thông minh, óc độc lập suy nghĩ hơn là những kiến thức và coi đó là con đường làm cho nhân loại hạnh phúc. Xecvantec chế nhạo cái lỗi thời của lí tưởng hiệp sĩ phong kiến… chủ nghĩa nhân văn giáng một đòn mạnh mẽ và quyết liệt vào chủ nghĩa phong kiến, Giáo hội và hệ tư tưởng tôn giáo, góp phần quan trọng vào việc giải phóng con người và tiến bộ xã hội. [3; Tr. 290 – 291] ái ni ật 1.3 Kh Khá niệệm kết cấu tr trầần thu thuậ 13 1.3.1 Tổ chức cốt truyện Cốt truyện là một phương diện của lĩnh vực hình thức nghệ thuật, nó chỉ lớp biến cố của hình thức tác phẩm. Chính hệ thống biến cố (tức cốt truyện) đã tạo ra sự vận động của nội dung cuộc sống được miêu tả trong tác phẩm. Tính truyện (có cốt truyện) là một phẩm chất có giá trị quan trọng của văn học, sân khấu, điện ảnh và các ngành nghệ thuật cùng loại. Trong các thể loại văn học, các cốt truyện là thành phần quan trọng thiết yếu của tự sự và kịch, nhưng thường không có mặt trong tác phẩm trữ tình. Cốt truyện được xây dựng bằng nhiều biện pháp kết cấu khác nhau. Trình tự thông báo với người đọc về các sự kiện diễn ra, việc nhấn mạnh những liên hệ bên trong mang ý nghĩa và cảm xúc giữa các sự kiện – là phạm vi kết cấu cốt truyện. Lối kết cấu bằng trình tự liên tiếp trước sau của các sự kiện, ở những tác phẩm có giá trị nghệ thuật thật sự, khiến người đọc luôn thấy mới mẻ qua từng tình tiết, và đoạn cuối thường là yếu tố trụ cột của cốt truyện… Một cách kết cấu quan trọng là đảo lộn trật tự thời gian của các sự kiện, nhằm chuyển chú ý của người đọc từ sự việc sang nội tình bên trong nhân vật… Kiểu kết cấu hồi cố trong tiểu thuyết và kịch sử dụng các đoạn hồi ức của nhân vật, các quãng tuyến hành động nhân vật. Các cốt truyện văn học được tạo ra theo các cách khác nhau. Có loại cốt truyện trong đó các sự kiện là kết quả hư cấu thuần túy của nhà văn. Có loại cốt truyện sử dụng nhiều nguyên mẫu của đời sống thực, đó là cốt truyện dựa trên các sự kiện lịch sử có thực; hoặc là cốt truyện dựa trên tiểu sử của bản thân nhà văn (tác phẩm thuộc loại tự truyện); hoặc cốt truyện dựa trên dấu tích các câu chuyện hình sự. Ngoài ra còn có loại cốt truyện được xây dựng dựa vào một hoặc những cốt truyện văn học đã được biết đến, có nhào nặn lại, có bổ sung, hiệu chỉnh theo cách của mình; đó là cốt truyện vay mượn. [3; Tr. 324 – 325 – 326]. 1.3.2 Giọng điệu và ngôi trần thuật 1.3.2.1 Giọng điệu Văn học thể hiện cái giọng điệu riêng mang thái độ tình cảm và đánh giá của tác giả. Giọng điệu ở đây là một hiện tượng nghệ thuật, không nên đồng nhất giọng điệu tác giả vốn có ngoài đời. Trong thơ ca giọng điệu thuộc về chủ thể trữ tình, gần gũi với tác giả, phản ánh cái Tôi thứ hai của tác giả. Trong truyện giọng điệu phức tạp hơn, thể hiện qua giọng 14 của người kể, mà người kể ấy có thể là nhân vật (xưng tôi) hay người kể vô hình nhưng cũng thể hiện kín đáo cái Tôi thứ hai của tác giả. Giọng điệu thể hiện ở cách xưng hô, cách dùng từ ngữ nhằm biểu hiện tình cảm thầm kín, thân mật hay xa lạ, khinh bỉ, châm biếm, giễu nhại. Một tiếng “chàng”, “nàng” trong văn hay một tiếng xưng hô “hắn”, “thị” trong truyện đã tạo ra một trường từ vựng tương ứng và đặt người đọc vào cái không khí đặc trưng do tác giả tạo ra. Truy Truyệện Ki Kiềều của Nguyễn Du nổi bật lên giọng cảm thương, than oán, đau xót. Nổi bật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là giọng trào lộng, hài hước. Nổi bật trong truyện Thạch Lam là giọng đồng cảm, trữ tình… Giọng điệu còn phối hợp với các chi tiết, tình tiết, mô típ, nhịp điệu làm thành cái không khí riêng của từng tác phẩm. [6; Tr. 64] Bên cạnh đó giọng điệu còn phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu nhất định, như văn chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp xong hệ thống nhân vật. Không nên lẫn lộn giọng điệu với ngữ điệu – là phương tiện biểu hiện qua lời nói, biểu hiện qua cách lên giọng, xuống giọng, nhấn mạnh, nhịp điệu, chỗ ngừng… Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học. Nó đòi hỏi người trần thuật hay nhà thơ trữ tình phải có khẩu khí, có giọng và điệu. Giọng điệu trong tác phẩm gắn với giọng “trời phú” của mỗi tác giả, nhưng mang nội dung khái quát nghệ thuật, phù hợp với đối tượng thể hiện. Giọng điệu trong tác phẩm có giá trị thường đa dạng, có nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng điệu cơ bản chủ đạo, chứ không đơn điệu. [4; Tr.112] 1.3.2.2 Ngôi trần thuật Liên quan trực tiếp đến ngôi trần thuật việc đầu tiên phải đề cập đến là người trần thuật. Người kể chuyện (người trần thuật) là một người do nhà văn tạo ra để thực hiện hành vi trần thuật. Khác với người kể chuyện trực tiếp như trong diễn xướng dân gian, người kể chuyện trong văn bản viết ẩn mình trong dòng chữ. Người kể chuyện ấy có thể được kể bằng ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai và ngôi thứ ba. Người kể chuyện chỉ có thể kể được khi nào họ cảm thấy như người trong cuộc, đang chứng kiến sự việc xảy ra bằng tất cả giác quan của mình. Do đó về căn bản mọi người kể chuyện đều kể theo ngôi thứ nhất. Cái gọi là kể theo ngôi thứ ba thực chất là hình thức kể khi người kể chưa có ý thức (như trong truyện thần thoại, truyện cổ tích…) hoặc đã được ý thức 15 nhưng cố ý giấu mình (như trong truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại). Ví dụ đoạn mở đầu Ch Chíí Ph Phèèo Nam Cao viết: “Hắn vừa đi vừa chửi, bao giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời…” Thực chất câu trần thuật này là: “Tôi thấy hắn vừa đi vừa chửi…”, nhưng nhà văn giấu vai trò mình thấy đi, cho nên là ngôi thứ ba giấu mình. Vì vậy nhà nghiên cứu Pháp Paul Riceou nói hai ngôi đó không có gì khác, đều là cái Tôi của người kể chuyện. Tuy nhiên ở đây có sự phân biệt quy ước. Người kể chuyện ngôi thứ nhất xưng “tôi” là một nhân vật trong truyện, chứng kiến các sự kiện đứng ra “kể”. Kể theo ngôi thứ nhất là hình thức nghệ thuật xuất hiện rất muộn, mãi đến đầu thế kỉ XIX mới có ở Châu Âu và thịnh hành dần cho đến ngày nay. Ngự trị trong văn học cổ và văn học trung đại là hình thức ngôi thứ ba. Ngôi thứ ba cho phép người kể cỏ thể kể tất cả những gì họ biết, còn ngôi thứ nhất thì chỉ được kể những gì mà khả năng của một người cụ thể có thể biết được, như vậy mới tạo được cảm giác chân thực. Ngôi thứ hai (xưng anh) như trong tiểu thuyết Linh Sơn của Cao Hành Kiện cũng mang cái Tôi của người kể, song với ngôi thứ hai nó tạo ra một không gian gián cách: một cái tôi khác, một cái tôi được kể ra chứ không phải là tự kể như ngôi thứ nhất. [6; Tr. 60 - 61] 1.3.3 Ngôn ngữ người trần thuật Ngôn ngữ là phần lời văn độc thoại thể hiện quan điểm tác giả hay quan điểm người kể chuyện (sản phẩm sáng tạo của tác giả) đối với cuộc sống được miêu tả, có những nguyên tắc thống nhất trong việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện tạo hình và biểu hiện ngôn ngữ. Chẳng hạn, trong Truy Truyệện Ki Kiềều, Nguyễn Du bên cạnh sử dụng các từ ngữ tả thực sắc sảo, vẽ ra thần sắc của từng nhân vật, tình huống, còn thiên về sử dụng các từ ngữ tao nhã, quý phái theo nguyên tắc hoán dụ để miêu tả như “thu thủy, xuân sơn”, “hoa cười ngọc thốt”, “trong ngọc trắng ngà”, “mai cốt cách, tuyết tinh thần”; đồng thời xây dựng lời trần thuật cô đúc dưới hình thức tiểu đối, đối xứng, trùng điệp, hài hòa, có khả năng gây ấn tượng cảm xúc mạnh: “càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”, “hoa trôi giạt thắm, liễu xơ xác vàng”… Những đặc điểm này cho thấy tác giả không chỉ tái hiện chân thực cuộc sống mà còn muốn miêu tả một cách thẩm mĩ, trang trọng, cổ điển. Ngôn ngữ người trần thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết Nam Cao lại được xây dựng theo nguyên tắc khác. Sự trùng điệp (lặp lại) chồng chất các hiện tượng của đối tượng trong từng câu văn, đoạn văn đã thể hiện cảm giác ghê tởm, khủng khiếp 16 trước tình trạng cuộc sống quá mức tồi tệ, quá mức chịu đựng của con người. Chẳng hạn, chân dung của Oanh, Chí Phèo, Thị Nở, Lang Rận, đoạn tả cảm xúc của Thứ trước khi rời Hà Nội về quê… Văn trần thuật Nam Cao có nhiều những từ ngữ và phương thức cú pháp chỉ sự quá mức như: “đã thế… lại còn”, “rất”, “suốt đời”, “suốt ngày”, “càng ngày càng”, “toàn những”, “biết bao”… đã thể hiện quan điểm cảm xúc của ông. Ngôn ngữ người trần thuật chẳng những có vai trò then chốt trong phương thức tự sự mà còn là yếu tố cơ bản thể hiện phong cách nhà văn, truyền đạt cái nhìn giọng điệu, cá tính của tác giả. Ngôn ngữ người trần thuật có thể có một giọng (chỉ nhầm gợi ra sự vật) hoặc có hai giọng (như lời nhại, mỉa mai, lởi nửa trực tiếp…) thể hiện sự đối thoại với ý thức khác về cùng một đối tượng miêu tả. Ngôn ngữ người trần thuật dưới hình thức lời người kể chuyện ngoài đặc điểm như trên còn mang thêm các sắc thái, quan điểm bổ sung cho lập trường, đặc điểm tâm lí, cá tính của nhân vật – người kể chuyện mang lại. Chẳng hạn ngôn ngữ của nhân vật ườ “tôi” trong Nh Nhậật kí ng ngườ ườii điên của Lỗ Tấn. [4; Tr. 181 - 182] ái ni 1.4 Kh Khá niệệm nh nhâân vật văn học Thuật ngữ chỉ hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại trọn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gắn cho những đặc điểm giống với con người. Là phương thức nghệ thuật nhằm khai thác những nét thuộc tính của con người, nhân vật có ý nghĩa trước hết ở các loại văn học tự sự và kịch, ở sân khấu, điện ảnh, điêu khắc, hội họa, đồ họa. Các thành tố tạo nên các nhân vật gồm: hạt nhân tinh thần của cá nhân, tư tưởng, các lợi ích đời sống, thế giới xúc cảm, ý chí. Các hình thức và hành động. Tính toàn vẹn (chỉnh thể) của con người được thể hiện ở văn học trong giới hạn những khả năng của ngôn từ nghệ thuật, chủ yếu là miêu tả (tạo hình) và biểu cảm. Ở dạng đầy đủ, đó là hình tượng con người với toàn bộ những đặc điểm ngoại hình (nét mặt, dáng người, tên riêng…) ; lối nghĩ, hành động, thế giới tinh thần, tâm hồn; do vậy các khái niệm này gần với tính cách Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ, không phải bị đồng nhất với con người có thật, ngay khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét rất gần với nguyên mẫu có thật. Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm của nhà văn về 17 con người; nó có thể được xây dựng dựa trên cơ sở quan niệm ấy. Ý nghĩa của nhân vật văn học chỉ có được trong một hệ thống tác phẩm cụ thể. Vai trò và đặc trưng của nhân vật văn học bộc lộ rõ nhất trong phạm vi vấn đề “nhân vật – tác giả”. Theo Bakhtin – “nhân vật - tác giả” tùy thuộc hai nhân tố: 1. Lập trường (công nhiên hoặc che giấu) của tác giả trong quan hệ với nhân vật (lập trường đó có thể là anh hùng hóa, mỉa mai, chế nhạo, đồng cảm…) và 2. bản chất thể loại của tác phẩm (ví dụ trong văn học trào phúng sẽ có kiểu quan hệ nhân vật giữa tác giả đối với nhân vật khác với trong văn xuôi tâm lí). Tùy thuộc hệ thống nghệ thuật của nhà văn, có những mức độ tối đa – nhân vật đối lập và đối thoại với tác giả, tính “tự trị” của nó là đáng kể (đây là cơ sở để nói lên logic nội tại của nhân vật), mức tối thiểu – nhân vật và tác giả mang nét chung về tư tưởng, tác phẩm trở thành tâm gương soi những tìm tòi về tinh thần của nhân vật, cũng là một bước đường tư tưởng của nhà văn. Gắn với sáng tác ngôn từ của thời đại khác nhau, nhân vật văn học in dấu những xu hướng tiến hóa của ngôn từ nghệ thuật. Tiêu biểu cho sử thi là nhân vật lí tưởng hóa, ở chủ nghĩa cổ điển là nhân vật “mặt nạ” cố định, ở chủ nghĩa lãng mạng là kiểu nhân vật bị vò xé bởi những mâu thuẩn; ở chủ nghĩa hiện thực: thế kỉ XIX-XX là nhân vật được mô tả trong tính xã hội lịch sử cụ thể, có đời sống tâm lý; ở một số trào lưu văn học và sân khấu thế kỉ XX còn có phản nhân vật, tức là một kiểu nhân vật bị tước bỏ nhiều nét vốn có của nó (so với các trào lưu truyền thống) nhưng vẫn ở vị trí trung tâm tác phẩm. Thực tiển sáng tác, phê bình và nghiên cứu văn học nên lên nhiều kiểu và loại nhân vật văn học, tương ứng với những dấu hiệu phân loại khác nhau. Do vị trí, vai trò khác nhau trong tác phẩm, người ta nêu ra “nhân vật chính” và “nhân vật phụ”. Do phục vụ cho việc truyền đạt đánh giá và thể hiện lý tưởng xã hội của nhà văn, người ta nêu ra “nhân vật chính diện” (tích cực) và “nhân vật phản diện” (tiêu cực). Cách phân biệt này tuy ước lệ, nhưng lại tiêu biểu cho sáng tác của khá nhiều xu hướng văn học. Do gắn với những thể loại văn học khác nhau, người ta phân biệt “nhân vật tự sự”; “nhân vật trữ tình”; “nhân vật kịch”. Ngoài ra, các kết quả nghiên cứu sâu vào từng xu hướng và thời đại văn học còn cho phép nói tới các kiểu “nhân vật loại hình” như: nhân vật chức năng (nhân vật – mặt nạ), nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng. Nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung tâm để xem sáng tác của một nhà văn, một khuynh hướng trường phái hoặc dòng phong cách. Những nét chung 18 về nhân vật cho phép nêu lên những hiện tượng văn học như: văn học về “con người thừa” (ở văn học Nga thế kỷ XIX), văn học về “thế hệ mất mát” (văn học thế kỷ XX). Những nhân vật trên thế giới trở nên nổi tiếng, được biết đến rộng rãi chính là những hình tượng vĩnh cữu (như Promete, Fauxt, Đông Joang…) của văn học thế giới. [4: Tr. 1254 – 1255] 19 ƯƠ NG 2 GI Á TR ẨM CH CHƯƠ ƯƠNG GIÁ TRỊỊ NỘI DUNG CỦA TÁC PH PHẨ ỆN CON MÈO DẠY HẢI ÂU BAY CHUY CHUYỆ 2.1 Hi ực cu Hiệện th thự cuộộc sống trong Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay Về vấn đề ô nhiễm môi trường trong Chuy Chuyệện con mèo dạy hải âu bay 2.1.1 Nguyên nhân Nguyên nhân cái chết của cô chim hải âu Kengah – một cô chim hải âu đáng yêu và chuẩn bị được làm mẹ đó là nạn tràn dầu - một hiện tượng nhức nhối đáng lên án của con người, một hành động giết hại đi rất nhiều nguồn tài nguyên cũng như rất nhiều sinh vật sống trong biển hoặc sống nương nhờ vào biển. Con người có thể là nhân tố tạo ra rất nhiều vết thương dành cho thiên nhiên, nhưng có lẽ nỗi tức giận mà thiên nhiên mang trả lại chưa đủ để khỏa lấp sự tham vọng, ích kỉ vẫn đang hằng ngày sinh sôi nảy nở qua thời gian trong tâm trí họ. Vậy nên, việc miêu tả từng chi tiết cụ thể về tình trạng, suy nghĩ và cảm xúc của Kengah trong cơn nguy kịch đã phần nào đó nói lên sự bất nhẫn mà con người đã gây ra cho những chủng loài sống cùng “mảnh đất Mẹ” với mình. Trong giờ phút cận kề cái chết, Kengah đã không ngừng nguyền rủa con người – tác nhân trực tiếp tạo ra cái chết đáng sợ cho loài hải âu. “Các con tàu chở dầu lớn thường lợi dụng những ngày có sương mù dọc bờ biển, chạy hơi nước ra xa khỏi đất liền để thau rửa các thùng dầu”[Tr.27]. Ở đây người đọc có thể thấy khi xã hội văn minh, phát triển, kéo theo đó là sự tiến bộ nhanh chóng về mặt nhận thức cũng như trí tuệ của con người tăng vọt, thế nhưng điều đó không hoàn toàn đối với tất cả con người trong xã hội. Sự lười nhác, biếng việc cộng thêm sự vị kỉ cá nhân đã đưa một số cá thể đi đến với những hành động ngu ngốc, gây tổn hại to lớn đến rất nhiều nhân tố xung quanh. Việc đánh bắt thủy hải sản, việc vận chuyển các loại hàng hóa bằng đường biển là một trong những công việc góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển và đưa đời sống cá nhân lên một bước mới sung túc hơn. Thế nhưng, sau khi đã lấy, đã khai thác rất nhiều nguồn lợi từ biển cả, thay vì phải ra sức bảo vệ và cải thiện để mang đến lợi ích lâu dài, một số cá nhân đã làm điều ngược lại, cũng có thể gọi những hành động đó là một sự vô ơn đối với nơi đã tạo ra cuộc sống cho bản thân cá nhân đó và gia đình họ. Công việc dọn dẹp tàu thuyền sau mỗi chuyến ra khơi là một điều tất nhiên và bắt buộc phải làm, con người có thể chọn cách đưa thuyền vào bờ, đổ bỏ số dầu cặn đó 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan