Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Mẫu giáo bé Giá trị nội dung và nghệ thuật tập thơ dắt mùa thu vào phố của nguyễn hoàng sơn...

Tài liệu Giá trị nội dung và nghệ thuật tập thơ dắt mùa thu vào phố của nguyễn hoàng sơn

.PDF
57
562
54

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC MẦM NON ĐÀO THỊ LÝ GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TẬP THƠ DẮT MÙA THU VÀO PHỐ CỦA NGUYỄN HOÀNG SƠN TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học thiếu nhi Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ NHÀN HÀ NỘI - 2017 LỜI CẢM ƠN Trước tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Thị Nhàn - Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài. Nhân dịp này, em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Mầm non - Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã quan tâm giúp đỡ em những kiến thức chuyên môn cần thiết trong quá trình học tập tại trường. Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình và bạn bè đã luôn động viên, giúp đỡ cho em hoàn thành tốt khóa luận này. Em xin chân thành cảm ơn! Xuân Hòa, ngày tháng 05 năm 2017 Ngƣời thực hiện Đào Thị Lý LỜI CAM ĐOAN Tôi xin khẳng định: Đề tài “Giá trị nội dung và nghệ thuật tập thơ Dắt mùa thu vào phố của Nguyễn Hoàng Sơn” là của riêng tôi, không trùng lặp với bất kì công trình nào đã công bố. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Xuân Hòa, ngày tháng 05 năm 2017 Ngƣời thực hiện Đào Thị Lý MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2 3. Mục đính nghiên cứu .................................................................................... 3 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu .............................................. 3 5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 4 6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4 7. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................. 4 NỘI DUNG....................................................................................................... 5 CHƢƠNG 1. GIÁ TRỊ NỘI DUNG TẬP THƠ DẮT MÙA THU VÀO PHỐ 5 1.1. Cảnh vật và thiên nhiên .............................................................................. 5 1.2. Thế giới con người ................................................................................... 11 1.2.1. Những con người lao động và sáng tạo ................................................ 11 1.2.2. Cuộc sống sinh hoạt của trẻ em ............................................................ 16 1.2.3. Thế giới tuổi thơ đầy ắp yêu thương ..................................................... 21 Tiểu kết chương 1............................................................................................ 26 CHƢƠNG 2. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT TẬP THƠ DẮT MÙA THU VÀO PHỐ ......................................................................................................................... 27 2.1 Yếu tố truyện trong thơ ............................................................................. 27 2.2. Thể thơ ..................................................................................................... 28 2.2.1. Thể thơ bốn chữ .................................................................................... 28 2.2.2. Thể thơ năm chữ ................................................................................... 30 2.2.3. Thể thơ lục bát....................................................................................... 32 2.3. Ngôn ngữ thơ............................................................................................ 34 2.3.1. Ngôn ngữ thơ hóm hỉnh ........................................................................ 34 2.3.2. Ngôn ngữ thơ bình dị ............................................................................ 36 2.4. Một số biện pháp tu từ ............................................................................. 38 2.4.1. Biện pháp nhân hóa ............................................................................... 38 2.4.2. Biện pháp so sánh.................................................................................. 41 Tiểu kết chương 2............................................................................................ 45 KẾT LUẬN .................................................................................................... 47 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Mười năm đầu sau chiến tranh, văn học thiếu nhi đang trong giai đoạn trăn trở, tìm tòi, kể từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đội ngũ sáng tác ngày càng đông đảo. Bên cạnh những cây bút như: Tô Hoài, Phạm Hổ,… đã xuất hiện những cây bút trẻ, thậm chí rất trẻ về tuổi đời và tuổi nghề, tiêu biểu trong số đó là Nguyễn Hoàng Sơn. Nguyễn Hoàng Sơn viết truyện, làm thơ cho người lớn, viết phê bình, tranh luận văn học, nhưng thành tựu nổi bật hơn cả vẫn là viết thơ, truyện thơ cho các em. Cho đến nay, ông đã xuất bản gần chục tập thơ, trong đó phần lớn là thơ dành cho thiếu nhi. Nhà thơ được giải thưởng về lĩnh vực này trong đó có giải thưởng của hội nhà văn Việt Nam. 1.2. Tập thơ Dắt mùa thu vào phố là tập thơ tiêu biểu của Nguyễn Hoàng Sơn dành cho thiếu nhi. Đó là tuyển tập các bài thơ và truyện thơ viết cho lứa tuổi trẻ em. Dắt mùa thu vào phố được giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 1993. Đến với tác phẩm này, độc giả nhỏ tuổi sẽ bắt gặp những hồn thơ tinh tế, hóm hỉnh, vui tươi mà không kém phần xúc động của tác giả. Bên cạnh đó, tập thơ còn cho người đọc thấy được thiên nhiên tươi trẻ, những mối quan hệ thân ái gắn bó, nâng đỡ quan tâm lẫn nhau của con người. Từ đó khơi gợi tình yêu thiên nhiên, tình yêu con người đối với các em. 1.3. Việc nghiên cứu tập thơ Dắt mùa thu vào phố vẫn còn những khoảng trống. Điều đó đã gợi cho tác giả khóa luận tiếp tục tìm hiểu sâu hơn, tìm hiểu toàn diện hơn giá trị nội dung và nghệ thuật tập thơ. Hơn nữa, việc tìm hiểu tác phẩm văn học giúp bản thân tôi trau dồi kiến thức, bồi dưỡng năng lực văn chương. Những bài thơ của Nguyễn Hoàng Sơn là những món quà đẹp dành cho trẻ thơ. Qua các trang thơ ấy trẻ thêm yêu thế giới xung quanh, yêu bạn bè. Bên cạnh đó thơ ca còn giúp giáo dục nhận thức, bồi 1 dưỡng lòng nhân ái, giáo dục thẩm mĩ, rèn luyện kĩ năng ngôn ngữ và phát triển nhân cách cho trẻ thơ. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Bút danh của Nguyễn Hoàng Sơn được khẳng định qua những tập thơ dành cho thiếu nhi. Ông từng tâm sự: “Lứa chúng tôi là lứa tuổi sinh ra những năm cuối thập niên bốn mươi của thế kỷ hai mươi, đến bây giờ là vắt qua hai thế kỷ với biết bao biến động, biết bao sự kiện mà nhiều khi nằm mơ cũng không thấy. Chúng tôi là người trong cuộc, khóc, cười, khổ đau và vui sướng… để làm nên những câu thơ, những câu văn, những bài báo thấm đẫm hơi thở của cuộc sống, của cuộc đời, của chính tâm hồn mình”. Qua quá trình tiếp cận, tìm hiểu, chúng tôi thấy giới nghiên cứu đã có những ý kiến nhận xét, đánh giá về sáng tác thơ của Nguyễn Hoàng Sơn, về tác phẩm Dắt mùa thu vào phố. Sau đây, khóa luận xin nêu ra những ý kiến tiêu biểu: - Nhà nghiên cứu Dương Kỳ Anh đã đánh giá: “Nguyễn Hoàng Sơn là một nhà báo biết tôn trọng sự thật và dám bày tỏ chính kiến của mình trước sự thật dù sự thật đó có phũ phàng cay đắng… Khi người thơ chân thật với bản thân mình, dám bày tỏ chính kiến, bày tỏ điều gan ruột thì những câu thơ những bài thơ như thế mới đến được với người đọc, mới thực sự lay động lòng người. Không màu mè, không uốn éo, Nguyễn Hoàng Sơn đến với người đọc một cách chân thực mà sâu lắng” (Văn Nghệ - Báo điện tử Tiền Phong -2015). - Nhà thơ Trần Đăng Khoa chỉ ra rằng: ...“Nhưng cứ như mắt tôi đọc, thì “đặc sản” chính của anh vẫn là thơ viết cho thiếu nhi. Và trong mảng thơ khá đặc biệt này, Nguyễn Hoàng Sơn bộc lộ rõ nhất tài năng của mình trong truyện thơ, một thể loại văn học mà ở ta hầu như còn rất ít người viết, cũng một phần vì khó viết, và nếu có viết được thì cũng rất khó hay. Nguyễn Hoàng Sơn tỏ ra là một cây bút có sở trường trong cái thể loại rất hiểm hóc này” (Văn học thiếu nhi Việt Nam -2003-NXB Kim Đồng). 2 - Nhà nghiên cứu Huỳnh Diệu nhận định: “Thơ Nguyễn Hoàng Sơn với những phát hiện mới mẻ và liên tưởng thông minh. Trong mảng thơ cho thiếu nhi, ông bộc lộ tài năng của mình, đặc biệt qua các truyện thơ, ông găm vào trí nhớ người đọc với nhiều hình ảnh thơ độc đáo, thi vị” (Trang báo sinh viên Đại học An Giang - 20/06/2007). - Nhà thơ Đặng Hấn đã khẳng định: “Đọc truyện thơ của Nguyễn Hoàng Sơn giống như đến rạp hát để xem diễn Kiều hoặc Quan Âm Thị Kính: không phải đến để xem diễn biến câu chuyện ra sao, kết cục ai sống ai chết, ai lấy ai… mà là để thưởng thức cái chất văn, chất đời tư trong từng câu ca, lời thoại …” (Văn học thiếu nhi Việt Nam-2003-NXB Kim Đồng). - Các nhà nghiên cứu, phê bình đã có lời bình, đánh giá, nhận xét về thơ viết cho thiếu nhi của Nguyễn Hoàng Sơn, nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật tập thơ Dắt mùa thu vào phố của ông một cách cụ thể, sâu sắc toàn diện. Trên cơ sở tiếp thu những ý kiến đánh giá về thơ Nguyễn Hoàng Sơn, chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu cụ thể, đầy đặn hơn, sâu sắc hơn giá trị nội dung và nghệ thuật của tập thơ Dắt mùa thu vào phố. 3. Mục đính nghiên cứu - Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật tập thơ Dắt mùa thu vào phố của Nguyễn Hoàng Sơn. - Qua việc tìm hiểu tác phẩm để khẳng định giá trị của tập thơ đối với việc giáo dục nhân cách cho trẻ mầm non. - Nghiên cứu đề tài này giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về thơ Nguyễn Hoàng Sơn viết cho thiếu nhi và trau dồi kiến thức văn học cho bản thân. 4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tƣợng nghiên cứu - Khảo sát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật tập thơ Dắt mùa thu vào phố của Nguyễn Hoàng Sơn, (NXB Kim Đồng - 1992). 3 4.2 Phạm vi nghiên cứu - Nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật tập thơ Dắt mùa thu vào phố của Nguyễn Hoàng Sơn, (NXB Kim Đồng-1992). - Khóa luận khảo sát 72 bài thơ trong tập thơ Dắt mùa thu vào phố (Những sáng tác về thiên nhiên và con người). NXB Kim Đồng 1992. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Giá trị nội dung tập thơ Dắt mùa thu vào phố. - Giá trị nghệ thuật thể thơ, hình ảnh trong thơ, ngôn ngữ thơ, biện pháp nghệ thuật trong tập thơ Dắt mùa thu vào phố. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp thống kê - Phương pháp nghiên cứu tác phẩm theo thể loại - Kết hợp các thao tác khoa học khác: Bình giảng, phân tích… 7. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của khóa luận gồm 2 chương sau: Chương 1: Giá trị nội dung tập thơ Dắt mùa thu vào phố Chương 2: Giá trị nghệ thuật tập thơ Dắt mùa thu vào phố 4 NỘI DUNG CHƢƠNG 1. GIÁ TRỊ NỘI DUNG TẬP THƠ DẮT MÙA THU VÀO PHỐ 1.1. Cảnh vật và thiên nhiên Thiên nhiên luôn là một thế giới kỳ diệu và có sức hấp dẫn bao đời nay. Thiên nhiên luôn tỏa ra một sức cuốn hút khiến người ta mê say và muốn khám phá. Đi vào thế giới thơ của Nguyễn Hoàng Sơn, ta bắt gặp tất cả những cảnh vật quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của các em. Đó là bức tranh về làng quê, về các sự vật hiện tượng tự nhiên, cảnh vật bốn mùa, tất cả hiện lên thật phong phú, đa dạng. Một số bài thơ tiêu biểu trong tập thơ Dắt mùa thu vào phố thuộc chủ đề này là: Hoa sen, Hoa dạ hương, Tiếng mõ trâu, Lập thu,… Các bài thơ: Hoa sen, Hoa dạ hương, Hoa lục bình, Bài hát về quả sồi, Quất, Hoa giấy là những bài thơ viết vừa đẹp vừa gần gũi với cách nói, cách nghĩ của các em. Trong bài thơ Hoa sen, sự tinh tế, nhẹ nhàng của hương vị hoa sen được tác giả thể hiện thông qua những câu thơ sau: “Đầu tiên là lá nổi Thả diều trên mặt ao Búp sen xuyên thủng nước Nụ sen hồng nhô sau” Đến khi sen nở: “Hẳn nhà sen rất giàu, bao nhiêu là áo đẹp”. Ở đây, người đọc thấy được rõ nét quá trình phát triển của hoa sen giống như sự lớn lên của một đứa trẻ, nhẹ nhàng, e dè từng bước: “Nụ chưa nở ngay đâu Chừng như còn ngại rét”. Nhà thơ cũng quan sát mọi ngóc ngách của thế gian vào những khoảnh khắc trong đêm để cho độc giả thấy được vẻ đẹp của tạo hóa ban tặng, cũng 5 như tính cách chăm chỉ, thầm lặng giống hệt con người của loài ong cần được các em nâng niu và trân trọng: Con ong chăm chỉ nhất Cũng đã về ngủ rồi Con bướm la cà nhất Cũng không còn rong chơi … Đẹp cho ai hoa ơi Mà đêm về mới nở … Năm cánh hoa nho nhỏ Mà sao thơm lạ lùng Hương càng khuya càng rộ Hoa yêu người học chăm”. (Hoa dạ hương) Từ những cảnh vật quen thuộc của cuộc sống, Nguyễn Hoàng Sơn đã làm “lạ hóa” chúng, khiến cho chúng thật hồn nhiên và lung linh. Đối với một số người thì mây, bóng của núi, tiếng thác nước, gió, mưa, bờ ruộng đều là vật vô tri vô giác, nhưng đối với Nguyễn Hoàng Sơn, tất cả đều có hồn, có tính cách. Những màu sắc, hình dạng của đám mây được Nguyễn Hoàng Sơn miêu tả rõ nét trong bài Mây: lúc trắng, lúc xanh, lúc xám,… Chúng thay dạng đổi hình giống hệt tâm lí của một đứa trẻ nhỏ: “Lúc mặc áo trắng Lúc mặc áo xanh Lúc choàng áo xám Thay dạng đổi hình 6 … Là con của nước Đi học trên trời Bỗng dưng nhớ mẹ Liền rơi… rơi… rơi”. (Mây) Trong bài Mưa, thông qua việc miêu tả cảnh trời mưa, tác giả đã khéo léo chỉ ra lợi ích thiết thực mà thiên nhiên ban tặng: “Này mưa ra cỏ Này mưa ra cá Này mưa ra quả”. Để rồi tình yêu với thiên nhiên đã khiến ông nhìn “mưa” như bạn hữu với con người: “Mưa ơi mưa ơi Bạn của muôn người”. Một cái bờ ruộng tưởng chừng chỉ biết đứng im lặng, nhưng qua cái nhìn mới mẻ của Nguyễn Hoàng Sơn, cái bờ ruộng cũng trở nên có ích và có những nét đẹp riêng: “Bờ là ruộng của bò Suốt bốn mùa trồng cỏ Bờ là núi của cua Hang làm nhà cua ở ... Trên cánh đồng trắng nước Kẻ những lằn biếc xanh”. (Bờ) Bài thơ Tiếng thác tả âm thanh của tự nhiên đem về giữa đất trời. Những điều Thác gửi gắm là những ước nguyện muốn làm việc có ích, muốn được công nhận và trân trọng như những người bạn: 7 “Thác đổ ào ào Muốn nói lời gì thế Đá chẳng hiểu nổi đâu Núi nhìn nhau ngẫm nghĩ … Thác kêu trong núi vắng Có tai em nghe rồi Thác muốn mình có ích Muốn hóa dòng điện vui”. Viết về thiên nhiên, thơ Nguyễn Hoàng Sơn còn cho thấy sự sống động, sắc nét với những lời ca nhẹ nhàng. Cảnh vật không lạ nhưng mang màu sắc riêng. Cảnh sắc mùa thu trong thơ của ông mang đến một vẻ đẹp lãng mạn bởi những đặc trưng quen thuộc của nó, không cần tô vẽ màu mè. Khung cảnh mùa thu vẫn hiện lên rõ nét và gần gũi, màu lá thay áo vàng, màu nắng vàng đẹp. Đặc biệt là mùa cốm mới của thôn quê: “Một chiếc lá chín rực Đậu nhẹ trước hiên nhà Nắng vàng như rót mật Người gánh cốm bước qua”. (Qua ngõ) Đọc thơ của ông ta không chỉ thấy đơn thuần những sự vật thân thuộc hàng ngày mà còn tìm thấy tình yêu, sự thân thiết của nhà thơ giành cho thiên nhiên, đó là những cảm xúc, muốn níu giữ, tiếc nuối cho một mùa thu đẹp lại trôi qua quá nhanh. Mùa thu đi qua mà hương vị như còn ở lại. Đó là cái hương vị cốm thơm, hương quả cây còn vương vấn trong cõi ngẩn ngơ của đất trời: “Riêng mùa thu đẹp thế Lại ngắn ngủi làm sao 8 Đến và đi đều khẽ Như là trong chiêm bao Vị cốm đã tan đâu Hương thị còn quanh quất Thu đã đi qua khuất Ngõ ngẩn ngơ tìm ai”. (Mùa thu ngắn) Đối lập với sự nhẹ nhàng của mùa thu là một mùa hạ sống động, tươi mát, một sức sống tràn trề của thiên nhiên ban tặng. Vào hè, Cây mùa hè, Chuyện mùa hạ là những bài miêu tả về khung cảnh mùa hạ với nhựa sống không bao giờ vơi cạn. Cây phượng khi vào hè lá mới chỉ xanh thắm, chưa có hoa, đột nhiên có tiếng ve hoa phượng bắt đầu bùng lên như ngọn lửa, lan ra khắp nhành, cái sức sống mãnh liệt ấy lan tỏa ra cả một vùng trời mùa hạ: “Mùa hạ cầm kim Thêu hoài không mỏi Dài mãi không cùng Vòm hoa rực đỏ Màu cờ mênh mông”. (Vào hè) Hình ảnh làng quê khá quen thuộc trong thơ ca và truyện kể nhưng khi vào thơ của Nguyễn Hoàng Sơn nó lại mang một màu sắc mới, đó là những khung cảnh thiên nhiên bình dị mà thân thương người ta chỉ có thể nhìn thấy ở đất làng. Từ một tiếng mõ trâu, hồn thơ của ông đã mở rộng hướng tới một không gian làng quê rộng lớn: “Nắng thoai thoải sườn đồi Lúa chín vàng thung vắng 9 … Nước dào qua bờ cỏ Tiếng mõ đầy thung sâu”. (Tiếng mõ trâu) Không chỉ khám phá vẻ đẹp của miền quê nông thôn, tác giả còn cho các em thấy được nét đẹp trong cảnh sắc thiên nhiên miền núi. Vẻ đẹp tinh khôi của hoa mận được nhà thơ thể hiện trong một khung cảnh tuyệt diệu: “Sớm mai bỗng rộn tiếng chim Ngó qua cửa “vóng” hoa lên đầy cành Hoa dày cánh trắng vẫn thanh Gió đông lay khẽ rung rinh như cười”. Thông qua vẻ đẹp của hoa mận, ông đã khéo léo tái hiện lại một miền kí ức tuổi thơ đẹp đẽ: “Nhà tôi tựa dốc núi nghiêng Ngọn cây ngang cửa mắt nhìn đã quen ... Mùa Xuân rồi nhỉ hoa ơi Tôi đi xem hội, tôi chơi đánh cù”. (Hoa mận) Đọc bài Cây lúa trèo thang chúng ta sẽ thấy được cái nhìn vừa lãng mạn, vừa nhân hóa tài tình của nhà thơ. Cây lúa của người miền núi cũng thật khác miền xuôi: “Núi chen nhau hóa chật Cây lúa phải trèo thang Đồi biến thành cô gái Mặc váy xanh ngấn chàm”. Bằng những vần thơ vừa đẹp, vừa gần gũi, Nguyễn Hoàng Sơn không chỉ vẽ lên một bức tranh thiên nhiên sống động muôn màu sắc mà qua đó còn 10 muốn các em nhận ra rằng, vạn vật đều có linh hồn và sự sống. Vì vậy, các em hãy xem chúng như những người quen, những người bạn, hãy biết nâng niu và chăm sóc chúng như chính bản thân mình. 1.2. Thế giới con ngƣời 1.2.1. Những con ngƣời lao động và sáng tạo Bên cạnh thiên nhiên thì con người cũng được Nguyễn Hoàng Sơn miêu tả một cách chân thực, sinh động. Đó là những người nông dân với đời sống nhọc nhằn vất vả mà tâm hồn lại trong trắng, mộc mạc. Bài thơ Muối và Phép lạ như khúc ca về những người lao động bình dị. Ai cũng biết rằng, hạt muối quá quen thuộc trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, nhưng để có được nó thì người dân phải làm lụng vất vả: “Ai yêu mặt trời Hơn người làm muối Từ sáng tinh mơ Ra đồng tất tưởi ... Da người càng đen Hạt muối càng trắng”. (Muối) Ta thấy được sự đối lập giữa hai hình ảnh “da người” và hạt muối đã thể hiện rõ cái khắc nghiệt mà người dân phải đối mặt mỗi lần ra đồng lao động. Người đọc như được nhà thơ truyền sang nỗi thấm thía, xúc động, xen lẫn cảm thông, biết ơn những con người ngày đêm lao động, cống hiến thầm lặng cho cuộc sống. Đời sống tinh thần của người dân rất đơn giản, bình dị. Niềm vui của họ là được lao động, được làm việc, được thu hoạch sản phẩm sau những vụ mùa. Dưới cái nắng của ánh mặt trời tháng sáu, họ vẫn say mê làm việc, ra 11 đồng như ra sân khấu, dẫn nước từ mương vào các ruộng muối. Trên các cánh đồng rộn lên tiếng reo mừng: “Và đột nhiên... Ô kìa! Muối hiện hình trắng toát Không tin sờ thử đi Muối ấm và ráp ráp”. (Phép lạ) Ngoài những người dân vùng biển làm nghề muối, trong thơ ông còn nói tới những người lính (Ông em, Kon Tum), cô y tá (Y tá), người nghệ sĩ (Nhà thơ đi dạo). Những con người ấy dù làm những ngành nghề khác nhau nhưng luôn năng động, yêu đời, yêu nghề. Họ sống và cống hiến hết mình. Trong bài Ông em, tác giả viết về một người lính đã giải ngũ. Dù đã là một người lính về nghỉ hưu nhưng ông luôn dậy sớm nhất nhà và hăng say lao động. Kể cả những ngày rét buốt, ông vẫn miệt mài trồng cây, chăm chỉ làm việc như lúc còn trai trẻ: “Ông em là bộ đội Chân đã đi trăm miền Nay tuổi già về nghỉ Ngày ngày gần bên em Ông dậy sớm nhất nhà Cả những ngày rét buốt Dù chỉ có tiếng gà Thay tiếng còi trực nhật Ông vẫn chăm thể dục Như lúc còn đương trai Về nghỉ mà không nghỉ Ông miệt mài trồng cây”. 12 Cô y tá ở bài Cô y tá cũng thế! Cô làm việc vất vả trong những năm tháng ở Trường Sơn, cũng đào hầm, ngủ võng, chữa bệnh dưới bom đạn. Tất cả những khó khăn ấy vẫn không làm cô thôi yêu nghề. Để rồi, khi đất nước hòa bình, cô vẫn tiếp tục công việc chăm sóc cho mọi người: “Hòa bình mười năm hơn Cô vẫn làm y tá Môi hồng búp tay thon Như chưa hề vất vả”. Ngay cả “một nhà thơ” (Nhà thơ đi dạo) khi đi tìm cảm hứng sáng tác cho mình cũng gặp không ít khó khăn: xuống đường chân đi giày thấp, giày cao, đang đi đường bỗng lăn quay vì bị hai chú nhỏ giăng dây; bàn làm việc bị cậu con trai cuộn pháo đốt. Ở đây, tác giả viết về những con người mới. Tuy gặp nhiều cản trở trong cuộc sống, nhưng họ vẫn kiên nhẫn, miệt mài theo đuổi đam mê của mình: “Sợi dây chun quái ác Ai chăng để hại người? Nhà thơ còn ngơ ngác Chợt sững trong tiếng cười Reo mừng hai chú nhỏ Vừa bẫy được người-văn Nhà thơ thôi yêu phố Quay về mặt đăm đăm”. Viết về thế giới con người, nhà thi sĩ đã cho bạn đọc thấy rằng đằng sau lớp ngôn từ có phần vui tươi ngộ nghĩnh, hài hước kia là những bài học thiết thực mà ông muốn gửi gắm đến các em. Bài thơ Lời chào đi trước được nhà thơ viết để dành tặng cho cô con gái đầu mới tròn bốn tuổi. Theo tác giả, lời chào luôn gắn với con người, nó không chỉ là một biểu hiện xã giao, mà còn là sự cởi mở, là tấm chân tình. Ấy 13 vậy mà nhiều khi người ta quên. Nguyễn Hoàng Sơn đã làm thơ về điều đó như để nhắc nhở chính đứa con của mình và cả những ai trót quên đi điều tốt đẹp đơn giản đó. Hóm hỉnh nhất là khổ thơ cuối. Những câu thơ như lời khuyên nhủ với con trẻ rằng, lời chào không nặng nên chớ có quên, hãy mang theo: “Ai cũng có Chẳng nặng là bao Bạn ơi đi đâu Nhớ mang đi nhé’’. Ngoài việc nhấn mạnh sự cần thiết của lời chào hỏi trong giao tiếp, thì đức tính hòa thuận, đoàn kết cũng được ông đề cập đến thông qua bài thơ có ý vị ngụ ngôn hóm hỉnh (Mỡ và hành cãi nhau). Đây là bài thơ không viết về con người nhưng nó hàm nghĩa giáo dục cao. Mượn cách nói ngụ ngôn, mượn thế giới hoa, trái, cỏ cây, tác giả khéo léo nhắc nhở tính thân ái, đoàn kết: “Mỡ và Hành cãi nhau: Mùi thơm là của tao! Không của tao! Củi cháy nổ lép bép Chúng chẳng nghe thấy gì Lát sau hành đen sì Mỡ bay mùi khét lét” (Mỡ và hành cãi nhau) Độc giả có thể thấy một cuộc cãi vã giữa Mỡ và Hành tại đây. Ai cũng cho rằng, mùi thơm là của riêng mình, không bên nào nhường nhịn để rồi tất cả cùng bị cháy khét lẹt, cuộc cãi vã chỉ kết thúc khi mùi thơm tan biến. Từ đó cho ta thấy việc sống đoàn kết đùm bọc lẫn nhau, biết giúp đỡ chia sẻ trong cuộc sống hằng ngày là rất cần thiết. 14 Ngay cả những loại trái cây tưởng chừng vô tri vô giác như Mít, Bí, Nhót cũng trở thành những người bạn chia sẻ cho nhau bài học để giúp nhau cùng tiến bộ thông qua cách ví von của nghệ sĩ: “Quả nhót hay tót đi chơi Ngồi học không ngồi thích chạy loăng quăng Quả mít nó mới bảo rằng: Đằng ấy coi chừng kẻo giống tớ đây Bởi xưa không chịu học bài Mang tiếng suốt đời mít đặc khổ không Lại như quả bí ngoài đồng Nằm lì ngủ kĩ nên không biết gì Hỏi đâu cũng bí rì rì” (Mít, Bí, Nhót) Truyện thơ Túi chín gang dựa theo truyện cổ tích Cây khế. Nguyễn Hoàng Sơn nhấn mạnh tới lòng tham của người anh trai để nhắc nhở các em nhỏ hãy tránh xa tính tham lam đó. Các em hãy sống thật thà, lương thiện. Truyện mở đầu bằng câu thơ mang tính cảnh báo: “Chim trời cũng ghét đứa tham” Sự tham lam của người anh thể hiện ở việc ra đảo nhét đầy vàng vào người và cả túi chín gang: “Giữa vời trời bể mênh mang Chim bay mỗi lúc sức càng yếu hơn Dặn lòng cất tiếng van lơn: Túi vàng đầy, bớt vài hòn là bao Cầm vàng mà vứt được sao Anh tham đút ngón tay vào lỗ tai”. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan