Gia Lai nguồồn gồốc tên gọi bắốt nguồồn từ ch ữ Jarai, tên gọi của một tộc người bản địa có sồố dân đồng nhâốt
trong tỉnh, cách gọi này vâẫn còn giữ trong têống c ủa ng ười Eđê, Bana, Lào, Thái Lan và Campuchia đ ể g ọi
vùng đâốt này là Jarai, Charay,Ya-Ray có nghĩa là vùng đấất của người Jarai, có lẽẫ ám chỉ vùng đâốt của
Thủy Xá và Hỏa Xá thuộc tểu quồốc Jarai xưa. Đây là một tỉnh miêồn núi nắồm ở khu v ực phía bắốc cao
nguyên Trung Bộ thuộc vùng Tây Nguyên Việt Nam. Tỉnh Gia Lai được tái lập vào ngày 12 tháng 8 nắm
1991, Gia Lai - Kon Tum tách thành hai tỉnh là Gia Lai và Kon Tum.
Vị trí địa lý
Gia Lai là một tỉnh vùng cao nằm ở phía bắc Tây Nguyên trên độ cao trung bình 700 - 800 mét
so với mực nước biển[3]. Tỉnh Gia Lai trải dài từ 12°58'20" đến 14°36'30" vĩ bắc, từ 107°27'23"
đến 108°54'40"kinh đông. Phía đông của tỉnh giáp với các tỉnh là Quảng Ngãi, Bình Định và Phú
Yên[4]. Phía tây giáp tỉnh Ratanakiri thuộc Campuchia, có đường biên giới chạy dài khoảng
90 km. Phía nam giáp tỉnh Đắk Lắk, và phía phía bắc của tỉnh giáp tỉnh Kon Tum[5].
Điều kiện tự nhiên
Gia Lai nằm trên một phần của nền đá cổ rộng lớn, dày trên 4.000 m, thuộc Địa khối Kon Tum.
Địa hình thấp dần từ bắc xuống nam và nghiêng từ đông sang tây, với các đồi núi, cao nguyên và
thung lũng xen kẽ nhau khá phức tạp. Địa hình Gia Lai có thể chia thành 3 dạng chính là địa hình
đồi núi, cao nguyên và thung lũng[6]. Trong đó, Cao nguyên là dạng địa hình phổ biến và quan
trọng của Gia Lai, với hai cao nguyên là Cao nguyên Kon Hà Nừng và Cao nguyên Pleiku. Địa
hình thứ hai là địa hình đồi núi, chiếm 2/5 diện tích tự nhiên toàn tỉnh[6], phần lớn nằm ở phía
bắc, địa hình núi phân cách mạnh, bề mặt các dạng địa hình khác của Gia Lai như các cao
nguyên, những thung lũng đồng bằng cũng đều rải rác có núi. Địa hình thứ ba là Các vùng trũng,
những vùng này sớm được con người khai thác để sản xuất lương thực. Hầu hết các vùng trũng
nằm ở phía đông của tỉnh. Ngoài ra đất đai Gia Lai được chia làm 26 loại khác nhau, gồm 7
nhóm chính[7].
Đường phố ở Pleiku, Gia Lai
Gia Lai thuộc vùng khí hậu cao nguyên nhiệt đới gió mùa, dồi dào về độ ẩm, có lượng mưa lớn,
không có bão và sương muối. Khí hậu ở đây được chia làm 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô.
Trong đó, mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 10. Mùa khô từ tháng 11
đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm là 22 – 250C. Vùng vùng Đông Trường Sơn từ
1.200 – 1.750 mm, Tây Trường Sơn có lượng mưa trung bình năm từ 2.200 – 2.500 mm. Khí hậu
và thổ nhưỡng Gia Lai rất thích hợp cho việc phát triển nhiều loại cây công nghiệp ngắn và dài
ngày, chăn nuôi và kinh doanh tổng hợp nông lâm nghiệp đem lại hiệu quả kinh tế cao[6].
Toàn tỉnh có 27 loại đất, được hình thành trên nhiều loại đá mẹ thuộc 7 nhóm chính. Tài nguyên
khoáng sản là một tiềm năng kinh tế quan trọng của tỉnh Gia Lai, với nhiều khoáng sản, nổi bật
nhất là vàng, nguồn vật liệu xây dựng, bôxit và đá
Lịch sử
Tỉnh Gia Lai ngày nay xưa kia là địa bàn sinh sống lâu đời của các dân tộc Jrai, Bahnar có tập
quán sống thành từng làng. Trước khi người Pháp đặt ách đô hộ lên Tây nguyên, các dân tộc Gia
Lai đang ở giai đoạn cuối của xã hội nguyên thuỷ chuyển sang giai đoạn xã hội có giai cấp[10].
Từ những năm đầu thập niên 40 của thế kỷ XIX, các giáo sĩ người Pháp bắt đầu truyền đạo ở khu
vực cư trú của người Bahnar thuộc xã Hà Tây thuộc huyện Chư Pah và xã Hà Đông thuộc địa
phận huyện Đak Đoa ngày nay. Lúc này người Pháp ngày càng tiến sâu vào Bắc Tây Nguyên,
đồng thời tạo nên những xáo trộn mới bằng những chính sách chia để trị, dựa vào nhóm này để
chống nhóm khác, chia rẽ Kinh - Thượng, chia rẽ các dân tộc trong tỉnh, trong khu vực với nhau.
Cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, Pháp đã từng bước thiết lập bộ máy cai trị trên đất Gia Lai.
Sau nhiều lần thay đổi, sáp nhập, chia tách để thành lập các đơn vị hành chính trên vùng Tây
Nguyên, ngày 24 tháng 5 năm 1932, theo Nghị định Toàn quyền Đông Dương lúc này tỉnh
Pleiku được thành lập.
Đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, tỉnh Pleiku có Thị xã Pleiku[11], huyện An Khê, huyện
Plei kli, huyện Chư Ty và huyện Cheo Reo.
Sau năm 1945, chính quyền cách mạng gọi là tỉnh Gia Lai. Tháng 6 năm 1946, Pháp chiếm lại
vùng đất Gia Lai và gọi tên đây là tỉnh Pleiku. Giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1954, tỉnh Pleiku
nói riêng, Tây Nguyên nói chung trải qua nhiều lần chủ thể cai quản theo các văn bản của chính
quyền thực dân. Thông tin lịch sử tỉnh Gia Lai, Tỉnh Gia Lai..
Tập tin:Chùa Minh Thành, Pleiku, Gia Lai.JPG
Chùa Minh Thành, Pleiku, Gia Lai
Tuy nhiên về phía chính quyền cách mạng, trong những năm kháng chiến chống Pháp, vẫn gọi là
tỉnh Gia Lai, nhưng qua từng thời điểm khác nhau, tỉnh Gia Lai lại thuộc sự chỉ đạo trực tiếp của
các cơ quan khác nhau trong khu vực, các huyện trong tỉnh cũng nhiều lần thay đổi tên gọi và địa
giới hành chính.
Dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa thì tỉnh mang tên Pleiku với ba quận. Năm 1962 tách quận
Cheo Reo lập tỉnh Phú Bổn nên Pleiku chỉ còn hai quận: Lệ Trung và Lệ Thanh. trước năm 1958
thì đổi Lệ Thanh thành Thanh An.
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, thực hiện theo Nghị quyết của Bộ Chính trị, hợp nhất hai tỉnh Gia
Lai và Kon Tum thành tỉnh mới là Gia Lai - Kon Tum.
Ngày 23 tháng 4 năm 1979, chia huyện Ayun Pa thành 2 huyện: Ayun Pa và Krông Pa.[12]
Ngày 17 tháng 8 năm 1981, thành lập huyện Chư Sê trên cơ sở tách ra từ 2 huyện Chư Prông và
Mang Yang.[13]
Ngày 28 tháng 12 năm 1984, chia huyện An Khê thành 2 huyện: An Khê và K'Bang.[14]
Ngày 30 tháng 5 năm 1988, chia tiếp huyện An Khê thành 2 huyện: An Khê và Kông Chro.
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, theo Nghị quyết kỳ họp thứ 9 của Quốc hội khoá VIII, Gia Lai - Kon
Tum tách thành hai tỉnh là Gia Lai và Kon Tum[15]. Khi tách ra, tỉnh Gia Lai có tỉnh lị là thị xã
Pleiku và 9 huyện: An Khê, Ayun Pa, Chư Păh, Chư Prông, Chư Sê, KBang, Kông Chro, Krông
Pa, Mang Yang.
Ngày 15 tháng 10 năm 1991, thành lập huyện Đức Cơ trên cơ sở tách ra từ 2 huyện Chư Pah và
Chư Prông.[16]
Ngày 11 tháng 11 năm 1996, chia huyện Chư Pah thành 2 huyện: Chư Pah và Ia Grai.[17]
Ngày 21 tháng 8 năm 2000, chia huyện Mang Yang thành 2 huyện: Mang Yang và Đak Đoa.[18]
Ngày 18 tháng 12 năm 2002, chia huyện Ayun Pa thành 2 huyện: Ayun Pa và Ia Pa.[19]
Ngày 9 tháng 12 năm 2003, chia huyện An Khê thành thị xã An Khê và huyện Đak Pơ.[20]
Ngày 26 tháng 4 năm 2007, chia huyện Ayun Pa thành thị xã Ayun Pa và huyện Phú Thiện.[21]
Ngày 27 tháng 8 năm 2009, chia huyện Chư Sê thành 2 huyện: Chư Sê và Chư Pưh.[22]
Lịch sử phát triển
dân số
Năm
Dân số
1995
850.700
1996
881.500
1997
912.800
1998
946.100
1999
981.500
2000 1.026.300
2001 1.065.600
2002 1.092.900
2003 1.119.100
2004 1.147.100
2005 1.174.600
2006 1.200.500
2007 1.225.500
2008 1.251.300
2009 1.281.000
2010 1.301.600
2011 1.322.000
Nguồn:[23]
Dân số
Tính đến năm 2011, dân số toàn tỉnh Gia Lai đạt gần 1.322.000 người, mật độ dân số đạt 85
người/km²[24] Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 399.900 người[25], dân số sống tại nông
thôn đạt 922.100 người[26]. Dân số nam đạt 671.200 người[27], trong khi đó nữ đạt 650.800
người[28]. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 17,2 ‰[29]
Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Gia
Lai có 38 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc kinh chiếm nhiều nhất với
713.403 người, người Gia Rai có 372.302 người, người Ba Na có 150.416 người, người Tày có
10.107 người, người Nùng có 10.045 người, tiếp theo là người Mường có 6.133 người, người
thái có 3.584 người, người Dao có 4.420 người, cùng các dân tộc ít người khác như Người
Mông, người Hoa, người Ê Đê[30]...
Đèo An Khê, Gia Lai-Bình Định
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, Toàn tỉnh Gia Lai có 10 Tôn giáo khác nhau chiếm 312.272
người, Trong đó, nhiều nhất là Công giáo có 114.822 người, đạo Tin Lành có 110.114 người,
xếp thứ ba là Phật giáo có 84.214 người, đạo Cao Đài có 2.971 người, cùng các đạo khác như
Bahá'í có 59 người, Phật giáo Hòa Hảo có 41 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 23 người, Minh
Lý Đạo có 18 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 5 người, ít nhất là Hồi Giáo với 4 người
[30]
.
Kinh tế
Gia Lai có tiềm năng về thủy điện rất lớn với trữ năng lý thuyết khoảng 10,5 – 11 tỷ kW, trữ
năng kinh tế kỹ thuật là 7,1 tỷ kW với công suất lắp máy 1.502 MWh[31]. Ngoài 4 công trình thuỷ
điện lớn có công suất lắp máy 1.422 MW, còn có 85 công trình thuỷ điện nhỏ với công suất
80.200 kW phân bổ khá đều khắp, tạo điều kiện cho phát triển sản xuất. Bên cạnh đó, công trình
thuỷ điện Yaly với công suất 720 MW và sản lượng điện 3,68 tỷ kWh đã hoàn thành vào tháng
4/2002 có tác động lớn đến phát triển các ngành kinh tế của tỉnh, đảm bảo nhu cầu năng lượng
cho toàn vùng. Thuỷ điện Sê San 3 với công suất thiết kế 273 MW, gồm 2 tổ máy có tổng công
suất 260 MW, sản lượng điện trung bình hàng năm 1,12 tỉ KWh điện, nằm trên phía hạ lưu của
thủy điện Ia Ly[32]. Tổng trữ lượng nguồn nước mặt khoảng 24 tỷ m3. Đây chính là những tiềm
năng lớn để công nghiệp điện năng được coi là công nghiệp mũi nhọn ở Gia Lai. Tỉnh Gia Lai
hiện có 4 nhà máy thuỷ điện lớn có công suất lớn hơn 100MW, gồm có Yali, Kanak-An Khê,
Sêsan 3, và Sêsan 4[33].
Trụ sở UBND huyện Đak Pơ
Tổng thu ngân sách từ sau giải phóng đến năm 1991 chỉ đạt 40 tỷ đồng, năm 2001 đạt 256 tỷ
đồng, đến năm 2010 đạt 2.300 tỷ đồng và năm 2011 đạt 3.200 tỷ đồng. Chất lượng cuộc sống của
người dân được nâng lên rõ rệt, GDP bình quân đầu người năm 2011 đạt 19,5 triệu đồng, gấp
3,82 lần so với năm 2005, gấp 6,5 lần so với năm 2000[34].
Giai đoạn 6 tháng đầu năm 2012, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 4,38% so với cùng kỳ
năm 2011, giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,8% so với cùng kỳ, trong đó nông
nghiệp tăng 3%, lâm nghiệp tăng 5,7% và thủy sản tăng 5,8%[35]. Trong khi đó, chỉ số sản xuất
công nghiệp tăng 4,5%. Đáng chú ý một số ngành công nghiệp có mức tăng cao là đóng và sửa
chữa tàu, chế biến bảo quản rau quả, sản xuất sản phẩm bơ sữa...Chỉ số tiêu thụ của ngành công
nghiệp chế biến 6 tháng chỉ tăng 3,6% so với cùng kỳ, thấp hơn nhiều so với mức 17,5% của
năm ngoái. Chỉ số tồn kho của ngành này tăng 26%. Những ngành có chỉ số tồn kho tăng cao là
sản xuất giấy và bao bì 130%, sản xuất xe có động cơ 116,7%, chế biến và bảo quản rau quả
113,3%[36]...
Giao thông
Giao thông Gia Lai khá thuận lợi không những về đường bộ mà còn cả đường hàng không. Tỉnh
có Quốc lộ 14 nối các tỉnh Đắk Lắk, Kontum thông đến Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, đặc
biệt tuyến đường Hồ Chí Minh đã rút ngắn khoảng cách từ Gia Lai đến các trung tâm kinh tế
chính trị lớn của cả nước. Các tuyến Quốc lộ 19 xuống thành phố Quy Nhơn, thuộc Bình Định,
Quốc lộ 25 đến Tuy Hoà, thuộc địa phận tỉnh Phú Yên. Ngoài ra, Sân bay Pleiku của Gia Lai, có
đường bay nối Pleiku với các thành phố lớn là Đà Nẵng[37], Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Y tế & Giáo dục
Y tế
Những năm gần đây hệ thống y tế Gia Lai từng bước được cải thiện và nâng lên về mặt chất
lượng. Việc cung ứng các dịch vụ y tế được mở rộng, tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số được khám
chữa bệnh và hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng[35].
Theo số liệu thống kê từ Sở Y tế, tỉnh Gia Lai có 5 bệnh viện, 2 chi cục (là Dân số- Kế hoạch
hóa gia đình và An toàn Vệ sinh Thực phẩm), 7 trung tâm y tế dự phòng, trường trung cấp y tế,
trung tâm giám định sức khỏe và ban quản lý dự án đầu tư Chuyên ngành Y tế. Có 17 Phòng Y
tế, 17 Trung tâm Y tế huyện, 17 Trung tâm Dân số- Kế hoạch hóa gia đình, 222 xã, phường, thị
trấn có y tế hoạt động, trong đó có 208 trạm y tế xã và 14 trạm y tế trung tâm cấp xã[38].
Thị trấn Đak Đoa, Gia Lai
Giáo dục
Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Gia Lai có 530 trường học
ở cấp phổ, trong đó có Trung học phổ thông có 39 trường, Trung học cơ sở có 188 trường, Tiểu
học có 260 trường, trung học có 2 trường và 41 trường phổ thông cơ sở, bên cạnh đó còn có 236
trường mẫu giáo[39]. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn Tỉnh Gia Lai
cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh[39].
Du lịch
Chùa Minh Thành
Tiềm năng du lịch của Gia Lai rất phong phú, đa dạng với núi rùng cao có nhiều cảnh quan tự
nhiên và nhân tạo. Rừng nguyên sinh nơi đây có hệ thống động thực vật phong phú, nhiều ghềnh
thác, suối, hồ như Biển Hồ là một thắng cảnh nổi tiếng, ngoài ra có chùa Minh Thành (Gia Lai).
Nhiều đồi núi như cổng trời Mang Yang, đỉnh Hàm Rồng. Các cảnh quan nhân tạo có các rừng
cao su, đồi chè, cà phê bạt ngàn. Kết hợp với tuyến đường rừng, có các tuyến dã ngoại bằng
thuyền trên sông, cưỡi voi xuyên rừng,v.v…
Ngoài ra, Gia Lai còn có nền văn hoá lâu đời của đồng bào dân tộc, chủ yếu là dân tộc Giarai và
Bana thể hiện qua kiến trúc nhà rông, nhà sàn, nhà mồ, qua lễ hội truyền thống, qua y phục và
nhạc cụ..
Các nhạc cụ đặc trưng của các dân tộc thiểu số như Cồng chiêng, Đàn đá, Đàn K'ni, K'lông pút,
Đàn Goong, T'rưng, Alal...Các lễ hội như Lễ hội đâm trâu, Lễ ăn cơm mới, Lễ bỏ mả..Ngoài ra,
Tỉnh còn có các móm đặc sản như Rượu cần, Cơm cháy - Rượu nếp, Phở khô (Loại phở hai tô)
và điêu khắc nổi tiếng là Tượng nhà mồ.
- Xem thêm -