Khoá luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và mở rộng hội nhập quốc tế. Quá trình này đòi hỏi và cho phép tất cả các
ngành kinh tế nói chung và từng ngành nói riêng vừa có thể phát triển theo
hướng sử dụng nhiều lao động, nhưng đồng thời chúng ta cũng có thể đi ngay
vào một số ngành, một số lĩnh vực có công nghệ cao, hiện đại, trong đó có
ngành công nghiệp ô tô .
Sau nhiều năm tìm hướng đi, từ năm 1991 đến nay ngành công nghiệp
ô tô của nước ta từng bước hình thành, không những cung cấp cho sản xuất
và tiêu dùng trong nước một số lượng ô tô nhất định, giảm bớt phần nhập
khẩu, mà còn đóng góp đáng kể vào thu ngân sách và tạo thêm việc làm mới.
Hơn nữa chúng ta bước đầu đã đưa ô tô trở thành một mặt hàng xuất khẩu với
lô hàng ô tô đầu tiên xuất sang Trung Đông năm 2000. Sự phát triển của
ngành có phần đóng góp không nhỏ của của các nhà đầu tư nước ngoài về vốn
đầu tư, về công nghệ và cả kinh nghiệm quản lý. Tuy nhiên, qua hơn 10 năm
phát triển, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn
và thách thức, đòi hỏi phải được nghiên cứu, phân tích một cách đầy đủ thì mới
có thể xây dựng được chiến lược tổng thể phát triển ngành công nghiệp này trong
thời gian tới một cách khả thi, hiệu quả và bền vững.
Với mong muốn tìm hiểu và góp phần nhỏ bé của mình vào việc đánh
giá những mặt được và chưa được trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào ngành công nghiệp ô tô của nước ta, trên cơ sở đó mạnh dạn đề xuất một
số giải pháp nâng cao hiệu quả của các liên doanh sản xuất và lắp ráp ô tô
Trịnh Xuân Tới A4 K37
1
Khoá luận tốt nghiệp
hiện có, em đã chọn và viết khoá luận tốt nghiệp với đề tài: ” Đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong ngành công nghiệp ô tô ” với 3 phần chính:
Chương I: Sự ra đời và phát triển của ngành công nghiệp ô tô
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công
nghiệp ô tô Việt Nam
Chương III: Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam
đến năm 2010 và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào ngành công nghiệp ô tô Việt Nam
Em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Phạm Thị Mai Khanh đã tận tình
chỉ đạo, hướng dẫn, tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành tốt khoá luận tốt
nghiệp của mình.
Trịnh Xuân Tới A4 K37
2
Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG I
SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH CÔNG
NGHIỆP Ô TÔ
I.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ
THẾ GIỚI
1. Sự ra đời của ngành công nghiệp ô tô
Cùng với các nhu cầu về “ăn”, “mặc”, “ở”, thì “đi lại” là một trong bốn
nhu cầu cần thiết của con người trong sinh hoạt hàng ngày. Từ việc mong
muốn sao cho đi lại được tiện lợi hơn, nhanh hơn, đỡ tốn sức hơn, nhân loại
đã sáng tạo ra nhiều loại phương tiện khác nhau như: xe ngựa, xe đạp, xe
điện, máy bay,… Với ưu điểm tốc độ di chuyển cao, cơ động, không tốn sức,
ô tô đã trở thành phương tiện hữu ích ở tất cả các quốc gia trên thế giới và là
phương tiện không thể thiếu của người dân các nước công nghiệp phát triển.
Năm 1820 ở Đức, lần đầu tiên người ta nhìn thấy một chiếc xe chuyển
động bằng động cơ hơi nước. Chiếc xe vừa to vừa thô kệch lại tuôn ra nhiều
khói nên đã không dược chấp nhận. Cho đến năm 1885 chiếc ô tô chạy bằng
động cơ xăng đầu tiên ra đời do một người Đức có tên là Karl Vesh phát
minh. Chiếc ô tô chạy băng động cơ xăng này đã thực sự trở thành phương
tiện mang tính thực dụng. Nhưng thời đó, ô tô vẫn bị coi là những cỗ máy thô
kệch, là nỗi kinh hoàng của người đi đường và nó không thể sánh được với
những cỗ xe ngựa sang trọng.
Gần 10 năm sau, năm 1892, tại một cuộc triển lãm ở Chicago (Mỹ) đã
xuất hiện một chiếc ô tô chạy bằng động cơ đốt trong, có bốn bánh và hàng
loạt tính năng kỹ thuật mới như hệ thống đánh lửa bằng điện, bộ bơm dầu tự
Trịnh Xuân Tới A4 K37
3
Khoá luận tốt nghiệp
động. Phát minh này là của ông Iacốplép, một kỹ sư cơ khí quân đội Nga, và
nó đã được thử nghiệm thành công. Chiếc xe có thể chạy với tốc độ 20 km/h.
Ngay sau đó, Nga hoàng đã ban sắc lệnh về quy chế và các điều kiện để sử
dụng các loại xe có dộng cơ tự vận hành ở nước Nga. Điều đó có nghĩa là xe
ô tô, bằng hiệu quả thực tế của nó, đã trở thành loại phương tiện của giai cấp
đặc quyền và những người giàu có. Đa số các nhà sản xuất ô tô thời kỳ đó đều
muốn làm sao sản xuất ra được nhiều xe có chất lượng cao mà giá thành thấp.
Mục tiêu đó đã được thực hiện và một kỷ nguyên mới của ô tô bắt đầu: Sản
xuất dây chuyền và ô tô “nhân dân”.
Bắt đầu từ nước Đức, dấu hiệu đầu tiên của việc sản xuất những chiếc ô
tô đặc biệt là ô tô dành cho một ngườivà người sản xuất ra loại ô tô này là ông
Damler Benz. Những chiếc xe này có tên là Mano, được bán với giá mà với
số tiền này vào thời đó người ta có thể mua được một đàn ngựa và thuê rất
nhiều người làm. Như vậy, loại xe này là quá đắt đối với giới bình dân, cho
nên nó chỉ được sản xuất ít nhưng với giá thành cao và đó cũng là một cách
để các nhà sản xuất ô tô làm giàu, còn việc sản xuất thật nhiều với giá thật rẻ
vẫn là điều khó khăn.
Vào năm 1902 ở Pháp, ô tô “Popula” ra đời, người ta gọi là xe nhân
dân. Đây mới chỉ là tên gọi, phải ba năm sau xe Popula mới thực sự đi vào
đời sống của tầng lớp bình dân. Ở Mỹ, có một nhà sản xuất tên là Ranson
Onsu cũng quan tâm đến việc sản xuất những chiêc ô tô dành cho quần chúng
và hàng năm đã có khoảng từ 3.000 dến 4.000 chiếc xe mang nhãn hiệu Onsu
được tung ra thị trường. Nhằm mục đích quảng cáo, hãng này cho phép mọi
người vào tham quan nhà máy của họ. Trong số những người tham quan có
một người thường xuyên có mặt, đó là Henry Ford. Đến năm 1903, sau một
thời gian dài chuẩn bị, Henry Ford đã cho ra đời chiếc xe rẻ tiền đầu tiên của
mình với giá 1.000 $. Lúc đó người Mỹ đang chuộng loại xe Cadillac hay
Pascal với giá thành rất cao. Họ cho rằng những chiếc xe của Ford là để dành
cho những kẻ bất hạnh vì người mua chiếc xe với giá 1.000 $ là kẻ không
Trịnh Xuân Tới A4 K37
4
Khoá luận tốt nghiệp
may. Nhưng Henry Ford đã thành công nhờ những “kẻ bất hạnh” vì họ rất
đông. Đến cuối năm 1928, hãng Ford đã cho ra đời chiếc xe thứ 15 triệu và
Henry Ford trở thành người giàu có nhất trong ngành sản xuất ô tô thế giới.
Ông có công rất lớn trong việc tạo ra những dây chuyền sản xuất xe hơi, biến
những chiếc xe ô tô thành phương tiện đi lại cho người dân. Cơ cấu của dây
chuyền này được chia ra làm nhiều khâu để lắp ráp và như vậy tốc độ lắp ráp
đã tăng lên khoảng 500 lần so với trước và giá cả theo đó cũng giảm đi nhiều.
Cùng với việc phát triển của khoa học kỹ thuật, ô tô ngày càng trở nên
tiện ích và phù hợp với đời sống con người. Mùa xuân năm 1901, chiếc xe có
tên là Mercedes ra đời và ngay lập tức nó đã chinh phục ngay khách hàng khó
tính nhất tại Đức. Loại xe với hệ thống động cơ tuyệt vời đã làm các loại xe
khác cùng thời trở nên lạc hậu khoảng 5 năm. Sau đó vào những năm 30 ở
Đức lại xuất hiện loại xe bọ hung khá nổi tiếng. Nó thực sự là xe nhân dân với
giá rẻ, kích thước gọn nhẹ, tiết kiệm nhiên liệu. Loại xe đó do hãng
Volkswagen sản xuất và nó trở nên nổi tiếng, đặc biệt là sau chiến tranh thế
giới lần II.
Trên thế giới trong lịch sử phát triển ô tô không thể không kể đến nước
Nga. Tình hình sản xuất ô tô của Nga vao những năm 20 của thế kỷ hầu như
chưa có gì. Chỉ có vài cơ sở sản xuất của Nga lúc đó nhập các loại khung xe,
các chi tiết máy, sau đó hoàn thiện tại nhà máy cơ khí mang tên Piôt
Alêchxây Evic và đó là cơ sở hình thành các xí nghiệp liên doanh sản xuất ô
tô đầu tiên. Năm 1945, nhà máy sản xuất ô tô Gaz đã tung ra loại xe mới có
tên ”Chiến thắng” với động cơ gây được sự chú ý và giá rẻ. Năm 1960, chính
phủ Italia đã ký kết hiệp định với chính phủ Liên Xô (cũ) về việc sản xuất loại
xe ô tô rất nổi tiếng là Lada. Vào thập kỷ 70 ở Liên xô, ngành công nghiệp ô
tô phát triển mạnh, mỗi ngày bình quân có khoảng vài trăm chiếc ô tô được
xuất xưởng và mỗi năm lại có một kiểu ô tô mới ra đời.
Trở lại trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, ở Texas miền Tây Nam
nước Mỹ khi những mỏ dầu được khai thác với quy mô lớn làm giá xăng dầu
Trịnh Xuân Tới A4 K37
5
Khoá luận tốt nghiệp
giảm mạnh thì lượng xe hơi ngày càng tăng lên và dần tiến vào xã hội. Lúc
này quy trình sản xuất xe hơi đã trở nên ưu việt, nước Mỹ đã biến thành xã
hội phát triển với đủ loại xe hơi. Trong những năm từ 1939 đến 1945 chiến
tranh thế giới nổ ra thì những nhà máy ô tô được biến thành nơi sản xuất quân
trang hoặc chế tạo vũ khí. Sau chiến tranh, ngành công nghiệp ô tô lại một lần
nữa lên ngôi. Kỹ thuật cơ bản về sản xuất ô tô đã được hoàn thiện hơn, xe hơi
của Mỹ đã cạnh tranh mạnh mẽ với các loại xe khác nhờ trong xe có điều hoà
nhiệt độ và kèm theo hàng loạt chức năng khác. Những kỹ thuật lắp ráp xe hơi
bắt đầu phát triển cao không cần đến sự can thiệp của con người, ô tô được
sản xuất hàng loạt.
Cùng thời gian đó, Nhật Bản, một nước bại trận nhưng đã phát triển
kinh tế với một tiềm lực phi thường. Người Nhật Bản sang Mỹ để học kinh
nghiệm chế tạo ô tô và họ đã thành công, trở thành một trong những nước có
ngành công nghiệp ô tô phát triển nhất thế giới.
Ngày nay, sản xuất ô tô đã trở thành một ngành công nghiệp chủ yếu
của thế giới. Công nghiệp ô tô được đánh giá là bộ mặt cho nền công nghiệp
mỗi quốc gia. Tổng số ô tô trên thế giới hiện nay khoảng 660 triệu xe. Số
lượng này hầu như không tăng giảm trong nhiều năm gần đây và sản lượng ô
tô thế giới gần như ổn định quanh con số khoảng 50 -52 triệu xe/năm, tập
trung vào 3 trung tâm công nghiệp lớn là Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản. Tuy
nhiên, trong những năm gần đây, Đông Nam Á và Châu Á cũng đang nổi lên
và có xu hướng là một trung tâm công nghiệp ô tô của thế giới trong tương lai
(đáng kể là Hàn Quốc, Thái Lan và Trung Quốc). Các hãng sản xuất ô tô hàng
đầu thế giới hiện nay là: TOYOTA, FORD, CHRYSLER, GM, VW, FIAT,
NISSAN, MISUBISHI, PEUGEOT,…
Theo tạp chí ô tô xe máy, năm 2000 ở Mỹ, quốc gia giàu có nhất thế
giới, cứ 1,3 người dân Mỹ thì có 1 xe ô tô, ở Canada số người dân trên 1 ô tô
là 1,6; ở Italia con số tương ứng là 1,8; ở Đài Loan là 4,7 và Hàn Quốc là 7.
Còn ở Việt Nam hiện nay (tính đến thời điểm 30/6/2002), một đất nước đang
Trịnh Xuân Tới A4 K37
6
Khoá luận tốt nghiệp
trên đà phát triển, với hơn 80 triệu dân, thì số người bình quân trên 1 chiếc ô
tô là 139.
Ngày nay sản xuất ô tô đã mang tính quốc tế và toàn cầu, sự hợp tác và
chuyên môn hoá sản xuất không có biên giới, khoảng cách địa lý và không
gian hầu như không có ý nghĩa. Sự đầu tư của các nước đan xen nhau và hoà
lẫn nhau. Điều đó giải thích một phần cho sự thâm nhập ồ ạt của các hãng sản
xuất ô tô hàng đầu thế giới vào Việt Nam thời gian qua.
2. Đặc điểm của ngành sản xuất ô tô
2.1. Về vốn đầu tư
So với vốn đầu tư vào đại bộ phận các ngành công nghiệp khác, vốn
đầu tư vào sản xuất ô tô cao hơn rất nhiều, trung bình để sản xuất một xe ô tô
cần khoảng 15.000-20.000 USD. Mỗi ô tô có đến 20.000 -30.000 chi tiết, bộ
phận khác nhau. Các chi tiết, bộ phận lại được sản xuất với những công nghệ
có đặc điểm khác biệt, do vậy vốn đầu tư cho việc sản xuất 20.000- 30.000 chi tiết
thường rất lớn.
Thêm vào đó, do đặc điểm của ngành là không ngừng vận dụng các tiến
bộ kỹ thuật vào sản xuất. Vì thế, ngoài các khoản chi phí ban đầu bao gồm chi
phí xây mới nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị kỹ thuật, đào tạo công nhân
lành nghề,…và các khoản chi thường xuyên như mua nguyên vật liệu, bảo
dưỡng nhà xưởng, máy móc, bảo quản hàng hoá,…thì chi phí cho công tác
nghiên cứu và triển khai (R&D) trong lĩnh vực ô tô cũng chiếm một phần
đáng kể trong tổng vốn đầu tư ban đầu và tăng thêm.
2.2. Về công nghệ kỹ thuật
Đây là lĩnh vực đòi hỏi công nghệ kỹ thuật tiên tiến, hiện đại. Một sản
phẩm ô tô được tung ra trên thị trường là sự kết hợp của hàng nghìn, hàng vạn
chi tiết các loại, không giống nhau. Mỗi chi tiết đều có những tiêu chuẩn kỹ
Trịnh Xuân Tới A4 K37
7
Khoá luận tốt nghiệp
thuật riêng và được chế tạo theo phương pháp riêng ở những điều kiện khác
nhau nhưng vẫn đảm bảo tính đồng bộ của sản phẩm. Khi công nghiệp ô tô
phát triển, xuất hiện nhiều chi tiết vượt quá khả năng thao tác của con người,
yêu cầu phải có sự trợ giúp của máy móc kỹ thuật. Máy móc kỹ thuật càng
hiện đại càng giảm bớt sự nặng nhọc và nguy hiểm; nhưng điều quan trọng
hơn là dưới sự điều khiển của con người, những máy móc hiện đại có thể chế
tạo và lắp ráp các chi tiết thành sản phẩm cuối cùng với xác suất sai sót không đáng kể.
2.3. Về lao động
Hiện nay, ngành sản xuất ô tô không còn sử dụng một số lượng lớn lao
động như thời kỳ trước và như một số ngành sản xuất vật chất khác (lương
thực, dệt may, khai khoáng,…) do đã áp dụng nhiều tiến bộ của khoa học kỹ
thuật. Trong phần lớn các nhà máy lắp ráp ô tô trên thế giới, người ta ít thấy
bóng dáng con người, công việc sản xuất đều do các rôbôt đảm nhận, con
người chỉ điều khiển máy móc chính. Do vậy, số lượng lao động làm việc
trong ngành không cao. Thêm vào đó, để có thể sử dụng thành thạo các máy
móc hiện đại, những người công nhân phải có tay nghề cao, được đào tạo bài
bản, đòi hỏi có chi phí lớn và thời gian dài cho đào tạo. Mặc dù ưu thế của các
nước đang phát triển là có nguồn nhân công dồi dào với tiền công thấp nhưng
hạn chế lớn trong ưu thế này lại là chất lượng nguồn lao động không cao.
Vì vậy, có thể khẳng định ngành không tận dụng được nhiều lợi thế so
sánh về nguồn lao động của các nước đang phát triển (dồi dào về số lượng,
chi phí nhân công thấp). Thêm vào đó có thể thấy được đây là một khó khăn
lớn cho các nước đang phát triển trong quá trình xây dựng và phát triển ngành
công nghiệp ô tô bởi đây là một ngành khá mới mẻ, kiến thức nghề nghiệp và
kinh nghiệm của người công nhân còn non.
Trịnh Xuân Tới A4 K37
8
Khoá luận tốt nghiệp
3. Vai trò của ngành công nghiệp ô tô
Bên cạnh vai trò cung cấp phương tiện đi lại tối ưu, từ việc gắn chặt với
các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghiệp ô tô còn đóng vai trò thúc đẩy phát
triển khoa học kỹ thuật của các quốc gia có ngành sản xuất ô tô, đặc biệt là
khoa học điện tử, tự động hoá, công nghệ vật liệu mới. Sở dĩ như vậy là do
nguồn gốc xuất xứ của các sản phẩm ô tô là từ các nước công nghiệp phát
triển. Đứng trước nhu cầu ngày càng cao của các khách hàng khó tính, các
hãng sản xuất không ngừng đẩy mạnh công tác nghiên cứu phát triển sản
phẩm để nắm chắc và phát triển thị phần của mình. Chiếc ô tô đầu tiên xuất
hiện vào năm 1885 ở Đức, chạy bằng động cơ xăng bị cho là những cỗ máy
thô kệch, là nỗi kinh hoàng của người đi đường đã buộc các nhà khoa học
phải nghiên cứu một sản phẩm khác và năm 1892 chiếc ô tô chạy bằng động
cơ đốt trong đã ra đời. Còn đối với các nước có nền kinh tế ít phát triển thì
việc xây dựng ngành công nghiệp ô tô từ sự trợ giúp của nước ngoài đã thúc
đẩy tiến bộ trong kỹ thuật và công nghệ không chỉ cho riêng ngành công
nghiệp ô tô mà còn tác động đến nhiều ngành liên quan khác như ngành hoá
chất, điện tử,…Tính đến cuối thế kỷ XX, thế giới có khoảng 170 nước có
công nghiệp chế tạo hoặc lắp ráp ô tô, vì các quốc gia đều hiểu và xác định
được ngành sản xuất ô tô là động lực phát triển cho các ngành liên quan. Hiện
ngành đang tiêu thụ 77% cao su tự nhiên, 67% sản lượng chì, 64% gang đúc,
50% cao su tổng hợp, 40% máy công cụ, 25% vật liệu bán dẫn, 18% nhôm,
12% thép và một số lượng khổng lồ các nhiên liệu gồm: xăng, dầu diesel, dầu
nhờn,…Ngoài ra, cứ 1 đồng vốn cho sản xuất ô tô của thế giới thì phải đầu tư
8 đồng vốn cho các ngành công nghiệp phụ cận và bình quân cứ 7 chỗ làm
việc thì có 1 người thuộc lĩnh vực lắp ráp & chế tạo ô tô.
Như vậy, vai trò then chốt của ngành công nghiệp ô tô trong phát triển
kinh tế ở mỗi quốc gia là không thể phủ nhận. Công nghiệp ô tô không chỉ là
một ngành sản xuất vật chất đơn thuần mà nó còn là động lực thúc đẩy sự
Trịnh Xuân Tới A4 K37
9
Khoá luận tốt nghiệp
phát triển của nhiều ngành, lĩnh vực có liên quan và là động lực quan trọng
thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng các thành tựu khoa học - kỹ thuật ở các quốc
gia có ngành công nghiệp này.
II.
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ
TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ KHU VỰC
1. Các nước công nghiệp phát triển có thị trường ô tô đã bão
hoà
Trong sản xuất ô tô một yếu tố quan trọng là quy mô thị trường và quy
mô sản xuất có hiệu quả kinh tế, để tối đa hoá lợi nhuận buộc các nhà sản
xuất phải tổ chức sản xuất hàng loạt lớn. Sở dĩ như vậy là do, một số bộ phận
chính của ô tô cần phải được sản xuất với số lượng lớn mới đảm bảo có hiệu
quả. Nhưng do đặc điểm dân số ở những nước này là không đông nên mặc dù
khả năng mua sắm ô tô là có thì số lượng ô tô tiêu thụ vẫn là không nhiều, tốc
độ tiêu dùng tăng rất ít. Các nhà sản xuất ô tô ở đây không thể tìm kiếm lợi
nhuận theo cách thông thường, mà họ đã chọn các loại xe không thông dụng,
xe chuyên dùng và xe con cao cấp có giá trị cao. Sản lượng được họ lựa chọn
để sản xuất đều là với số lượng ít như sau:
- Sản xuất các loại xe con cao cấp
- Sản xuất các loại xe bus, xe tải lớn
- Sản xuất các loại xe tải chuyên dụng trên cơ sở khung xe và động cơ
của các loại cơ bản đã môđun hoá nên nhờ tính thống nhất này mà sự đa dạng
của các loại xe trên không bị phá vỡ và không đi ngược với quy mô sản xuất
có tính kinh tế
Với các loại xe chuyên dùng này, vì số lượng ít, khó có thể sản xuất tự
động hoá (vì giá thành cao) nên nước nào sản xuất cũng có chi phí giống
nhau, các cường quốc ô tô ít làm loại này (vì tập trung vào làm các loại xe có
số lượng lớn); do đó, các nước nhỏ vẫn có chỗ đứng trong công nghiệp sản
xuất ô tô thế giới, mặc dù sản lượng nhỏ nhưng doanh số không nhỏ. Còn với
các loại xe cao cấp, mặc dù sản lượng ít nhưng giá bán cao nên vẫn thu được
Trịnh Xuân Tới A4 K37
10
Khoá luận tốt nghiệp
lợi nhuận cao. Tuy nhiên, để sản xuất được loại xe này đòi hỏi trình độ công
nghệ cao, vốn đầu tư lớn.
Châu Âu và Mỹ
Ngành công nghiệp ô tô của Mỹ và Châu Âu đã được hình thành từ rất
sớm như đã giới thiệu ở phần đầu. Theo hiệp hội các nhà sản xuất ô tô quốc
tế, cứ 3 xe sản xuất tại Mỹ thì có một xe mang nhãn hiệu nước ngoài, do các
nhà sản xuất nước ngoài đầu tư tại Mỹ làm ra. Cứ 3 xe xuất khẩu tại Mỹ thì
có 2 xe của các hãng nước ngoài va số xe nước ngoài xuất khẩu từ Mỹ bằng
tổng số xe 2 hãng lớn của Mỹ là Ford Motor và Chrysler cộng lại. Đứng trước
tình hình này, ngành công nghiệp ô tô của Mỹ đang có xu hướng quốc tế hoá.
Để chống lại ảnh hưởng của các hãng nước ngoài, các nhà chiến lược công
nghiệp ô tô Mỹ đã tiến hành một chiến lược vươn ra nước ngoài. Điển hình
cho hướng đi này là sự hợp nhất giữa Chrysler và Daimler Benz của Đức để
lập Daimler Chrysler AC. Ford Motor cũng tham gia đấu thầu mua Kia của
Hàn Quốc và mua nhiều cổ phiếu của các nhà sản xuất ô tô khác.
Nhật Bản
Ở Nhật Bản, trước chiến tranh thị trường ô tô còn nhỏ bé, nói tới ngành
công nghiệp ô tô chỉ là nói tới những xe tải dùng cho quân sự. Do chiến tranh,
thiết bị sản xuất xuống cấp, năng lực sản xuất năm 1941 còn là 49.000
chiếc/năm mà đến tháng 8 năm 1945 được đánh giá chỉ còn 22.000
chiếc/năm. Sau chiến tranh, do chỉ có một số nhà máy chế tạo phụ tùng nên
Nhật Bản không có điều kiện hình thành ngành công nghiệp ô tô sau chiến
tranh, nhà nước cũng không chủ động tham gia vào ngành công nghiệp ô tô
và cũng không có chính sách phát triển ngành công nghiệp ô tô tư bản dân
tộc. Việc cấm sản xuất ô tô thương phẩm được quân chiếm đóng bãi bỏ vào
năm 1948, tiếp đó là việc bãi bỏ lệnh cấm sản xuất ô tô con vào năm 1950 đã
tạo ra sự phục hồi cho ngành ô tô và nền kinh tế nói chung. Ít lâu sau đó, Nhật
Bản đã có 11 hãng xe ô tô. Do sức ép của việc phải trả khoản tiền bồi thường
chiến tranh nên Nhật Bản chủ trương hạn chế nhập khẩu ô tô. Được đảm bảo
Trịnh Xuân Tới A4 K37
11
Khoá luận tốt nghiệp
về thị trường nên các nhà sản xuất láp ráp ô tô với những kỹ thuật nhất định
đã dần đưa kỹ thuật từ bên ngoài vào để tăng cường trình độ kỹ thuật cho
mình. Cụ thể năm 1952, Nissan chuyển giao kỹ thuật từ Austin của Anh; năm
1953 Isuzu với Hillman của Anh; Hino với Renault của Pháp,…Trong khi đó
các nhà sản xuất phụ tùng trong quá trình phát triển và chọn lọc đã dần tích tụ
dưới hình thức hệ thống hoá hoặc tự chuyển sang sản xuất. Việc không tồn tại
chính sách cho ngành công nghiệp ô tô của nhà nước chứng tỏ các nhà sản
xuất phải tự nỗ lực bản thân và thành công trong việc nắm được vốn từ thị
trường. Trong chiến tranh Triều Tiên năm 1952, Nhật Bản trở thành căn cứ
sửa chữa xe cấp bách cho Liên hợp quốc nên năm 1956 luật biện pháp lâm
thời để khôi phục ngành cơ khí đã được ban hành nhằm hiện đại hoá ngành
sản xuất phụ tùng ô tô. Năm 1963 việc nhập khẩu ô tô được tự do hoá nhưng
lúc này các hãng ô tô đã có được sức cạnh tranh quốc tế. Quá trình phát triển
sau đó bị chi phối bởi chính sách công nghiệp ô tô của Mỹ-nơi vốn là thị
trường xuất khẩu lớn nhất. Vì lo ngại sẽ để mất thị trường nếu không đối phó
với luật làm cho sạch môi trường không khí được thực hiện ở Mỹ năm 1970
và kế hoạch thực nghiệm các loại xe an toàn do chính phủ Mỹ khởi xướng
năm 1972, các hãng sản xuất lắp ráp ô tô đã đổ xô vào việc phát triển kỹ thuật
độc lập với ý muốn của chính phủ. Năm 1973 khủng hoảng dầu lửa nổ ra, các
xe tiêu thụ ít nhiên kiệu được hoan nghênh ở thị trường trong nước và kết quả
là chiến lược đối phó này đã thành công trong việc mở rộng thị trường Mỹ.
Như vậy thành công của ngành công nghiệp ô tô Nhật Bản dựa vào chính
sách bảo hộ dưới dạng các quy định cấm nhập khẩu xe ô tô được thực hiện
đến năm 1963 và các quy chế về thuế quan. Trong bối cảnh cấm tư bản nước
ngoài tham gia vào thị trường ô tô đến năm 1971, các hãng sản xuất vẫn đạt
hai mục tiêu là thay thế nhập khẩu và thu ngoại tệ. Đồng thời thành công này
còn nhờ vào ân huệ gián tiếp được hưởng bởi chính sách công nghiệp đối với
các ngành khác trong nước; thêm vào đó là các hãng ô tô biết tranh thủ tốt
Trịnh Xuân Tới A4 K37
12
Khoá luận tốt nghiệp
những thay đổi về điều kiện quốc tế. Số liệu ở bảng sau là một minh chứng
cho thành công này.
Bảng 1: Sản lượng ô tô của Nhật Bản theo thời kỳ
Đơn vị: Nghìn chiếc
Năm
1955
1960
1965
1970
1975
1980
Sản xuất
69
481
1.875
5.289
6.941
11.043
Xuất khẩu
1
89
194
1.087
1.677
5.967
Nhập khẩu
7
4
18
20
46
48
Nguồn: Tạp chí công nghiệp
Mexico
Công nghiệp ô tô đang là ngành chủ chốt của Mexico. Từ năm 1925
Mexico đã có công ty lắp ráp ô tô dạng KD của hãng FORD, hãng GM năm
1937, hãng CHRYSLER năm 1983. Nhu cầu ô tô lúc đó chỉ một bộ phận xã
hội nên sản lượng còn hạn chế. Việc nhập khẩu CBU là được phép nhưng
thực tế lại bị cấm nên đến năm 1961 số hãng lắp ráp KD đạt tới 12 hãng.
Những hãng này phát triển tới quy mô sản xuất 60.000 chiếc một năm. Thời
kỳ này chính phủ đề ra chính sách ô tô nhằm thay thế nhập khẩu ô tô con. Nội
dung chủ yếu của pháp lệnh này là cấm nhập khẩu dạng CBU và rút bỏ giấy
phép của những hãng lắp ráp trong nước có tỷ lệ sản xuất trong nước chưa đạt
60%. Từ thập niên 60 bước vào thời kỳ phát triển và trở thành nước sản xuất
ô tô có vị trí cao trên thế giới vào thập niên 80. Số xe ô tô sản xuất năm 1981
đã đạt 597.000 chiếc, bao gồm cả xe ô tô con, xe chở hàng, xe buýt và xe tải,
đứng thứ 12 trên thế giới trong số 50 nước sản xuất ô tô. Ngay cả năm 1985 là
năm đang trong giai đoạn khủng hoảng kéo dài suốt từ năm 1983 đến năm
1989 thì số ô tô sản xuất được là 398.000 chiếc, chiếm vị trí thứ 15 trên thế
giới. Năm 1986 Mexico gia nhập GATT và ảnh hưởng đầu tiên đối với ngành
ô tô là huỷ bỏ chính sách cấm nhập khẩu CBU. Về lĩnh vực phụ tùng ô tô
Trịnh Xuân Tới A4 K37
13
Khoá luận tốt nghiệp
cũng có những thay đổi như từ tháng 6 năm 1985, 99,1% phụ tùng nhập khẩu
còn là đối tượng cấp phép nhưng đến cuối năm 1987 chỉ còn 14,3%. Năm
1988 chính phủ ra chính sách chuyển sang khuyến khích xuất khẩu. Ngành
công nghiệp ô tô đã phát triển thành ngành công nghiệp then chốt của
Mexico, có tỉ trọng đóng góp vào GDP là 1.5%, tỉ lệ ô tô chiếm trong tổng
kim ngạch xuất khẩu đạt 35% .
Tại Mexico hiện nay có 5 hãng sản xuất ô tô hoàn chỉnh độc quyền chi
phối thị trường và đều là tư bản nước ngoài. Thể chế này khiến trong tương
lai khó có hãng nào tham gia thêm vào thị trường ô tô bất kể là tư bản nước
ngoài hay trong nước. Trong ngành công nghiệp chế tạo phụ tùng không có xí
nghiệp tư bản nước ngoài và có khoảng hơn 500 hãng. Ngành phụ tùng hiện
đang phân làm hai cực trong đó 40 xí nghiệp hàng đầu của ngành này chiếm
gần 70% toàn bộ sản lượng của ngành và hầu hết kỹ thuật được đưa vào từ
nước ngoài.
Mexico đã phát triển thành công ngành công nghiệp ô tô dựa vào việc
phó thác các hãng sản xuất lắp ráp cho tư bản nước ngoài và củng cố các hãng
sản xuất phụ tùng bằng tư bản dân tộc. Việc Mexico thành công trong việc
thay thế nhập khẩu và trong cả biến ngành ô tô thành một trung tâm để thu
ngoại tệ là một điểm đáng lưu ý. Cũng không thể bỏ qua một điều là Mexico
có may mắn do ở gần Mỹ về mặt địa lý; nhưng có thể nói đây là chính sách sử
dụng tốt mạng lưới quốc tế của các nhà sản xuất ô tô nước ngoài đang có trên
thế giới chứ không bắt buộc các nhà tư bản dân tộc phải góp vốn.
Từ kinh nghiệm của những nước này ta thấy, Việt Nam với quy mô thị
trường còn nhỏ thì việc lựa chọn cơ cấu sản phẩm hợp lý cho ngành công
nghiệp ô tô là hết sức quan trọng nhất là trong hoàn cảnh còn khó khăn về
nhiều mặt: vốn, công nghệ, trình độ công nhân,…Thời gian qua, chúng ta vẫn
để cho các doanh nghiệp tự do lựa chọn sản phẩm để sản xuất. Hơn 30 loại
sản phẩm ra đời với phần lớn là các loại xe cao cấp thực sự không phù hợp
Trịnh Xuân Tới A4 K37
14
Khoá luận tốt nghiệp
với thu nhập của số đông dân số Việt Nam. Do vậy, việc các liên doanh làm
ăn không có hiệu quả là điều dễ hiểu.
2. Các nước ASEAN và NICs
Hàn Quốc
Đặc điểm chính của ngành công nghiệp ô tô Hàn Quốc là các ngành
nguyên liệu như sắt thép, cao su.. .không đi trước ngành công nghiệp ô tô mà
lại song song phát triển cùng ngành công nghiệp ô tô nhưng chính sách phát
triển công nghiệp ô tô những năm 70 là nguyên nhân lớn nhất dẫn đến thành
công của ngành công nghiệp ô tô Hàn Quốc. Năm 1962 chính phủ đề ra luật
bảo hộ công nghiệp ô tô với thời hạn 5 năm với nội dung chủ yếu là hạn chế
nhập khẩu ô tô và phụ tùng, chỉ cho nhập những phụ tùng và thiết bị cần thiết
cho đến khi trong nước sản xuất được. Trước khi có luật này, chương trình kế
hoạch 5 năm phát triển công nghiệp ô tô do chính phủ đề ra dự định xây một
nhà máy lắp ráp ô tô cỡ lớn, một nhà máy lắp ráp ô tô cỡ nhỏ, một nhà máy
sản xuất động cơ Diesel. Do vậy mà hãng ô tô SIBARU- một hãng có thành
tích thực tế tự chế tạo xe taxi - được chọn làm nhà máy lắp ráp cỡ lớn; hãng ô
tô SENARA được chọn làm hãng lắp ráp ô tô cỡ nhỏ; còn 8 hãng ô tô khác
tiếp tục được tồn tại với tính chất là những “hãng lắp ráp tạm thời”. Trên cơ
sở này các hãng sản xuất lắp ráp ô tô Hàn Quốc bắt đầu hoạt động, cụ thể là
hãng KIA chuyển từ sản xuất xe đạp sang hợp tác sản xuất dạng SKD xe ô tô
lớn chở hàng 3 bánh với hãng xe máy HONDA của Nhật năm 1961; tương tự
như vậy với hãng MATSUDA năm 1962, còn hãng ô tô SENARA được thành
lập cùng năm này thì bắt đầu lắp ráp dạng SKD xe tải hạng nhẹ với hãng ô tô
NISSAN.
Nhưng đến năm 1964 hãng ô tô SIBARU do thất bại trong việc huy
động ngoại tệ nên đã không được chọn làm hãng lắp ráp ô tô cỡ lớn nữa còn
hãng SENARA bị cho rằng được sự ưu đãi đặc biệt. Thêm nữa vấn đề lắp ráp
SKD còn bị khiếu nại là không làm lợi cho các hãng sản xuất phụ tùng trong
nước và hãng này đã bị đình chỉ kinh doanh tháng 7 năm 1963.
Trịnh Xuân Tới A4 K37
15
Khoá luận tốt nghiệp
Để cứu vãn thất bại của hai hãng này, năm 1964 “kế hoạch tổng hợp
phát triển ngành công nghiệp ô tô ” được đề ra. Luật này nhằm hệ thống hoá
các xí nghiệp chế tạo phụ tùng bao gồm các “hãng lắp ráp ô tô tạm thời” và
74 xí nghiệp bên dưới liên hiệp công nghiệp ô tô, xây dựng cơ sở pháp lý cho
một tập đoàn chế tạo ô tô mang tính độc quyền. Nhưng việc chọn hãng
SINCHIN làm hãng sản xuất lắp ráp chỉ mang tính chính trị mà không đếm
xỉa đến nguyên lý thị trường đã làm cho luật này trở thành hữu danh vô thực.
Trên thực tế các nhà kinh doanh có tài sản trong các ngành khác khi biết việc
lắp ráp ô tô là có lãi đã tham gia vào thị trường này. Năm 1965 hãng ô tô
ASIA được thành lập (sản xuất SKD theo giấy phép của SIMCA, FIAT),
năm 1967 nhóm HYUNDAI ra nhập thị trường này (sản xuất theo giấy phép
KD của hãng FORD) và năm 1971 nhóm công nghiệp KIA được sự bảo trợ
kỹ thuật của hãng MATSUDA đã tham gia vào thị trường xe tải nhẹ 4 bánh.
Như vậy là ngành công nghiệp ô tô của Hàn Quốc đã bắt đầu lắp ráp
KD xe của nước ngoài trên cơ sở đưa kỹ thuật vào sử dụng. Tuy nhiên loại
hình này đòi hỏi phải có sự tích tụ tư bản và những xí nghiệp lắp ráp ô tô nay
hoạt động trên cơ sở hợp đồng chuyển giao kỹ thuật mà các hợp đồng đó chỉ
thích hợp với từng loại xe, hơn nữa lại chỉ thích hợp với kỹ thuật mang tính
lắp ráp chứ không phải là hợp đồng mang tính chuyển giao kỹ thuật.
Suốt những năm 60, do thị trường còn có quy mô nhỏ nên chính phủ
chỉ đạo phải nâng cao tỉ trọng hàng sản xuất trong nước nhưng các nhà sản
xuất lắp ráp đã không có hoạt động đầu tư thiết bị nào khác trên mức KD cả,
do vậy chỉ có nhóm công nghiệp KIA được dự vào thị trường lắp ráp ô tô
năm 1971 vì họ đã hứa với chính phủ là sẽ tiến hành sản xuất động cơ trong
nước. Năm 1973, chính phủ đưa ra kế hoạch phục hồi công nghiệp ô tô dài
hạn xuất phát từ kinh nghiệm của các ngành đóng tàu và điện máy, dù nhu
cầu trong nước không có nhưng biết khai thác nhân công rẻ rồi xuất khẩu nên
đã thành công trong việc mở rộng quy mô ngành. Mục tiêu của kế hoạch này
16
Trịnh Xuân Tới A4 K37
Khoá luận tốt nghiệp
là phải hình thành một ngành công nghiệp ô tô hoàn chỉnh từ khâu chế tạo
đến khâu lắp ráp cuối cùng, tạo sức cạnh tranh về giá cả dựa vào sản xuất với
số lượng lớn, mở rộng quy mô dựa vào xuất khẩu.
Các hãng đề xuất với chính phủ chương trình hành động dựa theo kế
hoạch phục hồi công nghiệp ô tô dài hạn nhưng thực hiện đúng chương trình
thì chỉ có HYUNDAI. Nhóm KIA vẫn lắp ráp KD còn hãng SINCHIN không
đẩy mạnh sản xuất trong nước nên bị ngân hàng công nghiệp Hàn Quốc mua
lại và đổi tên thành SEHAN. Hãng ASIA không làm gì cả nên năm 1976 bị
rút giấy phép và sát nhập vào KIA thành nhà máy chế tạo riêng xe tải và xe
buýt.
Đến cuối năm 1978 ngành công nghiệp ô tô Hàn Quốc đặt dưới quyền
kiểm soát của ba nhóm bao gồm DEAWOO, SEHAN và HYUNDAI. Tuy
vậy nhưng thị trường trong nước quá nhỏ nên dù tính cả số xe xuất khẩu (bắt
đầu xuất khẩu từ năm 1976) thì công suất sử dụng thiết bị của cả ba nhóm
đều không đầy 30%. Việc cả ba nhóm vẫn có lãi chứng tỏ các hãng bán ô tô
với giá quá cao trong nước để bù lỗ cho xuất khẩu .
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đầu lửa lần thứ hai năm 1979
trong khi chính phủ áp dụng biện pháp hạn chế nhu cầu như tăng thuế…nên
tình hình tài chính của các hãng xấu đi ghê gớm. Vì thế nên tháng 8 năm 1980
chính phủ đã đề ra biện pháp hợp nhất nhằm thống nhất việc sản xuất ô tô về
một mối mà nội dung chủ yếu là chuyên môn hoá sản xuất từng loại xe. Theo
biện pháp này thì HYUNDAI sẽ sản xuất ô tô con còn KIA độc quyền xe tải
dưới 5 tấn và xe tải trên 5 tấn và xe buýt sẽ do KIA và HYUNDAI độc quyền,
nhưng biện pháp này đã không được thực hiện hoàn toàn.
Đến tháng 1 năm 1987 biện pháp trên bị huỷ bỏ và các xí nghiệp có thể
tự do tham gia vào bất kỳ lĩnh vực nào. Tuy nhiên chủ trương của chính phủ
là hạn chế cạnh tranh trong nước, làm cho các xí nghiệp có lãi, giúp cho quá
trình tích luỹ tư bản và đầu tư quy mô lớn, nói cách khác là hỗ trợ việc tiến
hành sản xuất với quy mô lớn, giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh quốc tế,
Trịnh Xuân Tới A4 K37
17
Khoá luận tốt nghiệp
điều khiển xuất khẩu và thu ngoại tệ. Do vậy các hãng mới tham gia vào thị
trường không phải dễ dàng. Việc nhập khẩu ô tô nguyên chiếc cũng được tự
do hoá nhưng trên thực tế các hãng sản xuất ô tô trong nước vẫn được bảo hộ
nhờ các biện pháp thuế quan và chế độ thuế giá trị gia tăng (sự thực là việc
nhập khẩu ô tô từ Nhật là bị cấm)
Triển vọng của công nghiệp ô tô Hàn Quốc là tương đối sáng sủa nhờ
sự phát triển về kỹ thuật, có đội ngũ lao động lành nghề và khả năng mở rộng
thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó vẫn còn nhiều khả năng để tăng số đầu ô tô
ở Hàn Quốc do mật độ ô tô mới chỉ bằng 1/3 các nước phát triển. Hơn nữa
người ta tính đến khả năng thống nhất bán đảo Triều Tiên. Khi đó ngành công
nghiệp ô tô Hàn Quốc sẽ có điều kiện để phát triển mạnh mẽ hơn. Các nhà
bình luận có căn cứ để cho rằng trong thập kỷ tới, Hàn Quốc sẽ chi phối
ngành công nghiệp ô tô châu Á với sản lượng chiếm 1/3 tổng khối lượng ô tô
sản xuất trong khu vực. Sự phát triển này đã khẳng định được vai trò quản lý
nhà nước đáng học tập của chính phủ Hàn Quốc đối với ngành công nghiệp ô
tô, điều mà chúng ta có thể học tập.
Các nước ASEAN
Các nước ASEAN (trừ Brunei do những điều kiện riêng về dân số và
địa lý là không xây dựng ngành công nghiệp ô tô) đã sớm xây dựng ngành
công nghiệp ô tô của mình từ những năm 60. Riêng Singapore không sản xuất
ô tô mà chỉ sản xuất phụ tùng. Bốn nước Thái Lan, Malaysia, Philippines và
Indonêsia đều có nhà máy lắp ráp và sản xuất chi tiết, bộ phận ô tô đạt mức
nội địa hoá cao: Malaysia đạt tỷ lệ nội địa hoá xe Proton đến 90%, Thái Lan
đạt mức bình quân là 60%,…Tuy nhiên, do sức mua còn nhỏ, thị trường hẹp
bốn nước này đã sớm có sự phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá trong
sản xuất để trao đổi với nhau trong chương trình được gọi là BBC (Brand to
Brand Complementation). Bằng cách đó, mỗi nước có thể sản xuất với số
lượng lớn để trao đổi với các nước các bộ phận chi tiết mình không sản xuất,
Trịnh Xuân Tới A4 K37
18
Khoá luận tốt nghiệp
do đó tuy nhu cầu của từng nước là nhỏ nhưng sản lượng sản xuất vẫn lớn và
có hiệu quả.
Ở Philipine, cho đến đầu những năm 1950, ô tô đã được cung cấp dưới
hình thức xe nhập khẩu dạng CBU hoặc là tập hợp phụ tùng các xe nhập khẩu
cũ rồi tự lắp ráp lấy thành các xe mác Jeepny và xe Chapchap-vehicle. Và
cũng tại thời điểm này, Philipine đã bắt đầu lắp ráp SKD và đó là sự khởi đầu
của ngành công nghiệp ô tô sớm nhất trong các nước ASEAN. Tuy nhiên, do
lập trường của chính quyền AKINO (trước 1986) đối với chủ đầu tư nước
ngoài vào lĩnh vực sản xuất ô tô là mở cửa thị trường, tạo cơ hội kiếm lời, còn
quá trình phát triển sau đó của ngành ô tô thì những người hưởng lợi đó phải
đảm nhiệm, gánh vác. Nhưng việc phát triển ngành ô tô chỉ dựa vào cố gắng
của các hãng ô tô không thôi thì rất khó mà cần được xúc tiến trên cơ sở của
những tác động qua lại lẫn nhau, đan xen với những điều kiện khác, vì thế
việc tạo ra những điều kiện môi trường đó là do vai trò của Chính phủ. Do
không nhận thức được vấn đề này, nên khi bên nước ngoài hiểu ra thị trường
Philipine không đem lại cơ hội hưởng lợi thì họ đã dễ dàng vứt bỏ nó.
Dẫn đầu trong ngành công nghiệp ô tô khu vực là Thái Lan với điểm
khởi đầu là năm 1961 từ việc lắp ráp ô tô và hiện nay đã tiến đến xuất khẩu
các loại xe và phụ tùng. Khác với Philipine, Chính phủ Thái Lan luôn có sự
quan tâm sát sao đối với ngành công nghiệp quan trọng này. Khởi đầu của
chính sách công nghiệp ô tô Thái Lan là năm 1971, Chính phủ đề ra việc hạn
chế loại xe lắp ráp và đặt nghĩa vụ phải đạt tỷ lệ sản xuất ô tô trong nước là
25%. Năm 1978, cùng với việc cấm nhập khẩu CBU các xe con loại chưa đến
2300cm3 và xe buýt cỡ lớn, đánh thuế 200% giá CIF đối với xe con loại trên
2300cm3 và 100% giá CIF đối với các xe hàng nói chung và nhằm bảo hộ các
hãng sản xuất lắp ráp, Chính phủ đã đề ra chính sách phát triển sản xuất ô tô
trong nước. Theo chính sách này, tỷ lệ sản xuất ô tô con trong nước từ tháng 8
năm 1982 trở đi phải đạt 40%, ô tô chở hàng từ tháng 01/1983 là 35%, còn
Trịnh Xuân Tới A4 K37
19
Khoá luận tốt nghiệp
sau đó mỗi năm tăng thêm 5%. Thế nhưng kết quả thực tế lại không theo
được quy định này, do đó năm 1981 đã có sự sửa đổi quy định mục tiêu đặt ra
đối với ô tô con năm 1986 là 50%, xe chở hàng năm 1988 là 70%. Trong tình
hình quy định tư bản nước ngoài chỉ được tham gia vào xí nghiệp Thái Lan
mức dưới một nửa vốn, các xí nghiệp sở tại đã tiến hành liên doanh, nỗ lực
đưa kỹ thuật vào để phục vụ quá trình nâng cao tỷ lệ nội địa hoá trong nước
và phát triển sản xuất động cơ trong nước. Do vậy, xe ô tô sản xuất trong
nước, với tính năng tác dụng phù hợp với điều kiện tình hình của Thái Lan
hay cái gọi là ô tô châu á (Aisa car) đã được các hãng bán ra. Loại xe này
không chỉ sử dụng trong nước mà đã xuất khẩu được sang các nước lân cận và
một số nước châu Phi. Đến nay Thái Lan có 14 nhà sản xuất ô tô, năng lực là
1.069.000 xe/năm trong đó có 10 nhà sản xuất là có xuất xứ từ Nhật Bản.
Năm 1999, Thái Lan đã xuất được 125.702 xe với tổng kim ngạch xuất khẩu
ô tô đạt 2,15 tỷ USD, dự đoán năm 2005 Thái Lan sẽ xuất khẩu được 300.000
xe. Thị trường xe ô tô của Thái Lan, đặc biệt là của loại xe thương dụng nhỏ,
cabin kép phát triển rất mạnh, chiếm tới 55-60% sản lượng xe ô tô của Thái
Lan trong khi sản lượng xe con chỉ khoảng 30%. Trong nhập khẩu về phụ
tùng ô tô và ô tô, Thái Lan nhập chủ yếu từ Nhật Bản, chiếm tới 66% giá trị
nhập khẩu, phần còn lại là nhập từ các nước ASEAN.
Đến nay, tỷ lệ nội địa hoá của các loại xe ô tô của Thái Lan đã đạt được như
sau:
+ Xe con:
72%
+ Xe tải nhỏ cabin kép:
83%
+ Xe tải lớn và xe buýt :
45%
Ngành công nghiệp ô tô Thái Lan hiện nay tạo công ăn việc làm cho
300.000 lao động, doanh số chiếm 7% tổng GDP với 17 nhà máy lắp ráp ô tô,
1.000 đại lý bán ô tô, 1.600 phòng trưng bày và 1.300 cơ sở dịch vụ bảo hành,
Trịnh Xuân Tới A4 K37
20
- Xem thêm -