Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật đường lối đấu tranh ngoại giao của đảng ta trong thời kỳ 1945 1946...

Tài liệu đường lối đấu tranh ngoại giao của đảng ta trong thời kỳ 1945 1946

.DOC
8
281
113

Mô tả:

Lớp N11. Nhóm 7 Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. ĐẶT VẤN ĐỀ Đấu tranh ngoại giao là một trong ba mặt trận đấu tranh của nhân dân ta. Đấu tranh quân sự và chính trị là nhân tố quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho chiến thắng ngoại giao. Đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên các chiến trường mà giữ vai trò tích cực chủ động. Từ những ngày đầu sau Cách mạng tháng Tám, hoạt động ngoại giao đã góp phần quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân. Đấu tranh ngoại giao có tác dụng nâng cao địa vị của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên trường quốc tế, cô lập ngày càng cao độ kẻ thù. Để tìm hiểu sâu hơn về đường lối đấu tranh ngoại giao của Đảng ta trong giai đoạn này, chúng em chọn đề tài “Đường lối đấu tranh ngoại giao của Đảng ta trong thời kỳ 1945-1946”. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Hoàn cảnh lịch sử giai đoạn 1945-1946 1. Tình hình thế giới. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, tình hình thế giới có những biến chuyển hết sức to lớn. Chủ nghĩa phát xít bị tiêu diệt, lực lượng đế quốc bị suy yếu, không còn giữ vị thế ưu thế như trước. Chủ nghĩa xã hội từ một nước là Liên Xô, bây giờ đang trong quá trình hình thành cả một hệ thống trên thế giới. Phong trào giải phóng dân tộc lên cao, phong trào đấu tranh đòi dân chủ phát triển mạnh mẽ ở các nước tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, với bản chất phản động, xâm lược, chủ nghĩa đế quốc thực dân vẫn tiếp tục tìm mọi cách để xâm chiếm, giành giật lại từng thuộc địa đã mất. Việt Nam cũng trở thành đối tượng tranh giành giữa các đế quốc Mỹ, Anh, Pháp, và quân Tưởng. 2. Tình hình trong nước. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ vừa mới ra đời đã phải đối phó với nhiều kẻ thù. Ở miền Bắc, 20 vạn quân Tưởng với danh nghĩa quân đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật đã tràn vào đóng quân từ vĩ tuyến 16 đến biên giới Việt – Trung. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, cũng với danh nghĩa quân đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, nhưng thực chất quân đội Anh muốn giúp quân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam lần nữa. Được sự ủng hộ của quân Anh, ngày 23/9/1945, Pháp tiến công Sài Gòn, mở đầu cuội xâm lược nước ta lần thứ hai. Sự chiếm đóng của hàng vạn quân Tưởng, Anh, Nhật trên đất nước ta đã tạo điều kiện cho bọn tay sai của chúng như Việt Quốc, Việt Cách… nổi dậy chống phá cách mạng. Trong khi đó, nền kinh tế nước ta lúc này lại bị kiệt quệ, tiêu điều do hậu quả của chính sách cai trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Các ngành kinh tế đều bị ngừng trệ, tài chính quốc gia trống rỗng, nạn đói cuối năm 1944 đầu 1945 làm hơn 2 triệu người chết chưa khắc phục được thì nguy cơ nạn đói mới lại đe dọa. Chế độ thực dân để lại nhiều hậu quả xã hội nặng nề, đặc biệt là hơn 90% dân số mù chữ, -1- Lớp N11. Nhóm 7 Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. các tệ nạn như cờ bạc, rượu chè, mê tín rất phổ biến. Với hàng loạt khó khăn từ mọi phía, vận mệnh Tổ quốc như “ngàn cân treo sợi tóc”. Tuy nhiên, chúng ta có những thuận lợi cơ bản như sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân lao động đã giành và làm chủ được chính quyền, được hưởng các quyền lợi và gắn bó với chế độ mới, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang hình thành, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển là nguồn ủng hộ và cổ vũ to lớn cho nhân dân ta. Đó là những động lực để cho cách mạng nước ta vượt qua hiểm nghèo của những năm đầu tiên sau cách mạng tháng 8- 1945. II. Đường lối đấu tranh ngoại giao của Đảng trong giai đoạn 1945-1946 Trong giai đoạn này ta chủ trương “phân hóa kẻ thù, tránh đối đầu cùng lúc với nhiều kẻ thù”. Gồm 2 giai đoạn sau đây: 1. Giai đoạn hòa với Tưởng để tập trung sức đánh Pháp (từ tháng 9-1945 đến trước 6/3/1946) a) Tại sao ta chủ trương hòa với Tưởng? Trong hoàn cảnh phải đối phó với dã tâm xâm lược trở lại của thực dân Pháp ở miền Nam và sự uy hiếp lật đổ chính quyền cách mạng của quân Trung hoa Dân quốc. Trên cơ sở xác định thực dân Pháp là kẻ thù chính, Đảng, Chính Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ: phải tránh trường hợp cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù; mũi nhọn của cách mạng lúc này là tập trung lực lượng đối phó với Pháp ở miền Nam. Hơn nữa, Tưởng vào Việt Nam dưới danh nghĩa Đồng minh giải giáp quân Nhật, nếu ta xung đột với Tưởng sẽ gây nhiều bất lợi cho ta, Pháp và Tưởng có thể mược cớ để bắt tay tiêu diệt ta. Từ đó ta chủ trương tạm thời hòa hoãn tránh xung đột với quân Trung hoa Dân quốc. b) Nội dung hòa hoãn Để hòa với Tưởng, trước hết chúng ta nêu khẩu hiệu Hoa - Việt thân thiện. Thực hiện phương châm “tiêu cực đề kháng”: không gây xung đột với quân Tưởng, nhân nhượng cho quân Trung hoa Dân quốc một số quyền lợi về kinh tế như cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương tiện giao thông vận tải, cho phép dùng tiền Trung Quốc trên thị trường Việt Nam. Đồng thời, nhằm hạn chế sự phá hoại của quân Trung hoa Dân quốc và tay sai, Quốc hội khóa I tại phiên họp đầu tiên đã đồng ý cho các Đảng Việt quốc, Việt cách 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử (trong đó Nguyễn Hải Thần được nhận chức Phó Chủ tịch Quốc hội), 4 ghế trong Chính phủ cho tay sai. Tuy nhiên, mọi sự nhượng bộ của chúng ta đều phải đảm bảo 4 nguyên tắc: chính quyền phải được giữ vững, Hồ Chí Minh phải là người đứng đầu Chính phủ, Đảng phải lãnh đạo được chính quyền, độc lập, chủ quyền của đất nước phải được tôn trọng. Để giảm bớt sức ép công kích của kẻ thù, tránh hiểu lầm trong và ngoài nước có thể trở ngại đến tiền đồ, sự nghiệp giải phóng dân tộc, đồng thời dặt lợi ích dân tộc lên trên hết, Đảng cộng sản Đông Dương tuyên bố “tự giải tán” (11/11/1945) nhưng thực chất là tạm thời rút vào hoạt động “bí mật” tiếp tục lãnh đạo đất nước, -2- Lớp N11. Nhóm 7 Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. lãnh đạo chính quyền cách mạng. Vào tháng 7/1946 với sự giúp đỡ của Đảng cộng sản, giới tri thức yêu nước thành lập Đảng xã hội Việt Nam. Đối với các tổ chức phản cách mạng, tay sai của Trung hoa Dân quốc chính quyền cách mạng dựa vào quần chúng kiên quyết cạch trần âm mưu và hoạt động chia rẽ, phá hoại của chúng. Những kẻ phá hoại đủ bằng chứng bị trừng trị theo pháp luật. Chính phủ còn ban hành một số sắc lệnh nhằm trấn áp bọn phản cách mạng như sắc lệnh 5/9/1945 giải tán Đại việt quốc gia xã hội đảng, Đại việt quốc dân Đảng; sắc lệnh 12/9/1945 cho an trí những người nguy hiểm đối với nền cộng hòa dân chủ Việt Nam. Đây là một biện pháp rất khéo léo của Đảng ta, vừa thể hiện sự mềm dẻo vừa thể hiện sự cứng rắn, nghiêm khắc. c) Ý nghĩa của đường lối Như vậy, đường lối đấu tranh ngoại giao của Đảng ta trong thời kì này là vô cùng sáng tạo, đúng đắn. Lúc này, thực dân Pháp ở miền Nam đã lộ rõ bản chất, công khai sử dụng bạo lực chống pháp cách mạng nước ta (thể hiện ở sự kiện ngày 2/9/1945 khi đồng bào Sài Gòn-Chợ Lớn tổ chức lễ mít tinh chào mừng “ngày độc lập”, thực dân Pháp đã xả súng vào đám đông làm 47 người chết và nhiều người bị thương) do đó đường lối của chúng ta là phải cứng rắn với Pháp. Trong khi đó, quân Tưởng ở miền Bắc vẫn chưa lộ rõ mặt chống phá cách mạng nên ta hòa hoãn với Tưởng cũng thể hiện Việt Nam không vi phạm luật pháp quốc tế (quân Tưởng vào Việt Nam với danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp quân đội Nhật), đồng thời cũng thể hiện thiện chí yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam. Ở miền Bắc, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tranh thủ Mỹ kiềm chế Tưởng, nhân nhượng cho Tưởng một số yêu sách nhất định, dành cho tướng lĩnh thân Tưởng một số ghế trong Quốc hội, trong Chính phủ liên hiệp, nhưng buộc chúng phải ủng hộ cuộc kháng chiến chống Pháp, ủng hộ chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta. Nhờ sách lược ngoại giao mềm dẻo đó, ta đã củng cố được chính quyền, phân hoá kẻ thủ, bảo vệ độc lập dân tộc. 2. Giai đoạn hòa với Pháp để đuổi Tưởng (từ sau 6/3/1946 đến 19/12/1946) a) Nguyên nhân Đảng thực hiện chủ trương tạm thời hòa hoãn với Pháp. Ngày 28/2/1946, Pháp và Trung Hoa quốc dân đảng đã ký với nhau hiệp định Hoa- Pháp, theo đó quân Tưởng sẽ để 15000 quân Pháp ra thay thế 20 vạn quân Tưởng ở miền Bắc làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Ngày 3/3/1946 Trung ương Đảng đã ra chỉ thị để đối phó với tình hình trên, chỉ thị nêu rõ: “Nếu lúc này ta ngăn quân Pháp vào miền Bắc thì bọn phản động Việt Nam sẽ đứng ra lập chính phủ bù nhìn, đi đôi với thực dân Pháp đánh ta, buộc cho ta là phiến loạn, là chống lại liên hợp quốc, là phản hòa bình, vào lúc đó quân Tàu sẽ kiếm cớ vào Đông Dương cùng với Pháp và bọn phản động Đông Dương đánh ta”. -3- Lớp N11. Nhóm 7 Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. Như vậy, để tránh việc Pháp- Tưởng bắt tay đánh ta, tránh một lúc đối phó với nhiều kẻ thù, thì lúc này ta cần hòa hoãn với Pháp. Hơn nữa, quân Tưởng đang thực hiện nhiệm vụ lúc này là giải giáp quân Nhật ở miền Bắc, nếu Pháp ra miền Bắc làm thay nhiệm vụ này thì quân Tưởng không có lý do gì ở Việt Nam. Cả Pháp và Tưởng đểu có ý đồ xâm chiếm nước ta, nếu ta hòa hoãn để cho quân Pháp ra miền Bắc thì có thể nhanh chóng đẩy quân Tưởng về nước. Đồng thời, việc ta tạm thời hòa hoãn với Pháp sẽ giúp ta bảo toàn lực lượng, thực lực, đồng thời giúp ta bảo toàn thực lực, có thêm thời gian để chuẩn bị kỹ lưỡng về tổ chức và lực lượng, củng cố chính quyền cách mạng, bảo vệ thành quả cách mạng, tăng tiềm lực để cách mạng tiến lên và chuẩn bị tốt hơn nữa về mọi mặt…để tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài b) Nội dung đường lối đấu tranh ngoại giao của Đảng. - Hiệp định Sơ bộ Pháp – Việt ( 6/3/1946) Ngày 6/3/1946 hiệp định Sơ bộ Pháp-Việt được ký giữa Jean Saintery (đại diện của Pháp) với Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh (đại diện chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Hiệp định quy định chính phủ Việt Nam sẽ đồng ý cho 15000 quân Pháp ra miền Bắc thay thế cho 20 vạn quân Tưởng làm nhiệm giải giáp quân đội Nhật. Số quân này phải rút khỏi Việt Nam trong 5 năm, mỗi năm 3000 quân. Đồng thời, thực dân Pháp cũng phải đáp ứng các điều kiện mà Việt Nam đưa ra. Điều 1 quy định: “chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nước tự do, có chính phủ, nghị định, quân đội, tài chính của mình và là một phần tử trong liên bang Đông Dương và khối liên hiệp Pháp”. Chính phủ Pháp cũng phải thực hiện trưng cầu dân ý ở Nam bộ về việc thống nhất với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và hai bên ngừng bắn ở Nam bộ. Đây thực chất là chuyển cuộc đấu tranh sang hình thái mới, đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao. Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3 đã tỏ rõ thiện chí hoà bình của nhân dân ta để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân Pháp và nhân dân tiến bộ trên thế giới. Sau hiệp định Sơ bộ ngày 6/3 ta tiếp tục đấu tranh ngoại giao với Pháp để đi đến ký kết một hiệp định chính thức. Đó là Hội nghị trù bị ở Đà Lạt (cuối T4 giữa T5/1946) và Hội nghị Pôngtennơblô (T6 - T9/1946) nhưng do quan điểm lập trường của 2 bên quá khác xa nhau nên hội nghị không đi đến kết quả. Quan hệ Việt Pháp căng thẳng, nguy cơ của 1 cuộc chiến sắp sửa nổ ra. Lúc đó với tư cách là thượng khách sang thăm nước Pháp theo lời mời của Chính phủ Pháp, Hồ Chí Minh đã chủ động xin ký với bộ trưởng bộ ngoại giao Pháp Mute bản tạm ước 14/9/1946 ta tiếp tục nhân nhượng cho Pháp 1 số quyền lợi. - Tạm ước ngày 14/9/1946, Georges thiery d’argenliu tuyên bố sự ra đời của Nam kỳ quốc ở Sài Gòn, làm mất giá trị của Hiệp định Sơ bộ. Trong lúc này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đang cùng đoàn đại biểu Việt Nam sang Pháp đàm phán về việc thi hành hiệp định, cuộc -4- Lớp N11. Nhóm 7 Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. đàm phán ở Pari giữa đoàn đại biểu của chính phủ Việt Nam và Pháp đã không đạt được kết quả. Trước khi rời pháp, chủ tịch Hồ Chí Minh phải ký với Pháp bản tạm ước Việt- Pháp(14/9/1946) thể hiện ý chí hòa bình trước sau như một của nhân dân Việt Nam. Tạm ước ngày 14/9 là sự hòa hoãn cuối cùng của ta trước sự ngoan cố, thiếu thiện chí của thực dân pháp. Nếu như thực dân Pháp tiếp tục ngoan cố thì ta không thể tiếp tục hòa hoãn. c) Nhận xét, đánh giá, ý nghĩa của đường lối. Việc đảng chủ trương hòa hoãn với pháp đã thể hiện rõ đường lối đấu tranh ngoại giao khôn khéo, mềm dẻo của đảng ta. Đảng đã khôn khéo trong việc lợi dụng mâu thuẫn về quyền lợi giữa pháp và tưởng – cả 2 thế lực đều muốn thôn tính và độc chiếm nước ta. Hơn nữa có thể thấy các chủ trương, chính sách đấu trnah ngoại giao của Đnagr là đúng đắn, thể hiện sự sang suốt của đảng trong việc phân tích, đánh giá tình hình khách quan, sự lựa chọn sách lược phù hợp. Đường lối đấu tranh ngoại giao trong giai đoạn này còn thẻ hiện được nguyên tắc của đảng, nhân nhượng nhưng có nguyên tắc. Ta đồng ý cho Pháp ra miền bắc, nhưng đồng thời cũng đề ra các ddieuf kiện để pháp phải thực hiện. Trong giai đoạn này, mặt trận đấu tranh ngoại giao đã thể hiện vai trò của mình trong phong trào cách mạng, đường lối đấu tranh ngoại giao đúng đắn của đảng trong giai đoạn này đã để lại nhiều ý nghĩa quan trọng. đẩy nhanh được quân tưởng ra khỏi việt nam, bảo vệ thành quả cách mạng. Chur trương hòa hoãn vơi pháp là một đòn nặng đánh vào âm mưu thâm độc của tay sai “phá cuộc đàm phám giữa tà và pháp, đẩy ta chống lại hiệp ước HoaPháp, để cho cả 3 lực lượng: Tàu trằng, thực dân pháp và phản động việt nam quay lại xâm lược ta”. Chủ trương đó đã tránh cho việt nam cùng một lúc đối phó với nhiều kẻ thù, với đường lối ngoại giao khôn khéo ta đã đẩy được 20 vạn quân tưởng ra khỏi đất nước ta mà không tốn một viên đạn. và còn tránh được một cuộc đụng đầu bất lợi cho ta. Vì nếu quân ta không hòa hoãn với Pháp, tình thế quân ta với lực lượng kháng chiến còn non trẻ sẽ phải chiến đấu với quân Pháp đổ bộ lên miền Bắc theo hiệp ước Hoa- Pháp thì sẽ vô cùng bất lợi cho quân ta và cuộc cách mạng giành độc lập của nhân dân ta. Thứ tư, tạo thời gian hoà hoãn để chuẩn bị lực lượng chiến đấu về sau và mở ra thời kỳ đấu tranh mới giữa ta và Pháp. Đây là là cuộc chiến đấu không thể tránh khỏi, với lực lượng kháng chiến non trẻ, không có sự công nhận và ủng hộ của các nước khác, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, quân dân ta cần phải có một sự chuẩn kĩ lưỡng về mọi phương diện cho cuộc chiến này, một cuộc chiến mà chúng ta biết không thể tránh khỏi -5- Lớp N11. Nhóm 7 Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. III. Ý nghĩa của đường lối đấu tranh ngoại giao của Đảng ta trong thời kỳ 1945 -1946. - Những chủ trương, chính sách nói trên của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bảo vệ được nền độc lâp của đất nước, củng cố giữ vững chính quyền cách mạng, xây dựng được lực lượng chuẩn bị cho cuộc trường kì kháng chiến với thực dân Pháp (1945 – 1954). Những biện pháp về chính trị, quân sự, kinh tế, giáo dục đã góp phần tích cực trong việc đẩy lùi giặc đói, giặc dốt, đưa đất nước vượt qua những thách thức hiểm nghèo; phát huy thành quả của Cách mạng tháng Tám, giúp nhân dân ổn định đời sống nhờ đó mà nhân dân càng tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. - Với đường lối chính trị vô cùng sáng suốt của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với việc thực hiện đường lối ngoại giao cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược: lúc thì nhân nhượng với Tưởng để rảnh tay đối phó với Pháp, khi thì lại hoà hoãn với Pháp để đuổi Tưởng về nước và quét sạch bọn tay sai của Tưởng, đã góp phần quan trọng trong việc củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng, góp phần quan trọng vào thắng lợi của chính sách chống “thù trong giặc ngoài” trong những năm 1945 – 1946, đồng thời tạo điều kiện cho nhân dân ta có thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp. - Đường lối đấu tranh ngoại giao trong giai đoạn này còn để lại nhiều bài học quý giá về đường lối đấu tranh vừa mềm dẻo vừa cứng rắn cho cuộc đấu tranh ngoại giao trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ sau này KẾT BÀI Trong 60 năm qua, ngoại giao luôn là một mặt trận quan trọng, phối hợp nhịp nhàng với đấu tranh quân sự và chính trị nhằm thực hiện sứ mệnh cao cả nhất của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Bằng sự phối hợp nhịp nhàng đó, mặt trận ngoại giao không những đã hỗ trợ đắc lực cho mặt trận quân sự và chính trị mà còn tạo ra những điều kiện quốc tế và trong nước thuận lợi để đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên, bước sau cao hơn bước trước. Trong quá trình đó, ngoại giao Việt Nam luôn gắn với vận mệnh của dân tộc, đã vượt qua nhiều thử thách, thông qua, đấu tranh để tự hoàn thiện và trưởng thành, tạo nên một nền ngoại giao riêng của Việt Nam, vừa kế thừa truyền thống dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa của ngoại giao thế giới. Danh mục tài liệu tham khảo -6- Lớp N11. Nhóm 7 Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. 1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009 2. Hội đồng biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2004. 3. “Chỉ thị của BCH trung ương về kháng chiến- kiến quốc, ngày 25/11/1945”, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8 (tr.21-34), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000 4. “Chỉ thị của Ban thường vụ trung ương hòa để tiến, ngày 9/3/1946”, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8 (tr.48-56), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000 5. Các trang web: http://www.cpv.org.vn http://www.tapchicongsan.org.vn MỤC LỤC Trang ĐẶT VẤN ĐỀ...........................................................................................................1 -7- Lớp N11. Nhóm 7 Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ...........................................................................................1 I. Hoàn cảnh lịch sử giai đoạn 1945-1946........................................................1 1. Tình hình thế giới........................................................................................1 2. Tình hình trong nước..................................................................................1 II. Đường lối đấu tranh ngoại giao của Đảng trong giai đoạn 1945-1946. .2 1. Giai đoạn hòa với Tưởng để tập trung sức đánh Pháp (từ tháng 9-1945 đến trước 6/3/1946)............................................................................................2 a) Tại sao ta chủ trương hòa với Tưởng?...................................................2 b) Nội dung hòa hoãn..................................................................................2 c) Ý nghĩa của đường lối..............................................................................3 2. Giai đoạn hòa với Pháp để đuổi Tưởng (từ sau 6/3/1946 đến 19/12/1946)..........................................................................................................3 a) Nguyên nhân Đảng thực hiện chủ trương tạm thời hòa hoãn với Pháp..................................................................................................................3 b) Nội dung đường lối đấu tranh ngoại giao của Đảng.................................4 c) Nhận xét, đánh giá, ý nghĩa của đường lối............................................5 III. Ý nghĩa của đường lối đấu tranh ngoại giao của Đảng ta trong thời kỳ 1945 -1946..............................................................................................................6 KẾT BÀI...................................................................................................................6 Danh mục tài liệu tham khảo..................................................................................7 -8-
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan