ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
----------[ \----------
HOÀNG CHUNG
ĐỒNG CỎ VÙNG NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM
ĐỀ TÀI TỪ NĂM 2000 ĐƯỢC SỰ HỖ TRỢ CỦA
CHƯƠNG TRÌNH KHOA HỌC CƠ BẢN - NGÀNH KHOA HỌC SỰ SỐNG
NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP
HÀ NỘI 2004
Đề tài có sự tham gia của
Vi Văn Bảo
Lê Ngọc Công
Phạm Thị Xuyến
Ngô Thị Cúc
Và một số học viên Cao học
2
LỜI NÓI ĐẦU
Đồng cỏ là một cơ sở chủ yếu của ngành chăn nuôi, nhất là chăn nuôi đại gia súc.
Đồng cỏ là kho dự trữ nguồn năng lượng tiềm tàng, gia súc sẽ chuyển hoá năng lượng
chứa trong đồng cỏ thành thức ăn của con người. Con người đã từ lâu biết khai thác
đồng cỏ, nhưng lúc đầu còn hoàn toàn dựa vào tự nhiên. Nhu cầu phát triển chăn nuôi
ngày một lớn, hình thức chăn thả tự nhiên như trước không thể đáp ứng được, do đó
đòi hỏi loài người phải đầu tư trí tuệ cho việc khai thác đồng cỏ. Các nhà khoa học đã
tiến hành nghiên cứu một cách toàn diện từ những đặc điểm sinh thái, sinh vật học đến
các phương thúc cải tạo, sử dụng hợp lý để tạo ra sản phẩm tối đa trên đơn vị diện tích
đồng cỏ trồng cũng như tự nhiên.
Sự hiểu biết của loài người về đồng cỏ được tích luỹ nhiều hơn cả là từ các loại
hình đồng cỏ, thảo nguyên vùng ôn đới. Còn các loại hình đồng cỏ và Savan vùng
nhiệt đới được nghiên cứu còn quá ít.
Ở Việt Nam đồng cỏ phân bố rải rác ở khắp nơi, nhưng tập trung nhất vẫn là trên
các đồi núi và các cao nguyên của trung du và miền núi (Chiếm tới 10 triệu ha). Đồng
cỏ vùng núi Bắc Việt Nam là loại hình thứ sinh, tuỳ theo mức độ bị tác động hàng
ngày của con người và gia súc mà nó biểu hiện ra ở các trạng thái khác nhau. Để có cơ
sở cho việc xác lập các phương án sử dụng hợp lý loại hình đồng cỏ này cùng các dạng
thoái hoá của nó, chúng ta không thể không tiến hành điều tra toàn diện các mặt sinh
thái, sinh vật học của từng loại hình cụ thể đó. Những tư liệu tương tự như vậy đối với
loại hình đồng cỏ Việt Nam hãy còn rất ít, nó mới đề cập đến từ những năm 1950 trở
lại đây và phần lớn là những nghiên cứu tản mạn của từng vùng. Dương Hữu Thời
1963, 1965, 1974a, 1974b, 1974c, 1981, Võ Văn Chi, Nguyễn Đình Ngối, 1964, Dương
Hữu Thời, Nguyễn Đình Ngối, 1965. Dương Hữu Thời và các tác giả 1965, Trần
Nhơn, 1985. Đặc biệt Dương Hữu Thời 1981 có công bố Công trình "Đồng cỏ Bắc
Việt Nam" Trong đó đề cập khá đầy đủ về loại hình đồng cỏ bắc Việt Nam. Ngoài ra
còn nhiều công trình nghiên cứu về thành phần cây thức ăn gia súc ở vùng nhiệt đới:
Lê Sinh Tặng, Nguyễn Chính 1959; Nguyễn Quang Ngọ, Lê Sinh Tặng, 1964; Lê Sinh
Tặng, 1969; Trịnh Văn Thịnh và các tác giả, 1974; Điền Văn Hưng, 1975; Nguyễn
Đăng Khôi, 1978, 1979, 1981; Võ Duy Giảng, 1983; Dương Thành Liên, 1981; Bùi
Xuân An và Ngô Vãn Mâu, 1981. Một số tác giả có đề cập vấn đề cải tạo đồng cỏ tự
nhiên, sử dụng hợp lý hơn hay tạo đồng cỏ trồng, nhập nội một số loài mới, phân tích
thành phần dinh dưỡng của một số loài cỏ ở Việt Nam. Đoàn Ẩu, Võ Văn Tự, 1976;
Hoàng Kim Nhuệ, 1979; Võ Vãn Tự, 1983 .
Từ 1975 chúng tôi đã xây dựng một chương trình nghiên cứu đồng cỏ vùng núi
bắc Việt Nam. Đã thành lập trạm nghiên cứu định vị ở Ngân Sơn Bắc Kim. Đồng cỏ
thuộc vành đai á nhiệt đới tầm thấp, đặc trưng cho loại hình đồng cỏ vùng núi Bắc Việt
Nam.
3
Ngoài ra chúng tôi còn mở rộng nghiên cứu ra toàn miền bắc, nghiên cứu một số
yếu tố sinh thái, phân loại loại hình và phân bố của nó, thành phần loài, dạng sống, cấu
trúc, năng suất, động thái tự nhiên cũng như trong quá trình sử dụng, nghiên cứu kéo
dài đến năm 1985. Từ những năm 1990 trở lại đây chúng tôi nghiên cứu các mô hình
rừng trồng cây ăn quả cây công nghiệp... trên một số vùng đồng cỏ của Bắc Kạn, Thái
Nguyên, Quảng Ninh... Nghiên cứu tiếp những đặc điểm sinh thái, sinh vật học... của
loại hình đồng cỏ và thảm cây bụi của một số tỉnh miền núi, nghiên cứu một số mô
hình chăn nuôi đại gia súc của gia đình, tập thể và của công ty.
Tác giả
HOÀNG CHUNG
4
Chương một
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
CỦA VÙNG NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM
1.1. NHỮNG YẾU TỐ ĐỊA LÝ, ĐỊA HÌNH
Bắc Việt Nam về mặt địa hình có thể chia thành 3 vùng - vùng núi, trung du và
đông bằng. Đặc trưng cho cả 3 vùng là sự giảm dần độ cao từ tây bắc xuống đông nam
và có những dẫy núi chạy dọc theo hướng này. Vùng núi và trung du chiếm 3/4 diện
tích bắc Việt Nam, được phân cách rõ rệt với đồng bằng, có địa hình phức tạp, hiểm
trở do bị phân cắt nhiều bởi các sống núi, đồi và thung lũng. Vùng núi và trung du
phân biệt rõ ràng. song có sự chuyển tiếp dần.
Trong vùng núi, đỉnh cao nhất là Phan - Xi - Păng - 3.148m, tiếp theo là Pú Lường - 2.893m. Còn lại thì cao trung bình từ 500-l.500m.
Vùng núi Bắc Việt Nam được phân thành hai tiểu vùng là Đông Bắc và Tây Bắc.
Dãy núi Hoàng Liên Sơn được coi là ranh giới của hai tiêu vùng này.
Vùng Đông Bắc nói chung núi thấp hơn Tây Bắc, cao nhất là dẫy Tây Côn Lĩnh 2.431m, đồng thời độ dốc của các sườn cũng kém hơn, thung lũng các sông, suối rộng
hơn. Những dẫy núi cao của vùng Đông Bắc chạy theo nhiều hướng khác nhau, nhưng
hướng chính vẫn là Tây Bắc - Đông Nam.
Nhóm thứ 1.: Được tạo thành do những dẫy núi thuộc loại diệp- thạch, sa - thạch,
đá sét; núi thấp hơn, có những vực sâu, ở trong thung lũng các sông địa hình khá đồng
nhất. Bao gồm dẫy con voi và các dẫy núi phân chia sông Lô, sông Chảy. Về địa chất
nó được hình thành vào thời kỳ Cổ sinh hạ, có độ cao lớn và bị phân cắt nhiều hơn các
vùng núi thấp của lưu vực các sông Lục Ngạn, Kỳ Cùng và Bắc Giang.
Trong vùng có khu vực Hà Giang gần với biên giới Trung Quốc, một số vùng
gần biên giới cao 700 - 900m hay 1.000 - 1.200m như cao nguyên Bắc Hà, Sima Kai,
Mường Khương, Quản Bạ, Đồng Văn... vùng này được cấu thành bởi đá gà nai, diệp
thạch, granít trong thời kỳ Cổ sinh đại, ở đây thường có hang động, nước chảy ngầm.
Nhóm thứ 2.: Những dãy núi được tạo thành từ những núi đá vôi, đặc trưng bởi
sự phân cắt liên tục của những vách dựng đứng với không ít nơi được hình thành bởi
đá vôi, có nhiều thung lũng nhỏ hoặc to, hay gặp hiện tượng Cacstơ. Ở đây có thể chia
thành 3 vùng núi đá vôi. Vùng núi cao từ trung bình tới 1.000m, có thung lũng nhỏ và
nằm ở trung tâm Đông bắc Dãy Quảng Yên phân bố ở gần biên giới Trung Quốc cũng
có độ cao tương tự nhưng có nhiều thung lũng rộng hơn. Trong vùng Đông Bắc còn có
các thung lũng lòng chảo được bồi tụ trong thời kỳ Tân sinh đại. Do có sự thuận lợi về
địa hình các thung lũng đã trở thành trung tâm dân cư vùng núi. Trong thung lũng
thường trồng lúa, trên đồi trồng các loại cây lâu năm, cây màu, bãi chăn thả gia súc.
5
Vùng Tây Bắc có cấu tạo khác nhau, nó tạo thành hàng loạt những dãy núi song
song, nối tiếp nhau chạy từ tây bắc xuống đông nam và độ cao cũng giảm dần theo
hướng này. Dãy núi cao nhất ở đây là Hoàng Liên Sơn có đỉnh cao nhất là Phan - Xi Păng và dẫy núi Pú - Lường cũng là sự nối tiếp xuống phía Nam của dãy này, nó được
tạo thành bởi đá gơnai cổ, đá granit, diệp thạch đềvol. Giữa các dãy này có con sông
lớn là sông Đà, nó khác với các dẫy núi ở vùng Đông Bắc là có sườn dốc dựng đứng
hơn, đỉnh cao và nhọn hơn, có những thung lũng trong các dẫy này (Nghĩa Lộ, Quang
Huy, Than Uyên).
Phía Tây của dẫy Hoàng Liên Sơn liền với các cao nguyên tạo bởi đá vôi kỷ Đề
von hay Các bon và Diệp thạch đệ tam. Trên mỏm Tây Bắc của đai này là cao nguyên
Tà phình cao trên 1.000m. phía Nam của cao nguyên Tà Phình tách biệt thung lũng sâu
của sông Đà, và trên độ cao hơn 1.000m có cao nguyên Xín - Chải, cao nguyên này
cũng bị phân tách với cao nguyên Sơn La rộng và thấp hơn (gần 600m) và thung lũng
Thuận Châu. Cao nguyên phía Nam là cao nguyên Mộc Châu có độ cao khoảng
1.000m nó cũng tách biệt với cao nguyên Sơn La bởi khe sâu và dốc của sông Ngân
Sáp. Những cao nguyên này nói chung có bề mặt khá bằng phẳng, đặc biệt là cao
nguyên Mộc Châu. Hệ núi đá vôi tạo thành cao nguyên này chạy thấp dần theo hướng
Đông Nam, xuống tới vùng Đồng Giao đến sát bờ biển hình thành ranh giới của đồng
bằng Bắc bộ và Thanh Hoá.
Tiếp theo phần lãnh thổ phía Tây của Việt Nam còn chưa được nghiên cứu đầy
đủ. Vùng này giữ quan hệ tạo sơn với dẫy núi của các đen đin, Pùsam sao) theo đó
tồn tại danh giới Việt - Lào. Vùng này còn tham gia vào việc tạo thành lưu vực sông
Hồng Hà. Những vùng này được tạo thành bởi nhiều loại đá mẹ khác nhau (đá granit.
đá gơ nai, điệp thạch...) nó có địa hình dạng núi thấp hay trung bình hơi thoai thoải.
Không ít những thung lũng lớn nằm trong hệ thống núi này, ví dụ Điện Biên Phủ có
chiều dài 25 km, rộng 5-6 km.
Sông, suối trong vùng núi chảy xiết, tham gia tích cực vào quá trình tạo thành địa
hình, lòng sông đầy đá to, sông đâm vào các tầng đá mẹ, tạo phù sa.
Độ dốc của núi và hình dáng của các sườn núi quan hệ mật thiết với đặc điểm đá
mẹ hình thành, đặc biệt là độ dốc vùng núi đá vôi. Núi từ đá diệp thạch thấp và bằng
hơn các dạng đá mẹ khác - dạng trung gian.
Tóm lại địa hình vùng núi Bắc Việt Nam có những đặc điểm chính sau:
- Sự tương phản cao giữa vùng đồng bằng Bắc bộ trẻ, bằng phẳng và đồng bằng
ven biển với vùng tiếp giáp với nó địa hình phân cách nhiều, địa hình được tạo thành
từ đá mẹ cổ sơ và có lịch sử phát triển lâu dài.
- Sự tương phản giữa những dạng tương đối bằng phẳng bao quanh các đỉnh núi
và sống núi có độ dốc khá dựng đứng của sườn và các thung lũng sông trong vùng núi.
- Là sự kém phát triển của các thung lũng, thềm sông, suối cả vùng núi và đồng
6
bằng.
- Là sự tồn tại mối quan hệ chặt chẽ của hình dáng địa hình với đặc điểm đá mẹ
tạo ra nó.
1.2. YẾU TỐ KHÍ HẬU
Bắc Việt Nam trong vùng nhiệt đới gió mùa, ánh sáng đầy đủ, nhiệt cao. Nhưng
hai yếu tố là địa hình và cường độ tác động của luồng không khí lạnh từ phương Bắc
có ảnh hưởng lớn đến khí hậu Bắc Việt Nam.
Từ tháng 9 cho đến tháng 3 năm sau vùng Đông Nam Á (có Việt Nam nằm trong)
chịu ảnh hưởng của khí áp cao vùng châu Á, trung tâm của nó là cao áp Xibêri. Từ đó
có một bộ phận không khí lạnh di chuyển về phía Nam, tạo ra gió khống chế trong
mùa này, nó làm thay đổi đặc điểm khí hậu Bắc Việt Nam, làm tồn tại ở đây có hai
mùa, mùa đông lạnh lẽo và khô mà các nơi khác cùng vành đai không có.
Sự chênh lệch khí hậu từ Bắc vào Nam (ở Việt Nam) trong mùa hè không lớn.
Thí dụ nhiệt trung bình cao ở Lạng Sơn là 27oC (21o52’ N) ở và Nội là 28oC (21o 02')
còn ở thành phố Hồ Chí Minh 28oC (20o05’). Nhưng trong mùa đông rất khác biệt:
Lạng Sơn 13o3C, Hà Nội 16o6C, Thành phố Hồ Chí Minh 21o7C (tháng 1). Xu hướng
chung của luồng không khí lạnh là đi từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây.
Địa hình cũng có ảnh hưởng lớn đến khí hậu bắc Việt Nam đặc biệt quan trọng là
độ cao các dẫy núi, các vòng cung Ngân Sơn, Phía Biooc, Tam Đảo đặc biệt là Hoàng
Liên Sơn và Pú Lường. Chiều cao của nó làm cản trở luồng không khí lạnh phương
Bắc. Thí dụ Lạng Sơn tần suất không khí lạnh là 22 lần/ năm, Lai Châu là 7 lần/năm,
Hà Nội là 20,6 lần/năm, Sơn La là 11,21 lần/năm, Điện Biên Phủ là 5,2 lần/năm, Vinh
là 15,4 1ần/năm, Đồng Hới là 14 1ần/năm.
Độ lục địa ảnh hưởng ít đến khí hậu Bắc Việt Nam, địa hình ảnh hưởng lớn, vùng
Tây Bắc đầu mùa hè có gió Lào là do địa hình, mùa đông ấm hơn vùng Đông Bắc và
đồng bằng là do dãy Hoàng Liên Sơn tạo thành lá chắn. Độ cao cũng có ảnh hưởng
đến khí hậu Bắc Việt Nam, thường cứ lên cao 100m thì nhiệt giảm 0,5 - 0,6oC quy luật
này đúng cho cả mùa đông và mùa hè. Đa số các nhà khoa học cho rằng khí hậu Bắc
Việt Nam là khí hậu nhiệt đới bị biến tính bởi gió mùa và bị chia thành 3 đai theo độ
cao địa hình.
Do ảnh hưởng của gió lạnh và địa hình nên khí hậu Bắc Việt Nam có thể chia
thành 2 vùng : Tây Bắc và Đông Bắc. Căn cứ theo quy luật biến đổi của khí hậu có thể
chia làm 4 mùa. Từ tháng 11 đến tháng 2 là mùa khô lạnh lượng mưa khoảng 100 300mm/3 tháng. Nhiệt dao động từ 14 – 19oC, vùng Đông Bắc xuống tới 12oC. Mùa ẩm
và mát từ tháng 2 đến tháng 4. Từ tháng 5 đến hết tháng 9 là mùa mưa ẩm. Nhiệt độ
trong thời kỳ này đạt trị số tối đa, gió từ biển thổi vào mang theo mưa lớn, thường có
bão. Từ cuối tháng 9 đến tháng 11 là mùa hơi khô, mát mẻ, nói chung về nhiệt độ ở tất
cả các trạm đều phản ánh cùng quy luật là tháng 12,1,2 có nhiệt độ thấp nhất dao động
7
lừ 13 – 18oC, đến tháng 4 nhiệt tăng nhanh, từ tháng 5 đến tháng 9 nhiệt cao nhất từ 26
– 29oc, tháng 10, 11 giảm dần nhiệt độ. Ở hai vùng Tây Bắc và Đông Bắc có khác
nhau ít nhiều. Thí dụ: Nhiệt tối cao ở Tây Bắc đạt được trong tháng 4 còn ở Đông Bắc
đạt được trong tháng 7. Trong vùng núi cao 500m trở lên nhiệt độ tối thấp tuyệt đối có
thể xuống tới 0oC, còn giữa hai vùng Đông Bắc và Tây Bắc thì Tây Bắc cao hơn ít
nhiều.
Sự phân bố mưa trong các vùng khác nhau phụ thuộc vào địa hình. Nguyên nhân
của sự khác nhau này liên quan đến hướng núi và gió mùa từ hướng Đông Nam đi vào.
Các dẫy núi cao cũng tạo thành bức thành chắn gió lại càng mưa nhiều hơn. Như vùng
núi và chân núi Hoàng Liên Sơn, Pú Lường (trạm Sa pa: 2.975m là Tam Đường:
2.663mm,Cao nguyên Sìn - Hồ: 2.698 mm), các dãy núi vùng Tam Đảo : 2564mm, cao
nguyên Bắc Quang gần 3000mm, Hà Giang: 2440mm.v.v... Ngược lại ở một số cao
nguyên nằm khuất sau các dẫy núi thì lượng mưa giảm xuống như Điện Biên Phủ:
l439mm, Cò Nòi: l367mm, Sông Mã: 1286mm, Lục Ngạn: 1265mm, lượng mưa được
biểu thị trên hình 1 . Đường cong biểu thị phân bổ mưa có nhiều dạng khác nhau, song
có thể khái quát lại trong hai dạng: Kiểu 1 : có 2 cực đại đặc trưng cho vùng nhiệt đới.
Kiểu 2: có 1 cực đại, đặc trưng cho vùng á nhiệt đới (hình 1).
Thời gian có nắng vùng Tây Bắc ít thay đổi, nó dao động từ 120 đến 200
giờ/tháng. Tháng 1,2 khoảng 120 - 150 giờ/tháng, sang tháng 3 tháng 4 tăng dần lên
180 - 230 g/tháng.. Vùng Đông Bắc có hơi khác, ở đây giảm xuống từ tháng 1 đến
tháng 3 là cực tiểu (từ 30 - 60g/tháng). Sau đó tăng lên và đạt đến tối đa vào 7, 8, 9 có
khi cả tháng 10 (từ 170 đến 220 g/tháng), sau đó giảm dần xuống.
Độ ẩm tương đối của không khí khá cao, dao động từ 84 - 88 % một số nơi vùng
Tây Bắc trong các tháng khô (3, 4) độ ẩm có thể giảm xuống 70 – 73%.
Độ ẩm khá cao nên độ bốc hơi nước ở đây thấp. Tổng lượng nước bốc hơi cả
năm không nơi nào đạt 1000mm. Nghĩa là nhỏ hơn nhiều so với tổng lượng mưa.
Cường độ bay hơi giảm xuống trong mùa khô, điều này thấy rõ ràng ở vùng Tây Bắc.
Tóm lại: Khí hậu Bắc Việt Nam nói chung thuộc khí hậu nhiệt đới, nhưng trong
vùng núi thì có chia thành các đai khí hậu: nhiệt đới, á nhiệt đới, nhiệt đới đai cao. Ở
từng vùng khác nhau sự phân đai khác nhau. Trên lãnh thổ Bắc Việt Nam các điều
kiện khí hậu bị phức tạp hoá bởi sự xuất hiện của không khí lạnh tràn đến và ảnh
hưởng của các hệ núi, xem xét toàn bộ các đặc điểm về khí hậu Bắc Việt Nam có thể
chia thành 4 mùa và hai vùng khí hậu - Tây Bắc và Đông Bắc theo đặc điểm khí hậu so
sánh với các điểm cùng đai, vùng Tây Bắc có nhiều đặc điểm biểu thị gần xích đạo
hơn vùng Đông Bắc.
Đặc điểm các dòng chẩy:
Hệ thống sông ở Bắc Việt Nam rất dầy đặc, điều này rõ ràng có quan hệ với
lượng mưa lớn và bay hơi ít đã tạo ra nhiều dòng chảy. Tây Bắc có một số hệ thống
8
sông lớn như, sông Đà, sông Mã. Đông Bắc có hệ thống sông Hồng và hệ thống sông
Thái Bình, sông Lô, sông Gâm, sông Chảy, các nhánh như sông Năng, Ngô Quế, vùng
Đông Bắc còn có 3 hệ thống sông - hệ thống sông Cầu, Thương, Lục Nam. Hệ thống
sông Bằng Giang, Kỳ Cùng, hệ thống ven biển của tỉnh Quảng Ninh, ngoài ra còn có
nhiều nhánh sông nhỏ, suối.
Biến động các yếu tố khí hậu thuộc vùng Tiên Yên
Độ cao: 24,5m; 21019'N; 107023'E
Biến động các yếu tố khí hậu thuộc vùng Mộc Châu
Độ cao: 956m; 20049'N; 104042'E
9
Địa hình vùng núi trẻ và chuyển đột ngột sang đồng bằng nên ảnh hưởng lớn đến
các dòng sông như lòng sông hẹp, dốc, thung lũng có vách dựng đứng, nhiều ghềnh
thác đôi khi tạo thành hồ lớn. Trong vùng núi tốc độ dòng chảy lớn do độ dốc của
dòng lớn - Sông Hồng 22 cm/km đoạn từ Lào Cai đến Việt Trì. Sông Đà là 38 - 44
cm/km, do mưa lớn tập trung trong mùa hè nên cũng ảnh hưởng đến tốc độ dòng chảy
như sông Hồng mực nước thấp nhất tốc độ dòng chảy là 500 m3/ giây, mùa nước là
30.000m3/ giây, sông nhỏ và suối sự thay đổi càng lớn. Như sông Đà từ 200 đến 1.800
m3/ giây, sông Lô từ 150 đến 10.000m3/giây. Sông Thương, Lục Nam từ 3,6 đến 1200,
1400m3/giây. Lượng vật chất cứng mang theo trong nước cũng thay đổi lớn theo mùa,
và tuỳ thuộc vào từng sông. Sông Hồng tại Hà Nội thời kỳ nước thấp là 200 300g/1m3 nước, mùa mưa là 2 - 3 Kg/1m3 nước. sông Lô tại Tuyên Quang mùa khô là
15 20g/1m3, còn mùa mưa là 350 - 430g/1m3, sông Cầu là 16 - 65 g/1m3.
1.3. ĐẶC ĐIỂM LỚP PHỦ THỰC VẬT
Miền núi Bắc Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh,
mùa hè nóng ẩm có mưa, tồn tại 3 đai thực bì.
Vùng núi thấp thường tồn tại kiểu rừng rậm nhiệt đới thường xanh có gió mùa.
có cây lá rộng.
Vùng núi trung bình có kiểu rừng rậm nhiệt đới cây lá rộng hỗn giao với lá kim
hay cây lá rộng nửa rụng lá.
Vùng núi cao có rừng rậm thường xanh khô, cây gỗ thấp, cong queo.
Ngoài ra ở vùng thấp còn có rừng tre, nứa một số trong đó có thể có nguồn gốc
nguyên sinh, còn phần lớn là thứ sinh.
Ở vùng núi đá vôi cũng có loại rừng rậm nhiệt đới mưa mùa trên núi đá vôi, chủ
yếu là cây lá rộng, càng lên cao cây càng thấp, cong queo, thưa dần.
Trong quá trình hoạt động khai phá, các kiểu rừng trên (đặc' biệt là vùng núi
thấp) chỉ còn sót lại từng mảnh trong những vùng xa xôi, hiểm trở, còn phần lớn đã bị
thay thế bằng các kiểu rừng thứ sinh. Rừng thứ sinh này tồn tại ở nhiều dạng khác
nhau tuỳ thuộc vào độ phì của đất. Rừng thứ sinh thường gặp ngày nay là loại rừng
hỗn giao gồm nhiều cây nhỡ, cây bụi, dây leo, cây thuộc thảo, tỷ lệ cây chịu hạn, ưa
sáng tăng lên. Cũng có những rừng thứ sinh thuần loại như rừng vầu, nứa, giang, chuối
rừng...
Rừng thứ sinh bị tiếp tục khai thác nhiều lần sẽ hình thành các kiểu thảm cỏ,
hoặc Savan hoặc thảm cây bụi... Đặc biệt do mùa đông lạnh và hơi khô nên phù hợp
cho sự phát triển của thảm cỏ.
Thường gặp ở đây các kiểu thảm cỏ tranh, cỏ lông và cỏ xương, hay kiểu cỏ
tranh lẫn cỏ lông và xương hoặc Savan cỏ như lau, chít, hoặc lau với chít, chè vè, cỏ
lào với cỏ tranh, guột... Thảm cây bụi như sim, mua, sầm, thành ngạnh, thanh hao, hỗn
10
hợp hay thuần loại.
Hiện nay nhiều nơi trên loại hình này đang được trồng một số cây rừng, cây công
nghiệp... các kiểu thảm cây trồng thường gặp nhất hiện nay là rừng bạch đàn, mỡ, bồ
đề, long não, lim hoặc hỗn hợp vài loài như lim, lát, ngát, vạng, trám, keo... trong tổ
hợp từ 3 - 5 loài. Ngoài ra còn một số kiểu rừng trồng cây công nghiệp như trâu, đồi
cây ăn quả, chè và các loại cây kinh tế khác.
Trên những vùng đất bằng thấp tồn tại các loại cây lương thực, cây làm thức ăn
cho người và gia súc, các loại cây kinh tế khác.
1.4. ĐẤT ĐAI
Đất đai vùng đồi núi Bắc Việt Nam có lịch sử hình thành khác nhau, nhưng có
chung đặc điểm của sản phẩm phong hoá vùng nhiệt đới ẩm là có nhiều sắt và nhôm.
Sắt nằm trong các dạng ôxit là nguyên nhân chủ yếu của màu vàng và đỏ.
Trong điều kiện khí hậu nóng và ẩm, cũng như sự đa dạng của lớp phủ thực vật,
quá trình phong hoá và quá trình tạo thành đất xẩy ra mạnh mẽ hơn so với vùng ôn
đới. Đồng thời quá trình phong hoá hoá học cũng biểu thị mạnh mẽ hơn là quá trình lý
học, khi lớp phủ thực vật bị phá, quá trình phong hoá sẽ bị thay đổi bởi quá trình thoái
hoá, đó là sự phá huỷ đất
Có nhiều bảng phân loại đất bắc Việt Nam nhưng có lẽ hợp lý hơn là bảng phân
loại đất của Viện thổ nhưỡng (1980) và bản đồ đất Việt Nam tỷ lệ 1/1.000.000 của Hội
Khoa học đất Việt Nam (1996). Bắc Việt Nam theo bảng này có 12 lớp phụ và 34
kiểu. Phân bố rộng rãi hơn cả là lớp phụ đất feralít đỏ vàng có mùn trên núi (lớp phụ
10) - 20%.
Những kiểu đất chính thường gặp ở vùng núi bắc Việt Nam là:
- Kiểu 50: Đất Feralít nâu đỏ trên đá mácma trung tính hay bagiơ, chiếm diện tích
- 410.595 ha, thường gặp ở Vịnh Phúc, Tây bắc trên địa hình đồi bát úp.
Kiểu 52: Đất Feralít nâu đỏ trên đá vôi. Chiếm 4% diện tích - 208.837ha, gặp ở
Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà tuyên, một số vùng Tây bắc, trong các thung lũng đá vôi.
Kiểu 53: Feralít đỏ vàng trên đất sét hay đá biến chất 53% diện tích - 2.990.701
ha. Phân bố vùng đồi và núi thấp của vùng trung tâm bắc Việt Nam, hiện nay vùng đất
này không có rừng che phủ, là thảm cỏ hay cây bụi.
Kiểu 54: Feralít vàng đỏ trên đá mácma axid chiếm khoảng 10% diện tích 533.732 ha. Phân bố núi thấp địa hình phân cắt mạnh sườn dốc 20 – 250
- Kiểu 55: Đất vàng nhạt Feralít của đá sa thạch, chiếm tới 22% diện lích 1.234.190 ha. Phân bố ở đồi núi thấp, địa hình phân cắt mạnh.
- Kiểu 56: Đất Feralít vàng nâu trên đất nền phong hoá đệ tứ. Chiếm khoảng 2%
diện tích. Phân bố vùng thấp hơn khá bằng phẳng.
11
- Kiểu 57: Đất Feralít vàng nâu chiếm khoảng 2% diện tích 107.991 ha. Phân bố
vùng chân núi thấp (Đất trồng lúa).
Lớp phụ X: Đất Feralít vàng hơi đỏ có mùn trên núi. Loại đất này phân bố trong
rừng trên độ cao từ 600 - 700m đến 1.700 - 1.800 m. Thảm thực vật rừng thường xanh
á nhiệt đới, hay rừng rụng lá từng phần (không hoàn toàn).
Những lớp phụ và kiểu còn lại có diện tích không đáng kể (dưới 10% lãnh thổ),
thường phân bố trên núi cao (Trên 1.800m), ở bờ biển, ở các thềm sông, các thung
lũng.
Nhìn chung đất bắc Việt Nam rất đa dạng, ở một số nơi phân bố lộn xộn (thê
khảm). Đất Feralít đỏ hơi vàng được hình thành trên đá mácma, đá sét đá vôi, đá sa
thạch, biến chất chiếm diện tích lớn nhất trong vùng bắc Việt Nam và đóng vai trò
quan trọng trong loại đất canh tác trước tiên là trong kinh tế nông nghiệp và lâm
nghiệp.
Sự phân bố của các lớp phụ và kiểu đất theo độ cao địa hình ở bắc Việt Nam là
phù hợp với đai cao của khí hậu. Tuy nhiên sự phân chia vùng khí hậu (theo chiều
ngang) không có quan hệ với sự phân chia lớp phụ và kiểu đất trên lãnh thổ bắc Việt
Nam. Khi đi lên theo độ cao của núi cấu trúc của lớp đất cũng đơn giản hoá, quá trình
phong hoá và hình thành đất xảy ra còn yếu hơn, độ dầy lớp đất giảm xuống lớp đất
phủ phức tạp hơn cả là ở đai 0 - 700m (đai nhiệt đới). Đất của đai này được hình thành
trên các loại đá mẹ khác nhau trong các thời kỳ địa chất khác nhau. Ngoài ra việc sử
dụng đất ở cường độ cao trong vùng này đã ảnh hưởng lớn và ảnh hưởng rất xấu đến
quá trình hình thành đất.
12
Chương hai
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đồng cỏ vùng núi phía bắc Việt Nam là loại hình thứ sinh, phân bố lại rác hay
tập trung thành vùng trong hai đai nhiệt đới và á nhiệt đới. Để kết quả nghiên cứu đạt
được độ chính xác lớn hơn trong điều kiện thời gian và sức lực hạn chế, chúng tôi đã
tiến hành nghiên cứu theo hai hệ phương pháp là định vị và điều tra trên diện rộng theo
vùng và tuyến.
2.1.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊNH VỊ
Chúng tôi đã chọn đồng cỏ Thôm - Luồng, Ngân Sơn làm nơi nghiên cứu định vị.
Đồng cỏ Ngân Sơn phân bố ở độ cao từ 500 - 1.000m, với diện tích khoảng 6.000 ha.
Địa hình chia cắt phức tạp, có nhiều khe sâu, độ dốc trung bình từ 20 – 300, có nơi dốc
hơn. Đồng cỏ nhiều nơi đã và đamg sử dụng làm bãi chăn thả, nhưng vẫn có nhiều nơi
còn bỏ hoang. Trong đồng cỏ này chúng tôi đã đặt 2 điểm nghiên cứu định vị tại Thôm
Luông và Khuổi Luông, cách nhau 6km.
Vùng Thôm Luông từ 1974 đã thành lập trại bò với diện tích được giao là 700 ha,
có 300 bò. Tại đây chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu các mặt trong quần hợp cỏ
xương cá + cỏ lông (Arundinella nepalensis + Jschaemul indicum). Đây là quần hợp
cỏ điển hình của vùng này và chiếm diện tích chủ yếu của đồng cỏ. Các thí nghiệm
nghiên cứu định vị đã được dẫn dắt từ năm 1975 đến năm 1980 theo tháng và theo
mùa, tiến hành đồng thời trên 3 môi trường là sườn đồi cao, chân đồi, trên đồi thấp.
Đầu năm 1977 chúng tôi làm hàng rào 1 ô rộng 3 ha (trên đồi thấp) để so sánh, từ năm
1981 đến 1985 chỉ theo dõi mỗi năm 1 lần. Từ 1995 chúng tôi trở lại nghiên cứu vùng
này với ý đồ tìm hiểu về diễn thế đồng cỏ và các mô hình sử dụng.
Vùng Khuổi Luông tiến hành nghiên cứu trong quần hợp cỏ tranh + cỏ lông
(Imperata cylindrica + Ischaemum indicumm) ở vùng này số lần nghiên cứu có ít hơn
vùng trên. Các phương pháp nghiên cứu và thời gian nghiên cứu 2 vùng đều thống
nhất.
2.1.a. Phương pháp nghiên cứu thành phần loài và thành phần dạng sống
Để tiến hành nghiên cứu thành phần loài và thành phần dạng sống, chúng tôi đã
tiến hành thu mẫu trong đồng cỏ Ngân Sơn và đặc biệt trong 2 quần hợp nghiên cứu
định vị. Chúng tôi đã tập nhiều tuyến đi qua nhiều môi trường sống cụ thể, tiến hành
trong 4 mùa của nhiều năm. Mặt khác trên các điểm nghiên cứu định vị chúng tôi đã
làm các ô theo dõi sự biến động cá thể và loài trong nhiều năm, song song với những
nghiên cứu về cấu trúc và năng suất. Mẫu thực vật nghiên cứu thành phần loài vừa để
nghiên cứu dạng sống nên mẫu lấy đầy đủ cả phần dưới đất, đồng thời có quan sát và
mô tả tại chỗ về dạng sống mỗi loài đã lấy mẫu, còn các đợt sau chỉ thống kê.
Mẫu thu về được xử lý, xác định tên theo các khoá phân loại thường dùng. Một
13
số mẫu chúng tôi có nhờ các chuyên gia thực vật học của trường Đại học Khoa học Tự
nhiên ĐHQG Hà Nội và Viện Sinh thái và tài nguyên thực vật (Trung tâm KHTN và
CN quốc gia) giám định. Phần đang sống, mẫu được mô tả đầy đủ về dạng sống và
hình thái của cả hai phần trên và dưới đất, sau đó được sắp xử lại theo kiểu dạng sống
theo quan điểm tiến hoá.
2.1.b. Nghiên cứu về cấu trúc
Nghiên cứu cấu trúc hình thái: Được tiến hành bằng cách lập các ô tiêu chuẩn,
những ô tiêu chuẩn này được đặt trong đồng cỏ (Quần hợp cỏ xuông + cỏ lông) trên
các tuyến đi, diện tích ô là 1m2 nếu là thảm cỏ thuần nhất và 4m2 cho các vùng phức
tạp, hoặc có nhiều cây bụi, thảm cây bụi: các ô tiêu chuẩn được mô tả theo phương
pháp thường dùng trong sinh thái học.
- Để nghiên cứu về sự biến động loài và cá thể trong quần xã và quần thể, ngoài
việc tiến hành nghiên cứu trên diện rộng ở các mùa khác nhau, chúng tôi còn lập một
số ô tiêu chuẩn cố định trong hai vùng chăn thả và bảo vệ theo dõi vài năm, trong các
ô này ngoài những chỉ tiêu chung về cấu trúc hình thái còn tiến hành đếm số lượng
loài, số cá thể, số chồi và chồi sinh sản của từng loài trong ô và qua các mùa.
- Nghiên cứu về cấu trúc thảm cỏ: Để nghiên cứu cấu trúc thẳng đứng của thảm
cỏ, chúng tôi đã dùng ô tiêu chuẩn với diện tích 0,25m2, các loài cỏ trong ô được cắt
theo tầng cỏ 10cm.
Những phần cỏ đã được cắt này sẽ phân thành hai phần tươi và khô. Phần tươi lại
được phân chia theo loài, phần tươi của từng loài sẽ được phân thành 3 phần: phiến lá,
thân và cuống lá, cơ quan sinh sản, phần chết của từng tầng để riêng, tầng sát mặt đất
được phân thành phần khô và phần bán mục. Phần khô là phần chết nhưng còn quan hệ
với cơ thể thực vật. Phần bán mục là phần chết đã tách khỏi cơ thể, là mẫu riêng biệt.
Nghiên cứu cấu trúc phần dưới đất được tiến hành theo phương pháp đào phẫu
diện đất ngay tại ô đã làm phần cấu trúc trên mặt đất. Phẫu diện được đào sâu đến
100cm, rộng 50cm, mẫu đất được lay theo tầng 10cm lừ trên xuống, khối đất lấy là 10
x 10 x 30cm. Mẫu đất từng tầng được ngâm trong dung dịch acidacetíc 7% trong 10
giờ, rồi rửa qua rây có mắt là 1,5 x 1,5mm. Mẫu rễ được phân thành phần sống và
phần chết, phần sống được phân ra thành 5 nhóm: thân rễ, rễ cái, rễ bên, rễ bất định, rễ
con.
Tất cả hai phần trên và dưới đất đều được sấy khô trong tủ sấy ở nhiệt độ 1100C
trong 12 tiếng, rồi cân từng phần riêng.
Số lần lặp lại cho từng điểm là 5.
2.1.c. Nghiên cứu năng suất
Để xác định khối lượng thực vật của cả 2 phần trên và dưới đất, chúng tôi cũng
đã sử dụng phương pháp ô tiêu chuẩn như phần nghiên cứu cấu trúc sau khi lấy mẫu
14
phần trên mặt đất (cắt sát đất). Chúng tôi lấy mẫu phần dưới đất, tới độ sâu 30cm, chia
thành 3 tầng. Mẫu mang về cũng được xử lý như nghiên cứu cấu trúc. Trong ô thí
nghiệm định vị mẫu vật được lấy theo tháng và theo mùa; các điểm khác lấy vào tháng
1 và tháng 10 . Để xác định sự tăng trưởng trong năm chúng tôi lay tháng cao nhất trừ
đi tháng thấp nhất. Năng suất tổng số được tính toán theo cách tính của Badilêvik và
Tilianova (1975).
P = ∆T + ∆L + ∆m1 + ∆R + ∆r + ∆m2
Trong đó:
P: là năng suất sinh học toàn phần.
∆T : Sự tăng trưởng của phần sống trên mặt đất.
∆L: Sự tăng trưởng của phần chết trên mặt đất.
∆R: Sự tăng trưởng phần sống dưới đất.
∆r : Sự tăng trưởng phần chết dưới đất.
∆m1,2 : Số lượng bị phân huỷ trong năm của phần trên và dưới đất.
Để tính diện tích lá chúng tôi tiến hành theo phương pháp trọng lượng. Trước
tiên chúng tôi xây dựng bảng hệ số tương quan giữa trọng lượng và diện tích lá cho
từng loài. Từ hệ số này tìm diện tích lá cho từng loài và cho cả quần xã.
Để xác định tốc độ tích luỹ và phân huỷ đã làm phương pháp bổ sung:
Đối với phần trên mặt đất sử dụng các túi lưới mắt nhỏ (1,5 x 1,5mm) bằng sợi
tổng hợp trong đựng một khối lượng mẫu cỏ (phần bán mục) có trọng lượng biết trước
(xác định trọng lượng theo độ khô không khí), sau đó được đem gắn vào trong ô
nghiên cứu (sát đất). Sau 1 tháng lấy về một số, phơi khô không khí, cân. Sau tháng
thứ hai lấy tiếp một số nữa và cứ như thế đến hết. (5 túi/ tháng).
Đối với phần dưới đất chúng tôi đã làm như sau: cắt bỏ phần trên mặt đất, đào lấy
một khối đất nguyên vẹn 10 x 20 x 30cm, sau đó cắt bỏ 2 em bề mặt, gỡ nhẹ lấy thân
rễ (còn sống) trong khối đất, phần thân rễ và phần rễ trong lớp đất 2cm được đem rửa
sấy khô, cân. Khối đất còn lại được đem vùi vào ví trí cũ, sau 1 tháng lấy lên, đem rửa
theo phương pháp trên để lấy rễ. Thí nghiệm này được lặp lại 3 lần ở mỗi đợt sai số
của phần năng suất chung ở trên với thí nghiệm này, được coi là số bị phân huỷ trong 1
tháng.
2.2. PHƯƠNG PHÁP ĐIỂU TRA TRÊN DIỆN RỘNG
Ngoài 2 vùng nghiên cứu định ví, chúng tôi đã tiến hành điều tra trên diện rộng ở
những vùng thuộc Tây Bắc và Đông Bắc. Tại các vùng nghiên cứu chúng tôi cũng lập
các tuyến đi, lấy mẫu theo tuyến đi đồng thời tiến hành nghiên cứu về cấu trúc hình
thái, cấu trúc thảm cỏ, khối lượng thực vật cả phần trên và dưới đất theo phương pháp
15
ô tiêu chuẩn dọc theo tuyến, số lần lặp lại tại mỗi điểm là 5.
Tại vùng nghiên cứu định vị Thôm Luông và Khuổi Luông cũng như các vùng
trên tuyến điều tra ở Đông Bắc và Tây Bắc, trong mỗi lần lấy mẫu cỏ đều lấy mẫu đất,
thông thường lấy 3 tầng (sâu 30cm), mẫu đất được xử lý và nghiên cứu các chỉ tiêu về:
độ ẩm, mùn, N, P, K dễ tiêu và nghiên cứu thành phần cơ giới, độ xốp ở một số điểm.
Nghiên cứu thành phần hoá học ở một số loài cỏ vùng Thôm Luông theo phương
pháp hiện hành của hoá thực vật (số liệu phân tích nhờ phòng hoá thc vật ĐHKH Tự
nhiên thuộc ĐHQG Hà Nội và Đại học Nông Lâm Thái Nguyên).
(Các điểm nghiên cứu: Thái Nguyên: Định Hoá, Võ Nhai, Đại Từ, Phú Bình,
Đồng Hỷ; Bắc Kạn, Ngân Sơn, Cho Rã, Na Rì; Cao Bằng: Nguyên Bình: Hoà An, Hoà
Quảng; Lạng Sơn, Chi Lăng, Hữu Lũng, Cao Lộc,, Bắc Sơn; Quảng Ninh, Đông Triều,
Tiên Yên, Móng Cái, Tuyên Quang, Na Hang, Sơn Dương; Yên Bái: Nghĩa Lộ, Mù
Cang Chải; Tây Bắc gồm các vùng: Lào Cai: Than Uyên, Phong Thổ, Lai Châu: Điện
Biên, Tuần Giáo, Pha Đin; Một Châu, Phú Yên, Bắc Yên, Hoà Bình).
16
Chương ba
PHÂN LOẠI ĐỒNG CỎ
VÙNG NÚI BẮC VIỆT NAM
3.1. NGUỒN GỐC, ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI VÀ PHÂN LOẠI CÁC QUẦN
XÃ THUỘC ĐỒNG CỎ VÙNG NÚI BẮC VIỆT NAM.
3.1.1. Nguồn gốc
Bắc Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt trung bình năm dao động
khoảng 20 – 250c, trung bình của các tháng nóng 23 – 280C, trung bình tháng lạnh 12 –
170c, trong vùng núi có thể thấp hơn. Lượng mưa hàng năm dao động từ 1.400 2.400mm, một số nơi có thể cao hay thấp hơn, đồng thời chủ yếu tập chung trong các
tháng từ 5 đến 1 0 những tháng còn lại lượng mưa dao động từ 20 - 70mm, trong đó có
từ 1 đến 3 tháng lượng mưa không đáng kể. Bắc Việt Nam lớp vỏ phong hoá khá dầy,
trung bình từ 1,5 - 5m, vì vậy lớp đất cũng lớn, lớp có mùn đạt từ 10 - 25 cái. Mực
nước ngầm trung bình là 2 - 3m (theo Phơ - rít - lan 1961, 1964). Những điều kiện
thuận lợi của vùng bị thay đổi nhiều trong quá trình phát triển lịch sử, đặc biệt là khí
hậu (Vun - phơ, 1944 và các T. G khác). Tổng hợp các yếu tố này tạo điều kiện hình
thành rừng nhiệt và á nhiệt đới Bắc Việt Nam, phân bố ở các độ cao khác nhau
(Chevalier, 1918; Maurand, 1943, 1953; Schmid, 1962; Thái Văn Trừng, 1972, 1978).
Những kiểu rừng nguyên thuỷ này đã bị thay đổi dưới tác động của con người và hình
thành các kiểu thứ sinh.
Khi nghiên cứu về nguồn gốc thứ sinh của các thảm cỏ trong các vùng nhiệt đới
khác nhau, các nhà nghiên cứu đi đến kết luận rằng, các quần xã cỏ và cây bụi trong
vùng nhiệt đới đều hình thành trên những quần xã rừng bị chặt hạ (Cooper, Tai ton 1968. Pleming, 1968; Schmell, 1970; Dương Hữu Thời 1981). Rõ ràng là khi chặt phá
rừng làm nương rẫy, và đất đã làm đất bị cháy và khô đi. Những tác động này được kết
thúc vào cuối mùa khô. Đầu mùa mưa ở đây sẽ được gieo các loại cây trồng nông
nghiệp. Trải qua nhiều lần như vậy đất sẽ được bỏ hoang, trên nó lại phục hồi dần rừng
thứ sinh, và lại tiếp tục bị chặt hạ để trồng trọt. Kết quả dẫn đến rửa trôi mạnh lớp đất
mặt, cây gỗ không có điều kiện tái sinh nữa, hình thành nên lớp cỏ hay có lẫn một số
loài cây thảo và cây bụi hạn sinh.
Trong vùng á nhiệt đới Bắc Việt Nam, trên những chỗ bị tàn phá như vầy hình
thành thảm cỏ với những cây hoà thảo, sa thảo, vài năm sau lại bị đốt, làm cho các yếu
tố môi trường bị nghèo kiệt dần, làm giảm mực nước ngầm, đặc biệt là làm nghèo
thành phần loài thực vật, tăng tỷ lệ cây hạn sinh. Về ngoại mạo nó gần giống thảo
nguyên vùng ôn đới.
Cũng tương tự như vậy có sự tác động của con người lên lớp phủ,thực vật vùng
nhiệt đới, nhưng mức độ tác động thậm chí còn mạnh hơn, làm cho lớp đất bị rửa trôi
17
mạnh hơn, và đặc biệt là hình thành tầng đá ong. Điều này làm cho độ phì đất bị giảm
cực đại, giảm khả năng thấm nước của đất, do đó bề mặt bị đốt nóng mạnh trong thời
kỳ khô nóng (có khi lên đến 600C). Trong điều kiện đó hình thành các kiểu Savan và
Savan giả khác nhau với ưu thế của các loài hạn sinh, vùng núi thấp tồn tại Savan cỏ
với sự điểm cây gỗ, cây bụi. Những loài thường gặp là: Miscanthus Floridulus,
Saccharum arundinaceunm, Themeda giganthea, Thysallolaena maxima,
Chromolaena odorata, Eurva acuminata, Cratosylon cochinchinensis, Phyllanthus
emblica, Aporosa dioica...thảm cây bụi hạn sinh thường gặp các loài – Melastoma
septemnervium, Rhodomyrtus tomentosa, Memexylon edule, Baeckea frutescens,
Dicranopteris linearis, và nhiều loài cây thảo khác.
3.1.2. Phân loại đồng cỏ
Phân loại là điều cần thiết trong nghiên cứu thảm thực vật, và trong tư liệu đã có
rất nhiều bảng phân loại thực bì.
Đối với vùng nhiệt đới và á nhiệt đới Nam Trung Quốc, Đưlit (1958) đã dựa vào
độ dẻo và độ phì của đất để phân chia các kiểu rùng thông Pinus yunnanensis; và dựa
vào cả địa hình để phân chia như Va-rô-nốp, Da-nat-va (1965). Phân tích các công
trình của N.B.Ka-ba-nốp (1971) thấy rằng, khi phân chia ông đã gộp các kiểu vào
thành nhóm trên cơ sở độ dầy của lớp đất trên các sườn dốc và mỏm, trên sườn dốc lớp
đất mỏng hơn, trên đất đá vôi, trên bãi bồi của các sông, suối trong rừng, trên các khe
núi. Phân chia loại hình đồng cỏ chỉ có trong các công trình của Wang (1961, 1965)
Chang (1957), Keng (1959).
Ở Ấn Độ, thuộc loại đầu tiên có lẽ là Champion (1936) Champion, Griffithe
(1948). Bảng phân loại các kiểu rừng và đồng cỏ ngày nay đã có sự thay đổi nhiều
trong mối quan hệ với những đơn vị về phân chia kiểu đất Puri (1960); Whyte (1968);
Champion, Seth, (1968); Lakshamanan, (1968), Seth, Kinh (1978).
Ở Malaixia tồn tại các kiểu rừng khác nhau, nó phụ thuộc từ yếu tố sinh thái, địa
hình, và độ ẩm, đã được đề cập bởi Fox, (1971, 1973); Fox, Tan Teong Hing (1971).
Trong công trình của Whitmore (1973, 1975) đã nhấn mạnh các kiểu rừng trên lớp vỏ
phong hoá của đất mưa ẩm và granít.
Ở Inđônixia cũng như Malaixia. việc phân chia các kiểu trong mối quan hệ với
thổ nhưỡng, các tác giả nhấn mạnh rằng trong vùng nhiệt đới dù chỉ khác biệt rất ít về
đất đai cũng dẫn đến sự khác nhau về thành phần hệ thực vật, cũng như sự phức tạp
của quần xã Richards, (1961, 1963); Bruning, (1970, 1973).
Những công trình chủ yếu về phân loại thảm thực vật ở Đông dương rất ít, phân
loại thảm cỏ lại càng ít hơn. Nó chỉ có rải rác ở từng phần trong các công trình chung
về phân chia loại hình của từng tác giả Maurand, (1943, 1954); Dương Hàm Hi,
(1956); Vidal, (1958); Thomasius, (1962, 1965, 1966); Trần Ngũ Phương, (1970);
Schmid, (1962, 1974); Thái văn Trừng, (1962, 1972, 1978); Lê Kim Biên, Lê Văn
18
Thường (1998); Nguyễn Nghĩa Thìn (1998).
Dương hữu Thời (1981) đã mô tả khá tỷ mỉ về thảm cỏ Bắc Việt Nam, ông chia
Bắc Việt Nam ra thành 5 vùng. Trong mỗi vùng ông mỏ tả khá nhiều quần xã đặc
trưng. Nhưng rất tiếc ông không lập bảng phân loại thảm cỏ.
Về vấn đề nguồn gốc đồng cỏ trong đai nhiệt đới : nhiều tác giả cho ý kiến khác
nhau. Đa số cho rằng trong điều kiện khí hậu nhiệt đới không có đồng cỏ tồn tại, các
quần xã cỏ ở đây phải là loại hình Savan (Diel, 1908; Haudel-Mazzeti, 1921, 1927;
Ilinskii. 1937; Maurand, 1943, 1953; Krácnốp, 1984).
J. Vidal (1958) khi phân chia thực bì ở Lào đã xếp các quần xã cỏ vào Savan.
Trong đai dưới 1.000m thì Savan cây bụi (Savane-arbone). Trên 1.000m (từ 1..000 1.800m) nhiệt độ trung bình là 200C, lượng mưa - 2.000mm thì có các kiểu Savan
khác nhau (Savan bụi, Savan gỗ, Savan cỏ tranh, Savan Thysanolaena maxima) và
thảo nguyên giả (Imperata và Curcuma). Thảo nguyên giả phân bố trong đai 1000 1200m. Kerbanôp (1962) khi phân loại thực bì Nam Trung Quốc (tỉnh Vân Nam), đã
gọi các quần xã cỏ thứ sinh là Savan, ông chia Savan bụi và Savan rừng. Savan bụi
phát triển trên sườn dốc, có nhiều ánh sáng, theo thành phần loài và đặc điểm chung,
nó giống Savan bụi của Vidal (1958). Savan rừng (Savan điểm cây) chiếm diện tích
lớn hơn, nó phân bố ở độ cao từ 250m trở lên, và phát triển trên đất rừng bị phá. Trong
kiểu này được chia thành 5 tầng, trong đó tầng cỏ là liên tục và khép tán.
Theo M. Numata (1979). Bắc Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió
mùa, mùa đông khô, mùa hè mưa ẩm. Trong điều kiện như vậy xuất hiện các quần xã
cỏ thuộc kiểu đồng cỏ. Savan chỉ gặp ở các vùng có lượng mưa thấp từ 200 - 800mm,
và mùa khô kéo dài trên 7 tháng . Vì vậy Bắc Việt Nam không có Savan, Dương Hữu
Thời (1981) cũng đã đưa ra kết luận tương tự.
Thái Văn Trừng (1970, 1978) khi giải quyết những khó khăn về việc phân chia
các đơn vị nhỏ trong hệ thống phân loại thảm thực vật và chia các loại thảm cỏ, ông đã
phân chia rừng nhiệt đới theo những điều kiện của nơi sống với sự phân chia ra các
kiểu ngoại mạo (kiểu nơi sống, kiểu đất rừng) và gọi các thảm cỏ là "Trảng" - trảng
cây bụi, trảng cỏ, theo ông trảng không phải Savan cũng không phải đồng cỏ.
H.Walter (1939, 1970) cho rằng, Savan là loại hình thực vật đặc trưng cho vùng
nhiệt đới, nó đối lập với rừng và thảm cây bụi và cũng đối lập với thảm có nhiệt đới.
Savan là loại hình thực vật cỏ chiếm ưu thế, cỏ là tầng ưu thế sinh thái và trên đó có
cây gỗ hay cây bụi mọc rải rác. Nếu không có cây gỗ hay cây bụi thì ông gọi là
grassland (đồng cỏ). Như vậy theo ông nhiệt đới có cả Savan và đồng cỏ.
Theo quan điểm của T.A.Rabốtnốp (1974) thì đồng cỏ có thể có ở tất cả các đai,
đổi khí hậu khác nhau và có nguồn gốc khác nhau. Nhưng đồng cỏ phải có thảm cỏ
khép tán với các loài cỏ chủ yếu là trung sinh sống lâu năm có thể ẩm sinh, tuyệt đại
ngừng sinh trưởng vào mùa đông, các điều kiện thuộc môi trường đất thì đa dạng
19
nhưng chủ yếu là ở mức độ trung bình, tức độ phì, độ ẩm trung bình, nồng độ các muối
cũng trung bình.
Tâm đồng với quan điểm phân chia các kiểu thảm thực vật thuộc thảo vùng nhiệt
đới của H.Walter, J.Vidal, Kerbanốp..., vận dụng quan điểm của Rabốtnốp về tiêu
chuẩn xác định đồng cỏ, chúng tôi phân chia các kiểu thảm thuộc thảo Bắc Việt Nam
như sau:
- Về loại hình đồng cỏ như tiêu chuẩn của Rabếtnốp đã nêu ở trên, ở Bắc Việt
Nam loại hình này chiếm diện tích lớn nhất.
- Savan là loại hình thực bì có thảm cây thuộc thảo khép tán và có độ cao nhất
định, có cây gỗ hay cây bụi mọc rải rác, gồm những cây hạn sinh, đa số sống lâu năm,
có thể ngừng sinh trưởng trong thời gian nắng nóng và không đạt được độ ẩm từ đất,
đất có độ phì, độ ẩm, độ pa thấp, nồng độ muối cũng thấp.
- Thảo nguyên là thảm cỏ của vành đai á nhiệt đới, bao gồm những cây cỏ hạn
sinh là chính, sống lâu năm, ngửng sinh trưởng vào mùa đông do nhiệt độ thấp hay
giữa hè do không đạt được độ ẩm, đất có độ phì, độ pH, nồng độ các muối thuộc loại
trung bình.
Từ thực tế nghiên cứu chúng tôi thấy: Bắc Việt Nam tồn tại nhiều kiểu Savan,
đồng cỏ và các dạng trung gian. Trong đai nhiệt đới, trên những vùng đã bị chặt phá,
khi mà đất còn khá tốt, độ ẩm còn khá cao, thì sẽ hình thành ở đây loại hình đồng cỏ vì
thảm cỏ ở đây gồm các cây cỏ có thân rễ dài, búi thưa thuộc nhóm trung sinh sống lâu
năm ngừng sinh trưởng vào mùa đông. Trong quá trình tác động tiếp theo con người sẽ
làm cho lớp đất mặt bị bào mòn, khả năng giữ nước của đất kém, đất có độ chua cao,
trong thảm cỏ tỷ lệ cây hạn sinh tăng lên, cuối cùng chỉ tồn tại ở đây các loài cỏ, cây
bụi hạn sinh, và cây đoản mệnh, hình thành Savan cỏ, Savan cây bụi hoặc thảm cây
bụi hạn sinh, quá trình này có thể tóm tắt như sau: Rừng nguyên sinh - rừng thứ sinh
- Đồng cỏ - Savan cỏ hoặc Savan bụi - Thảm cây bụi hạn sinh. Do đặc điểm của
từng vùng và do mức độ tác động khác nhau của con người mà quá trình này có thể
bỏ qua từng khâu một. So với kiểu Savan điển hình thi Savan Việt Nam không có
hiện tượng ngừng sinh trưởng vào mùa hè, mà chỉ hơi ngừng hay giảm vào thời điểm
nắng nóng cúc đại và mưa thì giảm.
Ở những vùng có độ cao từ 500 - 700m đến 1200 - 1500m, nhiệt trung bình năm
là 1 8 – 220C, lượng mưa trung bình là 1500 - 2500mm , Mưa ở vùng này thường có
một cực đại (chương 1) đa phần vào tháng 8. Mùa khô trùng với thời kỳ lạnh (từ phía
Bắc đổ vào) kéo dài 5 tháng. Tác động của con người có ít hơn so với đai tồn tại Savan
trên, động thái đất trong mối quan hệ với cọn người là không đồng đều ở từng vùng.
Một số nơi độ sâu lớp đất mùn còn dầy 25 - 40cm, có nơi chỉ đạt 15 - 20 cm, độ ẩm đất
khá cao vào mùa hè, pH trung bình, tầng đá ong nằm sâu 1 – 1,5m, và chưa phát triển
mạnh, một vài nơi còn chưa có. Những quần xã có tồn tại trong vùng này chủ yếu là
20
- Xem thêm -