Huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình là vùng đất nổi tiếng về văn hóa dân gian, lễ hội đặc sắc, mang đậm nét văn hóa vùng miền của một số dân tộc ở Tây Bắc, đặc biệt là dân tộc Thái ở Mai Châu. Đây là vùng đất có tiềm năng phát triển du lịch, thu hút du khách đến tham quan và nghỉ dưỡng. Điểm đặc sắc trong văn hóa của người Thái huyện Mai Châu là họ thuộc nhóm “Thái Lai”. Do người Thái Mai Châu ở gần địa bàn người Mường sinh sống lại gần với nhóm Thái ở Lào nên văn hóa của người Thái ở đây có những điểm khác biệt so với người Thái ở khu vực Tây Bắc. Sinh hoạt văn hóa của người Thái ở Mai Châu gồm các sinh hoạt văn hóa phục vụ đời sống tinh thần của người dân ở đây và các sinh hoạt văn hóa phục vụ khách du lịch. Các sinh hoạt văn hóa này cũng vì thế mà mang cả những biểu hiện của văn hóa Thái, văn hóa Mường và văn hóa các tộc người khác.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
-----------------------
LÕ THỊ KIỀU OANH
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA DÂN TỘC THÁI Ở HUYỆN
MAI CHÂU, TỈNH HÕA BÌNH TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH – 2016 – X
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN THỊ LAN
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan tất cả nội dung trong khóa luận với đề tài “Đời sống
văn hóa tinh thần của dân tộc Thái ở Mai Châu – Hòa Bình trong quá
trình công nghiệp hóa hiện nay” là công trình nghiên cứu cá nhân tôi và
dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Lan. Các kết quả nghiên cứu và các
kết luận trong khóa luận này là trung thực, không sao chép từ bất kỳ một
nguồn nào và dưới bất kỳ hình thức nào. Các nguồn tài liệu tham khảo đã
được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu tham khảo đúng quy định, nếu
phát hiện ra có sự gian lận tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hội đồng
và kết quả của khóa luận.
Hà Nội, ngày 30 tháng 5 năm 2020.
Tác giả
Lò Thị Kiều Oanh
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ...................................................................... 1
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 2
1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................. 2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................ 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 6
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu đề tài.......................... 6
6. Đóng góp của Khóa luận ............................................................................. 6
7. Kết cấu của Khóa luận ................................................................................ 7
NỘI DUNG ..................................................................................................... 8
Chương 1. Lý luận chung về đời sống văn hóa tinh thần và đặc điểm vị
trí địa lí, điều kiện kinh tế - xã hội ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình ... 8
1.1. Lý luận chung về đời sống văn hóa tinh thần ....................................... 8
1.1.1. Khái niệm văn hóa và đời sống văn hóa ............................................... 8
1.1.2. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần .................................................. 11
1.2. Vị trí địa lý, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội ở Mai Châu - Hòa Bình
......................................................................................................................... 18
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 25
Chương 2. Đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Thái ở huyện Mai
Châu, tỉnh Hòa Bình trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa –
Thực trạng và giải pháp ............................................................................... 27
2.1. Đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh
Hòa Bình......................................................................................................... 27
2.2. Thực trạng đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Thái ở huyện Mai
Châu, tỉnh Hòa Bình trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ......... 36
2.2.1. Quá trình công nghiệp hóa ở Mai Châu – Hòa Bình ............................ 36
2.2.2. Thực trạng đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Thái ở Mai ChâuHòa Bình dưới tác động của CNH .................................................................. 40
2.3. Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của dân
tộc Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa hiện nay............................................................................. 45
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 50
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 54
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BSVH
: Bản sắc văn hóa
CNH
: Công nghiệp hóa
CVĐ
: Cuộc vận động
ĐSVH
: Đời sống văn hóa
ĐSVHTT
: Đời sống văn hóa tinh thần
GTVH
: Giá trị văn hóa
HĐH
: Hiện đại hóa
MTTQ
: Mặt trận Tổ quốc
TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn
TMC
: Thái Mai Châu
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đời sống văn hóa tinh thần (ĐSVHTT) là một bộ phận tất yếu hợp
thành chỉnh thể đời sống xã hội. ĐSVHTT của con người, của xã hội đang trở
thành mối quan tâm chung của cộng đồng thế giới. Hạnh phúc của con người
không chỉ được đo bằng sự thỏa mãn nhu cầu vật chất mà còn cả sự thỏa mãn
nhu cầu văn hóa tinh thần.
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Đảng ta đã khẳng định nền văn hóa mà
chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị
quyết “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc” [5] do Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) đưa ra đến nay
vẫn là Nghị quyết có ý nghĩa chiến lược, chỉ đạo quá trình xây dựng và phát
triển sự nghiệp văn hóa ở nước ta, cần được kế thừa, bổ sung và phát huy
trong thời kỳ mới. Văn kiện Đại hội X (2006) đã nhấn mạnh: Tiếp tục phát
triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế – xã hội, làm
cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội [7].
Đảng ta đã xác định: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá
nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc,
ý thức độc lập tự chủ, tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào
toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập
thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh
thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” [7,tr.106].
2
Hiện nay, nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước, đặt nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, then chốt. Mục tiêu công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại, của văn minh tin học điện tử, của quá trình toàn cầu
hóa sẽ không đạt được nếu không chủ động xây dựng và phát triển văn hóa
một cách có hiệu quả và bền vững. Trải qua gần 30 năm đổi mới đất nước,
nước ta ở trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu
hợp tác quốc tế trên nhiều mặt. Bên cạnh những thành công có được từ nền
kinh tế thị trường cũng như quá trình toàn cầu hóa, chúng ta không tránh khỏi
những tác động tiêu cực do mặt trái của chúng gây ra, nếu không có sức mạnh
của đời sống văn hóa tinh thần, không có định hướng vững vàng thì sự tồn tại
của con người cũng như chế độ chính trị nước ta cũng khó giữ gìn.
Cùng chung với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc của đất nước, vấn đề xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở các
địa phương cần được nhận thức một cách sâu sắc và toàn diện hơn. Đặc biệt ở
khu vực miền núi bắc bộ trong quá trình chuyển mình phát triển cùng với sự
phát triển chung của đất nước, khu vực và quốc tế, vấn đề xây dựng đời sống
văn hóa tinh thần lại càng có ý nghĩa quan trọng.
Huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình là vùng đất nổi tiếng về văn hóa dân
gian, lễ hội đặc sắc, mang đậm nét văn hóa vùng miền của một số dân tộc ở
Tây Bắc, đặc biệt là dân tộc Thái ở Mai Châu. Đây là vùng đất có tiềm năng
phát triển du lịch, thu hút du khách đến tham quan và nghỉ dưỡng. Điểm đặc
sắc trong văn hóa của người Thái huyện Mai Châu là họ thuộc nhóm “Thái
Lai”. Do người Thái Mai Châu ở gần địa bàn người Mường sinh sống lại gần
với nhóm Thái ở Lào nên văn hóa của người Thái ở đây có những điểm khác
biệt so với người Thái ở khu vực Tây Bắc. Sinh hoạt văn hóa của người Thái
ở Mai Châu gồm các sinh hoạt văn hóa phục vụ đời sống tinh thần của người
dân ở đây và các sinh hoạt văn hóa phục vụ khách du lịch. Các sinh hoạt văn
3
hóa này cũng vì thế mà mang cả những biểu hiện của văn hóa Thái, văn hóa
Mường và văn hóa các tộc người khác.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách
nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc, tạo điều kiện để khu vực miền núi phát triển đồng đều và vững chắc,
đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu chung của đất nước trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trước tình hình đó, vấn đề xây dựng đời
sống văn hóa tinh thần ở cơ sở là vấn đề mang tính thời sự, cấp bách trong
giai đoạn hiện nay. Nhận thức được ý nghĩa của vấn đề xây dựng đời sống
văn hóa tinh thần là vô cùng quan trọng, tôi lựa chọn đề tài: “Đời sống văn
hóa tinh thần của dân tộc Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong quá
trình công nghiệp hóa hiện nay” làm đề tài Khóa luận tốt nghiệp của mình, để
đóng góp một phần vào việc nghiên cứu lĩnh vực đời sống văn hóa tinh thần
của người Thái Mai Châu – Hòa Bình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Người Thái ở Mai Châu Hòa Bình là một tộc người với những nét văn
hóa đặc sắc đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Có
thể kể đến những công trình tiêu biểu như: “Tìm hiểu văn hóa cổ truyền của
người Thái Mai Châu” (Đặng Nghiêm Vạn) [4] có thể được coi như cuốn
“cẩm nang cung cấp những hiểu biết cơ bản về đời sống văn hóa – xã hội của
người Thái”. Ngoài ra là một loạt các công trình của các nhà nghiên cứu khác
đã giới thiệu những nét đặc trưng trong những thành tố văn hóa của người
Thái Mai Châu đó là:
Trong cuốn Văn hóa ẩm thực dân gian dân tộc Thái huyện Mai Châu,
tỉnh Hòa Bình tác giả Lường Song Toàn, Nxb Hội Nhà văn Hà Nội, năm
2016, tác giả đã giới thiệu về văn hóa ẩm thực của người Thái cũng như các
tục lệ ăn uống của người Thái và nêu rõ bản sắc dân tộc của người Thái Mai
Châu. Cuốn sách đã giúp tác giả có thêm kiến thức và góp phần nhận diện các
hoạt động văn hóa tại bản Lác, Mai Châu [15].
4
Trong bài viết Người Thái và văn hóa Thái Mai Châu (Hòa Bình) của
tác giả Bùi Thanh Thủy, trên tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á năm 2002, tác
giả đã miêu tả và thể hiện rất rõ từ nguồn gốc, cách thức làm ăn cho đến nền
văn hóa truyền thống của dân tộc Thái, chỉ ra được giá trị của văn hóa Thái và
sự phát triển và giao thoa giữa các vùng như thế nào qua bài viết này [17].
Luận án Biến đổi văn hóa truyền thống của người Thái ở huyện Mai
Châu, tỉnh Hòa Bình trong phát triển du lịch, tác giả Nguyễn Thị Hồng Tâm
(luận án tiến sĩ chuyên ngành Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa, Hà
Nội). Luận án tập trung nghiên cứu về biến đổi văn hóa của người Thái Mai
Châu đã làm nổi bật được các nội dung về văn hóa và biến đổi văn hóa trong
phát triển du lịch tại bản Lác. Từ đó, tác giả có thể lĩnh hội được nhiều kiến
thức về văn hóa Thái [14].
Điểm mạnh của những công trình này là đã khai thác được nhiều nguồn
tư liệu tại địa phương, giới thiệu được những nét cơ bản về cơ cấu kinh tế xã
hội cổ truyền, yếu tố nền tảng tạo nên cộng đồng người Thái và cũng là yếu tố
thể hiện sự phát triển xã hội của tộc người này.
Tuy nhiên, các nghiên cứu về dân tộc Thái vẫn còn tồn tại một số hạn
chế nhất định, các nghiên cứu mới chủ yếu tập trung mô tả những nét văn hóa
cổ truyền của người Thái trong quá khứ chứ chưa có công trình khoa học độc
lập nào nghiên cứu chuyên biệt, trực tiếp và có hệ thống về ĐSVHTT của dân
tộc Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong quá trình CNH, để thấy
được sự biến đổi của truyền thống trong hiện tại, và những ứng xử của tộc
người đối với điều kiện kinh tế - xã hội mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Nghiên cứu thực trạng ĐSVHTT của dân tộc Thái ở Mai
Châu – Hòa Bình trong quá trình CNH hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao ĐSVHTT của dân tộc Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích nêu trên, khóa luận tập trung giải
quyết những nhiệm vụ sau đây:
5
Làm rõ khái niệm ĐSVHTT và những nội dung, yếu tố hợp thành
của nó.
Phân tích thực trạng ĐSVHTT của dân tộc Thái huyện Mai Châu,
tỉnh Hòa Bình trong quá trình công nghiệp hóa hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao ĐSVHTT của dân tộc
Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: ĐSVHTT của dân tộc Thái ở huyện Mai Châu,
tỉnh Hòa Bình trong quá trình công nghiệp hóa hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian: Huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình
Phạm vi thời gian: từ năm 2010 đến nay. Khoảng thời gian đó là
khoảng thời gian cần thiết để tìm hiểu văn hóa, phong tục ảnh hưởng đến
ĐSVHTT của dân tộc Thái trong quá trình công nghiệp hóa hiện nay.
Phạm vi nội dung: Khóa luận tập trung nghiên cứu ĐSVHTT của dân
tộc Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong quá trình CNH hiện nay.
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu đề tài
- Phương pháp luận:
Khóa luận sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử để nhìn nhận đối tượng nghiên cứu, xem xét văn hóa là một dòng chảy
không ngừng, luôn trong quá trình vận động và biến đổi chứ không phải tĩnh
tại, đứng yên. Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, tác giả quan
sát các thành tố của văn hóa người Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình
trong tiến trình phát triển của lịch sử, luôn vận động, biến đổi theo thời gian.
- Phương pháp nghiên cứu đề tài:
Phương pháp quan sát, tham gia.
Phương pháp lịch sử và logic.
Phương pháp phân tích, tổng hợp.
6. Đóng góp của Khóa luận
6
Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của khóa luận góp phần nghiên
cứu về đời sống văn hóa tinh thần và đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc
Thái ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong quá trình CNH.
Ý nghĩa thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu của khóa luận này có thể
làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy các môn học như: chủ
nghĩa xã hội khoa học, triết học, cơ sở văn hóa Việt Nam,…
Sự luận giải trên cơ sở khoa học và kinh nghiệm thực tiễn về các giải
pháp cho ĐSVHTT của dân tộc Thái có thể là những gợi ý để huyện Mai
Châu tham khảo, vận dụng vào việc nâng cao ĐSVHTT của dân tộc Thái ở
huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong quá trình CNH hiện nay.
7. Kết cấu của Khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Khóa
luận gồm 2 chương và 4 tiết:
Chương 1. Lý luận chung về đời sống văn hóa tinh thần và đặc
điểm vị trí địa lí, điều kiện kinh tế - xã hội ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa
Bình
Chương 2. Đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Thái ở huyện
Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong quá trình công nghiệp hóa hiện nay –
Thực trạng và giải pháp
7
NỘI DUNG
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN VÀ TỎNG
QUAN VỀ HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÕA BÌNH.
1.1.
Lý luận chung về đời sống văn hóa tinh thần
1.1.1. Khái niệm văn hóa và đời sống văn hóa
Văn hóa là một khái niệm mang nội hàm rộng với nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Đa số các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng: Văn hóa là tất cả những
giá trị vật chất và tinh thần do con người với tư cách con người - con người có
văn hóa, đã sáng tạo nên trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội để phục vụ
nhu cầu tồn tại và phát triển. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương tiện sử
dụng toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó, tức là văn hóa. Văn hóa là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu của dân chúng và đòi
hỏi của sự sinh tồn”[10, tr.431].
Nói khái quát, văn hóa là khái niệm chỉ thuộc tính của con người là
sáng tạo, cải tạo hiện thực vươn tới giá trị nhân văn, thúc đẩy sự tiến bộ xã
hội, là dấu hiệu để phân biệt loài người với loài vật, cá nhân này với cá nhân
khác, cộng đồng này với cộng đồng khác. Đồng thời, đây cũng là khái niệm
để chỉ trình độ và chất lượng cuộc sống của con người.
Văn hóa là toàn bộ những giá trị do con người sáng tạo ra trong quá
trình lịch sử bằng lao động của mình trên cả hai lĩnh vực sản xuất vật chất và
sản xuất tinh thần. Giá trị văn hóa (GTVH) được hiểu là những giá trị tốt đẹp
tiêu biểu cho một nền văn hóa, tạo nên bản sắc văn hóa của một dân tộc, được
8
chắt lọc, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, phản ánh và kết tinh đời
sống văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của con người. Do đó, theo truyền
thống, văn hóa có cấu trúc hai phần rất đơn giản: văn hóa vật chất (bao gồm
toàn bộ những sản phẩm do hoạt động sản xuất vật chất của con người tạo ra:
đồ ăn, đồ mặc, nhà cửa, đồ dùng sinh hoạt hằng ngày, công cụ sản xuất,
phương tiện đi lại...) và văn hóa tinh thần (bao gồm toàn bộ những sản phẩm
do hoạt động sản xuất tinh thần của con người tạo ra: tư tưởng, tín ngưỡng tôn giáo, nghệ thuật, lễ nghi, lễ hội, phong tục, tập quán, đạo đức, ngôn ngữ,
văn chương) [27].
Các giá trị văn hóa dân tộc biểu hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, từ tư tưởng, tình cảm, quan niệm, biểu tượng, đạo đức, thẩm mỹ, lối
sống đến những giá trị tinh thần do con người sáng tạo nên như nghệ thuật,
kiến trúc, hội họa, âm nhạc,... đem đến bức tranh văn hóa đa dạng, muôn màu.
Qua các giá trị văn hóa giúp con người lựa chọn những gì phù hợp với bản
sắc văn hóa cộng đồng tạo nên những tập quán, thói quen, những nếp sống
đẹp gắn chặt cố kết cộng đồng và khu biệt với các cộng đồng khác. Những
GTVH này hình thành và được khẳng định trong quá trình tồn tại phát triển
của con người và xã hội.
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, con người đã sáng
tạo ra văn hóa. Nhờ có văn hóa mà loài người có sự tiến bộ vượt bậc trong đời
sống xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và chính nó
lại tham gia tác động vào việc hình thành, tái tạo nên con người. Trải qua các
giai đoạn phát triển khác nhau, nền văn hóa của nước ta ngày càng phong phú
và đa dạng với những truyền thống quý báu của ông cha ta được hun đúc từ
ngàn năm để lại. Tất cả được bảo tồn, gìn giữ và phát triển cho đến ngày nay.
Nó được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống của xã hội,
cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà chúng ta đã tạo ra trong mấy
nghìn năm lịch sử.
9
Đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, mà đời sống xã
hội là một phức thể các hoạt động sống của con người, nhằm đáp ứng các nhu
cầu tinh thần trên một cơ sở vật chất. Khái niệm “đời sống văn hoá” là cụm từ
mới được sử dụng rộng rãi ở nước ta vào những năm 80, 90 của thế kỷ XX.
Tiền thân của cụm từ này là cụm từ đời sống mới, tiêu đề của bài viết dưới
dạng hỏi - đáp, công bố năm 1947, tác giả Tân Sinh, một bút danh của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh trình độ học vấn của dân ta còn thấp, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng từ "mới" thay cho từ "văn hoá" để cho dân dễ
hiểu về xây dựng đời sống văn hoá. Có thể coi Đời sống mới là bài viết đầu
tiên đặt cơ sở lý luận cho việc xây dựng đời sống văn hóa ra đời sau Cách
mạng Tháng Tám 1945. Cho mãi tới những năm 80 của thế kỷ XX, trong chỉ
đạo xây dựng đời sống văn hoá, Đảng, Nhà nước vẫn sử dụng từ "mới" được
hiểu là kết tinh hàm lượng văn hoá, tri thức, cách tổ chức, giá trị mới trong
xây dựng nếp sống, nền văn hoá và con người.
Năm 1987, cuốn sách Đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã luận giải:
“Đời sống văn hoá chính là những hành vi sống biểu hiện một trình độ
văn hoá, bao gồm các hoạt động của xã hội, của tập thể, của từng cá nhân,
nhằm mục đích văn hóa hoá tức là hoàn thiện con người” [6].
Tác giả Nguyễn Hữu Thức trong cuốn sách Một số kinh nghiệm quản
lý và hoạt động tư tưởng - văn hóa quan niệm: Đời sống văn hóa được hiểu
một cách khái quát là hiện thực sinh động các hoạt động của con người trong
môi trường sống để duy trì, đồng thời tái tạo sản phẩm văn hóa vật chất, văn
hóa tinh thần theo những giá trị và chuẩn mực xã hội nhất định nhằm không
ngừng tác động, biến đổi tự nhiên, xã hội và đáp ứng nhu cầu đổi mới, nâng
cao chất lượng sống của chính con người [18, tr.35]. Tuy nhiên, quan niệm,
nhận thức về văn hóa này đã đề cập tới phạm vi quá rộng, sẽ khó xác định cho
việc triển khai về xây dựng đời sống văn hóa gắn với không gian, lĩnh vực cụ
thể. Theo Đại từ điển của tác giả Nguyễn Như Ý thì nghĩa hẹp, có thể nói:
10
Đời sống văn hóa chính là sự hoạt động của các quá trình sản xuất, phân phối,
lưu giữ và tiêu thụ những công trình khoa học văn hóa (sản phẩm văn hóa).
Quá trình này biến các giá trị văn hóa tiềm tàng, thành những giá trị văn hóa
hiện thực sao cho những giá trị văn hóa đó đi vào đời sống hàng ngày của mọi
người trở thành một bộ phận hợp thành không thể tách rời, một thành tố thiết
yêu của đời sống [22, tr.27].
Như vậy, đời sống văn hóa là lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội.
Trong một số công trình nghiên cứu Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng
văn hóa ở nước ta, tác giả Hoàng Vinh cho rằng, đời sống văn hóa là một bộ
phận của đời sống xã hội. Đời sống xã hội là một phức thể những hoạt động
sống của con người, nhằm đáp ứng nhu cầu của con người. Trong đó các hoạt
động văn hóa đáp ứng nhu cầu tinh thần, làm cho con người tồn tại với tư
cách là một sinh thể xã hội, tức là con người tồn tại như một nhân cách văn
hóa [21]. Xã hội càng tiến hóa, nhu cầu văn hóa và sự đáp ứng nhu cầu đó
càng cao, thể hiện trình độ phát triển Người. Các hoạt động nhằm đáp ứng
nhu cầu tinh thần của con người, đó chính là hoạt động văn hóa.
Như vậy, đời sống văn hóa chính là tổng thể sống động các hoạt động
văn hóa trong quá trình sáng tạo (sản xuất), bảo quản, phổ biến, tiêu dùng các
sản phẩm văn hóa và sự giao lưu văn hóa, nhằm thỏa mãn nhu cầu văn hóa
của một cộng đồng. Hay nói cách khác nó thuộc đời sống xã hội, trong đó
diễn ra các hoạt động văn hóa. Và con người là chủ thể thông qua các hoạt
động sáng tạo ra các sản phẩm văn hóa, cũng là chủ thể tiêu dùng các sản
phẩm đó và bảo quản, truyền bá văn hóa. Như vậy, con người là một dạng sản
phẩm văn hóa cao cấp, bởi chính hoạt động văn hóa đã làm hoàn thiện bản
chất người.
1.1.2. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần
ĐSVHTT không phải là một cơ cấu tĩnh tại, một hệ thống đóng kín,
nằm im của những giá trị loại biệt mà là một tổng thể đang vận động của các
giá trị tinh thần được thực hiện và thể hiện thông qua hoạt động của con
11
người trên các lĩnh vực khác nhau của sự sản xuất, trao đổi và tiêu dùng tinh
thần. Nói đến đời sống là nói “sinh hoạt”, nói “hoạt động”. ĐSVHTT là nói
hoạt động của con người trên lĩnh vực tinh thần – hoạt động sản xuất, trao dổi
và tiêu dùng giá trị tinh thần diễn ra trên các lĩnh vực tư tưởng, nghệ thuật,
khoa học, giáo dục, tín ngưỡng tôn giáo.
Các hoạt động ở các khâu nhu cầu, sản xuất, trao đổi, tiêu dùng giá trị
tinh thần cũng như ở lĩnh vực tư tưởng, nghệ thuật, khoa học, giáo dục, tín
ngưỡng tôn giáo không tách biệt nhau mà hòa quyện vào nhau. Trong tổng
hòa sống động của các hoạt động đó, các giá trị tinh thần được tạo ra, lan tỏa
và thẩm thấu vào từng con người, tạo thành niềm tin bên trong, thành tình
cảm, tâm lý, tập quán, thành lối sống, thành hành động tự nhiên hằng ngày
của họ. Nhờ đó và do đó mà mỗi người và mọi người đạt được những phẩm
chất tinh thần cao quý và tồn tại như một giá trị - giá trị “gốc” và tiếp tục sáng
tạo ra những giá trị mới cao hơn, thúc đẩy không ngừng sự phát triển về các
mặt chân, thiện, mỹ của dời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu về giá trị tinh thần
ngày càng tăng lên của mọi thành viên trong xã hội. Chuẩn mực của sự hình
thành ĐSVHTT là chỉnh thể toàn vẹn của các quá trình và hiện tượng đó.
Như vậy khi xem xét và đánh giá ĐSVHTT thì không thể chỉ căn cứ
vào các giá trị tinh thần, các quá trình hình thành giá trị đó, mà còn phải xem
xét các giá trị đó có thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào
từng con người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư
vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người.
Các giá trị tinh thần được con người và loài người tạo ra trong quá khứ
cũng như trong hiện tại là văn hóa tinh thần chứ chưa phải là ĐSVHTT. Chỉ
trong hoạt động văn hóa tổng thể, các giá trị tinh thần được vận hành và thấm
sâu vào từng con người, từng cộng đồng làm nền và định hướng cho thế ứng
xử họ (thể hiện ở tâm hồn, đạo lý, lối sống, thị hiếu, hành vi…) của cá nhân
và cộng đồng hướng tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong quan hệ với mình, với
người, với môi trường xã hội và môi trường tự nhiên thì mới có ĐSVHTT.
12
Lênin từng nói: “Chỉ có cái gì đã ăn sâu vào đời sống văn hóa, vào phong tập,
tập quán, mới có thể coi là được thực hiện rằng: “Phải làm sao cho học thức
thật sự ăn sâu vào trí não, hoàn toàn và thực tế trở thành một bộ phận khăng
khít của cuộc sống của chúng ta” [20, tr.443 - 444]. Vậy tiêu chí căn bản để
xem xét và đánh giá ĐSVHTT của một con người hay của một cộng đồng đó
là trình độ được vun trồng của con người, là sự phát triển về các mặt chân,
thiện, mỹ của mọi mặt đời sống, hoạt động và quan hệ thực tiễn của con
người hay cộng đó.
Như vậy, điểm xuất phát cũng như điểm đến của ĐSVHTT là con
người. Trung tâm chuyển động của ĐSVHTT là ở sự chuyển động của con
người. Con người với lý tưởng, niềm tin, phẩm giá và nhân cách, “vốn là quả
tim đich thực của một nền văn hóa” [11, tr.28]. Hành trình con người là hành
trình văn hóa. Con người ra đời từ văn hóa, trưởng thành nhờ văn hóa, nắm
chắc tương lai bằng văn hóa. Con người tạo ra văn hóa và con người chính là
công trình quan trọng nhất của chính nền văn hóa của mình. Con người là giá
trị cao quý nhất của văn hóa bởi lẽ đó là giá trị gốc sản sinh ra mọi giá trị văn
hóa. Trình độ được vun trồng của con người, sự gia tăng giá trị của con người
thể hiện trong mọi mặt đời sống, trong mọi hoạt động và quan hệ thực tiễn đa
dạng của nó là tiêu chí và chuẩn mực của sự hình thành và phát triển của
ĐSVHTT.
Như vậy, ĐSVHTT là tổng hòa sống động các hoạt động sản xuất, trao
đổi, tiêu dùng các giá trị tinh thần, làm cho các giá trị đó thấm sâu vào từng
con người, từng cộng đồng, trở thành yếu tố khăng khít của toàn bộ cuộc
sống, hoạt động và quan hệ con người, đáp ứng nhu cầu giá trị tinh thần ngày
càng tăng của mọi thành viên trong xã hội.
Với tính cách là một hệ thống, ĐSVHTT diễn ra trong sự vận động
tương tác giữa các nhu cầu, sản xuất, trao đổi, tiêu dùng giá trị tinh thần.
Nhu cầu giá trị tinh thần bao gồm hưởng thụ và sáng tạo, đó là nhu cầu
cơ bản thiết yếu trong đời sống của con người, của xã hội. Nhờ có nhu cầu giá
13
trị tinh thần mà sự tồn tại của con người mang tính người thực sự, đối lập với
tính tự nhiên, tính động vật.
Nhu cầu tinh thần có đặc điểm là: thứ nhất, liên quan chặt chẽ đến trình
độ nhận thức, tình cảm và điều kiện sinh hoạt vật chất của chủ thể. Thứ hai,
so với sự tăng lên của nhu cầu vật chất thì sự tăng lên của nhu cầu giá trị tinh
thần là vô hạn. Nhu cầu vật chất của con người liên quan đến cấu trúc sinh
học của nó và do đó sự tăng lên của nhu cầu này là có giới hạn cho phép con
người ta có thể tính toán, xác định, còn nhu cầu văn hóa tinh thần lại liên quan
đến cấu trúc nhân cách và do đó sự tăng lên của nhu cầu này là vô hạn rất khó
tính toán, xác định. Không thể đặt ra bất cứ giới hạn nào cho sự đầy đủ của
nhu cầu văn hóa tinh thần. Người ta có thể no đủ về cơm ăn, nước uống
nhưng không ai có thể no đủ về tri thức và các giá trị nghệ thuật.
Nếu không có nhu cầu thì sẽ không có sản xuất. Nhu cầu giá trị tinh
thần kích thích con người sáng tạo những giá trị tinh thần mới, kích thích trao
đổi giao lưu và tiêu dùng các giá trị tinh thần. Tóm lại, nhu cầu giá trị tinh
thần kích thích con người tham gia tích cực vào ĐSVHTT.
Sản xuất giá trị tinh thần là hoạt động tìm tòi, phát hiện và làm ra các
gia các giá trị chân, thiện, mỹ nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của
con người, của xã hội. Sản xuất giá trị tinh thần là cơ sở của toàn bộ
ĐSVHTT.
Khi xem xét đánh giá hiệu quả của hoạt động sản xuất tinh thần thì
không thể chỉ căn cứ vào quy mô, số lượng các sản phẩm tinh thần được tạo
ra và quan trọng hơn là tính giá trị, tức lợi ích tiến bộ tinh thần của những sản
phẩm ấy. Bởi trên thực tế, có những sản phẩm tinh thần được sản xuất ra và
lưu hành trên thị trường chỉ vì chúng cho phép người ta thu được lợi nhuận.
Sản xuất giá trị tinh thần, sản phẩm của nó không chỉ là vật phẩm mà cả
những phẩm chất tinh thần của con người. Nói con người làm ra văn hóa đồng
thời văn hóa làm ra con người, hay con người là sản phẩm của hoạt động sản
xuất của chính bản thân nó. Bởi “con người là giá trị cao nhất của mọi giá trị
14
văn hóa” [2]. Trình độ được vun trồng của con người, đó là kết quả tất yếu và
vĩ đại nhất của sự sản xuất giá trị tinh thần. C.Mác viết: “Sản xuất không chỉ
sản xuất ra một vật phẩm cho chủ thể, mà còn sản xuất ra một chủ thể cho vật
phẩm” [19, tr.603].
Trao đổi giá trị tinh thần là một hoạt động tất yếu, tự nhiên của một cơ
thể văn hóa lành mạnh. Tính tất yếu của hoạt động này trước hết bắt nguồn từ
quan hệ phong phú của con người và những quan hệ vốn làm nên bản chất
con người.
ĐSVHTT là một cơ thể sống, và cũng như mọi cơ thể sống khác, nó chỉ
sống, phát triển nhờ thông qua sự trao đổi với môi trường. Một con người,
một cộng đồng hay một quốc gia, dân tộc có thể tự túc được cái ăn, cái mặc,
nhưng không thể tự túc được văn hóa. Để có nhiều món ăn tinh thần cho
mình, mỗi người, mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia đều phải có sự giao lưu trao
đổi các giá trị văn hòa của nhau. Giao lưu văn hóa phải là trao cái hay của
mình và nhận cái hay của người. Trong quá trình giao lưu đó, mỗi cơ thể văn
hóa thực hiện sự chọn lọc, đồng hóa và dị hóa, tiếp thu và gạt bỏ theo cơ chế
tiến hóa. Nhờ đó, ĐSVHTT của các bên tham gia giao lưu được mở rộng và
nâng cao hơn, đa dạng và phong phú hơn.
Tiêu dùng giá trị tinh thần là quá trình con người lựa chọn, tiếp nhận và
cảm thụ các giá trị tinh thàn nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo giá
trị tinh thần của mình.
Quá trình tiêu dùng giá trị tinh thần cũng đồng thời là quá trình bồi
dưỡng tâm hồn, tư tưởng, tình cảm và nhân cách con người, nâng cao sự hiểu
biết, khả năng cảm thụ và sáng tạo văn hóa của nó. Do đó, tiêu dùng tinh thần
cũng đồng thời là sản xuất tinh thần – sản xuất ra chủ thể tiêu dùng mới cao
hơn.
Tiêu dùng giá trị tinh thần có đặc điểm là: thứ nhất, giá trị tinh thần
không phải chỉ tiêu dùng một lần cho một người mà nhiều lần cho nhiều
người. Sản phẩm vật chất mỗi lần dùng nó sẽ hao mòn đi hoặc mất đi, còn sản
15
phẩm tinh thần – một bản nhạc chẳng hạn, nghe một lần và nhớ mãi. Tiêu
dùng sản phẩm tinh thần không chỉ ở một người mà lan tỏa qua sự truyền bá
giữa người này với người kia, có khi truyền bá từ đời này sang đời khác. Thứ
hai, tiêu dùng giá trị tinh thần đòi hỏi người tiêu dùng phải có những phẩm
chất và năng lực nhất định, đồng thời quá trình tiêu dùng văn hóa tinh thần
cũng sẽ tạo ra và phát triển hơn nữa những phẩm chất và năng lực đó ở họ. Do
vậy, quá trình tiêu dùng các giá trị tinh thần đồng thời cũng là quá trình sáng
tạo các giá trị tinh thần.
ĐSVHTT bao quát các lĩnh vực hoạt động chủ yếu: tư tưởng, nghệ
thuật, khoa học, giáo dục, tín ngưỡng tôn giáo.
Hoạt động tư tưởng với tư cách là một lĩnh vực của ĐSVHTT có nhiệm
vụ không chỉ sản xuất ra trí thức, những quan điểm mới đúng đắn mà còn đưa
được chúng vào ý thức con người, trở thành “xu hướng chủ đạo dẫn dắt cá
nhân tới những hoạt động chủ động, tích cực, sáng tạo, tới những hành vi giao
tiếp và ứng xử với những người xung quanh một cách có văn hóa.
Hoạt động tư tưởng là hoạt động chủ đạo quy định phương hướng, trình
độ và phẩm chất của toàn bộ ĐSVHTT cũng như từng bộ phận của nó, đảm
bảo cho ĐSVHTT phát triển đúng hướng, có căn cơ, có gốc rễ vững chắc, bền
lâu và có chất lượng thực sự.
Hoạt động nghệ thuật là quá trình sáng tạo các giá trị nghệ thuật đáp
ứng nhu cầu thẩm mỹ của con người, là lĩnh vực hoạt động đặc trưng nhất, có
tính thẩm mỹ cao nhất trong các hoạt động sáng tạo tinh thần, đồng thời cũng
có tính giáo dục, cảm hóa mạnh mẽ nhất đối với con người.
Nghệ thuật đồng thời làm nhiệm vụ xây dựng tư tưởng và về một số
mặt còn hiệu quả hơn mọi hình thái tư tưởng khác. Đại hội VI của Đảng
khẳng định: “Không hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn học nghệ
thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi
mới cách nghĩ, nếp sống của con người” [6, tr.129-130].
16
- Xem thêm -