Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật việt nam từ thực tiễn tại thành phố hồ chí mi...

Tài liệu Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật việt nam từ thực tiễn tại thành phố hồ chí minh

.PDF
90
170
100

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG PHAN BÁ PHƯƠNG DOANH NGHIỆP XÃ HỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG PHAN BÁ PHƯƠNG DOANH NGHIỆP XÃ HỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. ĐẶNG VŨ HUÂN HÀ NỘI, 2017 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI 1.1. Khái quát lý luận về doanh nghiệp xã hội .......................................... 9 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại doanh nghiệp xã hội ................... 9 1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp xã hội .............................................. 9 1.1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp xã hội ........................................ 12 1.1.1.3. Phân loại doanh nghiệp xã hội................................................ 17 1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của doanh nghiệp xã hội ...................................... 21 1.1.2.1. Về mặt xã hội .......................................................................... 21 1.1.2.2. Về mặt kinh tế - chính trị ......................................................... 23 1.1.2.3. Về mặt pháp lý ......................................................................... 24 1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về doanh nghiệp xã hội ................... 25 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về doanh nghiệp xã hội ........ 25 1.2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về doanh nghiệp xã hội ... 26 1.2.2.1. Thành lập và tổ chức hoạt động của doanh nghiệp xã hội .... 26 1.2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội ......................... 28 1.2.2.3. Giải thể, phá sản doanh nghiệp xã hội ................................... 29 1.2.2.4. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp xã hội ..................... 31 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP XÃ HỘI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2.1. Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam ................ 37 2.1.1. Một số vấn đề chung của pháp luật về doanh nghiệp xã hội ....... 37 2.1.2. Đánh giá chung ............................................................................... 39 2.1.3. Những vấn đề hạn chế về pháp luật doanh nghiệp xã hội ........... 43 2.2. Tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh .......................................................... 49 2.2.1. Tình hình kinh tế, xã hội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh .. 49 2.2.2. Tình hình doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ... 51 Chương 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 3.1. Một số định hướng hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh ....................................................................... 58 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam phải xuất phát từ đường lối, chính sách của Đảng và nhu cầu quản lý xã hội của Nhà nước ........................................................................................................... 58 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam phải xuất phát từ góc độ thực tiễn ............................................................................ 60 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội ....... 63 3.2.1. Những kiến nghị về cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với doanh nghiệp xã hội ............................................................................................. 63 3.2.2. Hoàn thiện quy định của pháp luật về doanh nghiệp xã hội ........ 65 KẾT LUẬN ................................................................................................... 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 81 DANH MỤC BẢNG BIỂU Trang Bảng 2.1. Dân số trung bình của thành phố Hồ Chí Minh ......................... 50 Bảng 2.2. Thống kê số lượng doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh .. 51 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Doanh nghiệp xã hội đầu tiên xuất hiện ở Vương quốc Anh từ thế kỷ XVII. Trong các thế kỷ tiếp theo, lần lượt các mô hình tín dụng vi mô, hợp tác xã, nhà ở xã hội... ra đời và được nhân rộng ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Tuy nhiên, doanh nghiệp xã hội chỉ phát triển mạnh mẽ và trở thành một phong trào rộng lớn trên thế giới như hiện nay kể từ đầu những năm 1980. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về doanh nghiệp xã hội. Trong chiến lược phát triển doanh nghiệp xã hội năm 2002 của Vương quốc Anh có định nghĩa: “Doanh nghiệp xã hội là một mô hình kinh doanh được thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội, và sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư cho mục tiêu đó hoặc cho cộng đồng, thay vì tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông hoặc chủ sở hữu”. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cho rằng: “Doanh nghiệp xã hội là những tổ chức hoạt động dưới nhiều hình thức pháp lý khác nhau vận dụng tinh thần doanh nhân nhằm theo đuổi cùng lúc cả hai mục tiêu xã hội và kinh tế. Doanh nghiệp xã hội thường cung cấp các dịch vụ xã hội và việc làm cho các nhóm yếu thế ở cả thành thị và nông thôn. Ngoài ra, doanh nghiệp xã hội còn cung cấp các dịch vụ cộng đồng, trên các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, môi trường”. Tổ chức hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng (CSIP) của Việt Nam đưa ra quan điểm: “Doanh nghiệp xã hội là một khái niệm dùng để chỉ hoạt động của các doanh nhân xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau tùy thuộc vào mục đích và điều kiện hoạt động cụ thể. Doanh nghiệp xã hội lấy lợi ích xã hội làm mục tiêu chủ đạo, được dẫn dắt bởi tinh thần doanh nhân nhằm đạt được cả mục tiêu xã hội / môi trường và mục tiêu kinh tế”. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng nhìn chung, doanh nghiệp xã hội có các đặc điểm cơ bản sau đây: (i) Phải có hoạt động kinh doanh; (ii) Đặt 1 mục tiêu xã hội lên hàng đầu; (iii) Tái phân phối lợi nhuận; (iv) Sở hữu mang tính xã hội; (v) Phục vụ nhu cầu của người nghèo, yếu thế trong xã hội. Từ kết quả hoạt động của các doanh nghiệp xã hội ở một số nước thế giới như: Anh, Mỹ, Hàn Quốc, Thái Lan… cho thấy doanh nghiệp xã hội cùng với Nhà nước đã và đang giải quyết khá hiệu quả các vấn đề xã hội, ví dụ như: Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, ổn định cuộc sống và nâng cao thu nhập thông qua giáo dục, đào tạo nghề, cung cấp các dịch vụ thân thiện với môi trường và tăng cường nhận thức trong cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường. Trong bối cảnh nước ta hiện nay đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức trong quá trình tăng trưởng kinh tế và các vấn đề xã hội, môi trường như: còn nhiều hộ nghèo và cận nghèo, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người bị nhiễm chất độc màu da cam, hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (human immunodeficiency virus infection / acquired immunodeficiency syndrome - HIV/AIDS), người già neo đơn; tình trạng bạo lực xã hội, các vấn đề về giáo dục, y tế đều ở tình trạng quá tải, bất hợp lý; tình trạng vệ sinh an toàn thực phẩm, xử lý rác thải, ô nhiễm không khí... hiện đang ở mức báo động. Song thực tế, Nhà nước ta vẫn chưa đủ nguồn lực để giải quyết tốt tất cả các vấn đề nói trên. Bởi vậy, việc phát triển các doanh nghiệp xã hội là rất cần thiết cho sự phát triển bền vững của đất nước. Cũng từ kinh nghiệm của một số nước trên thế giới cho thấy, để thúc đẩy doanh nghiệp xã hội phát triển và làm tròn sứ mệnh của mình đối với xã hội cần rất nhiều yếu tố tác động khác nhau. Một trong những yếu tố quan trọng đó chính là pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp xã hội. Pháp luật không những tạo dựng căn cứ pháp lý vững chắc để bảo vệ, hỗ trợ doanh nghiệp xã hội phát triển, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp xã hội. Ở Việt Nam, mặc dù trước đây đã có nền móng cho sự phát triển loại hình doanh nghiệp xã hội, cũng như ưu điểm của nó đối với nền kinh tế - xã hội, cụ 2 thể là đã từng có rất nhiều tổ chức sử dụng kinh doanh như một công cụ để đóng góp cho cộng đồng, đặc biệt là cho nhóm người yếu thế. Một nghiên cứu năm 2011 do Trung tâm Hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng (CSIP) - Hội đồng Anh phối hợp cùng với Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã cho thấy, ở Việt Nam, có đến gần 200 tổ chức có đầy đủ đặc điểm để trở thành một doanh nghiệp xã hội, trong số đó, được hình thành sớm nhất là Hợp tác xã Nhân đạo thuộc Hội người khuyết tật Hà Nội, thành lập năm 1973; Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Phát triển Cộng đồng (RTCCD) thành lập tháng 5/1996; Trường Trung cấp Kinh tế - Du lịch Hoa Sữa thành lập năm 1994; Trung tâm Hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng (CSIP) thành lập năm 2008; Trung tâm Nghị lực sống thành lập năm 2009…v.v. Tuy nhiên, cho đến Luật Doanh nghiệp năm 2014, Nghị định số 96/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp và Thông tư số 04/2016/TT-BKHĐT ngày 17/5/2016 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định các biểu mẫu văn bản sử dụng trong đăng ký doanh nghiệp xã hội, thì doanh nghiệp xã hội mới được pháp luật ghi nhận và nhận diện một cách khá đầy đủ. Là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, ra đời vì mục tiêu và sứ mệnh cộng đồng, doanh nghiệp xã hội cần có một khuôn khổ pháp lý đồng bộ và phù hợp với thực tiễn xã hội, để động viên các chủ thể kinh doanh cùng tham gia chia sẻ gánh nặng an sinh xã hội với Nhà nước. Luật Doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành mặc dù mới tạo ra nền tảng cơ bản về địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã hội, tuy nhiên, đó mới là những cố gắng bước đầu của Nhà nước đối với những mô hình vì xã hội và cộng đồng này, việc hoàn thiện pháp luật là yêu cầu nhất thiết để thực hiện những mong muốn vô cùng tốt đẹp của các sáng lập viên doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay. Từ những phân tích ở trên, học viên đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh”, để nghiên cứu trong khuôn khổ Luận văn Thạc sĩ luật học nhằm tìm 3 kiếm các giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội, góp phần thúc đẩy doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam ngày càng phát triển. 2. Tình hình nghiên cứu Doanh nghiệp xã hội được hình thành từ lâu và phát triển ở Việt Nam trong một thời kỳ nhất định, với mô hình đầu tiên là hợp tác xã. Tuy nhiên, càng về sau, hình thức hợp tác xã dần mang tính thương mại, doanh nghiệp xã hội đã trở lại với những định dạng khác nhau nhằm đóng góp cho xã hội. Chính vì vậy, về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp xã hội được nhiều người quan tâm, nghiên cứu và được thể hiện qua các tài liệu sau: Trước khi Luật Doanh nghiệp 2014 thông qua có đề cập tới doanh nghiệp xã hội, đã có một số công trình nghiên cứu về chủ đề này: Trung tâm hỗ trợ sáng kiến cộng đồng (CSIP) và Hội đồng Anh tại Việt Nam với nghiên cứu: Khái niệm doanh nghiệp xã hội; khảo sát về doanh nghiệp xã hội đăng trong: "Báo cáo kết quả khảo sát doanh nghiệp xã hội Việt Nam" năm 2011… Các nghiên cứu này mới chỉ tập trung vào khái niệm doanh nghiệp xã hội, lịch sử hình thành và pháp triển của nó. Tuy nhiên, vì ra đời từ trước nên các công trình này mới chỉ có giá trị về mặt lý luận nghiên cứu, chưa có tính ứng dụng vào thực tiễn cho chế định này. Bài viết “Kỳ vọng từ mô hình doanh nghiệp xã hội” của tác giả Trang Trần đăng trên Tạp chí Tài chính số ra ngày 14/3/2014. Bài viết đã đưa ra các khái niệm khác nhau về mô hình doanh nghiệp xã hội trên thế giới và điều kiện phát triển mô hình này tại Việt Nam. Bên cạnh đó, bài viết cũng đưa ra ba giai đoạn chủ yếu của phong trào doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam. Nhìn chung, bài viết còn khá sơ sài với các kiến thức và quan điểm của tác giả - một người chưa nghiên cứu sâu về pháp luật. Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu như: “Những vấn đề pháp lý về doanh nghiệp xã hội theo Luật Doanh nghiệp 2014” của Tiến sĩ Phan Thị Thanh Thủy, đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 4 6/2015; “Hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về doanh nghiệp xã hội” của Thạc sĩ Vũ Thị Hòa Như, Tạp chí Luật học số 3/2015… Các công trình nghiên cứu này đề cập một số khía cạnh của mô hình phát triển doanh nghiệp dưới góc độ pháp lý. Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Trần Thị Minh Hiền, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015. Đề tài đã nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực tiễn của pháp luật doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay. Nhìn chung, đây là một công trình nghiên cứu nghiêm túc, có chiều sâu. Tuy nhiên, thời điểm của luận văn này là ngay sau khi Luật Doanh nghiệp 2014 có hiệu lực, do đó, công trình này chưa có được sự cập nhật cần thiết của các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành, dẫn tới một số đánh giá tại đây đã được khắc phục tại thời điểm hiện tại. Mặt khác, đây là nghiên cứu trên phạm vi Việt Nam, chưa có sự đánh giá cho tình hình thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về doanh nghiệp xã hội, và từ thực tiễn thực hiện pháp luật về vấn đề này tại thành phố Hồ Chí Minh để đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu (i) Nghiên cứu để làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về doanh nghiệp xã hội như: Khái niệm, đặc điểm và phân loại doanh nghiệp xã hội; mục đích, nguyên tắc và nội dung pháp luật về doanh nghiệp xã hội… Bên cạnh đó, để làm sâu sắc hơn các vấn đề nghiên cứu, luận văn cũng đề cập khảo cứu kinh nghiệm pháp luật một số nước trên thế giới về vấn đề này. 5 (ii) Khái quát, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh chỉ ra những ưu điểm, những vấn đề còn bất cập, vướng mắc và các nguyên nhân… (iii) Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất định hướng và các giải pháp để hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận, hệ thống các quy định pháp luật hướng dẫn thi hành, pháp luật liên quan đến doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay và thực tiễn thực hiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung, luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan đến tổ chức và hoạt động, địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã hội, trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh. Về không gian và thời gian, bên cạnh việc nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật tại thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là từ khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 được ban hành, luận văn cũng khảo cứu kinh nghiệm pháp luật một số nước trên thế giới về vấn đề này. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Để làm rõ các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu, luận văn đã sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - 6 Lênin; đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng trong tất cả các chương nhằm lý giải những vấn đề thuộc về bản chất, các quan điểm liên quan đến vấn đề nghiên cứu, đánh giá thực trạng, để từ đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam. - Phương pháp thống kê: Được sử dụng để thống kê về kết quả thành lập, tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh. - Phương pháp so sánh: sử dụng nhằm so sánh pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về thành lập, tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp xã hội. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc làm sáng tỏ các vấn đề lý luận pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh nước ta hiện nay đang phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức trong quá trình tăng trưởng kinh tế và các vấn đề xã hội, môi trường… Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo có giá trị trong nghiên cứu để bổ sung và hoàn thiện pháp luật, trong giảng dạy và học tập về pháp luật doanh nghiệp nói chung và pháp luật về doanh nghiệp xã hội nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu 3 chương, cụ thể là: Chương 1. Những vấn đề lý luận về doanh nghiệp xã hội và pháp luật về doanh nghiệp xã hội. 7 Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI 1.1. Khái quát lý luận về doanh nghiệp xã hội 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại doanh nghiệp xã hội 1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp xã hội Doanh nghiệp là một khái niệm đã xuất hiện từ lâu và được nghiên cứu dưới góc độ của nhiều ngành khoa học. Tuy nhiên, luật pháp các nước thông thường không quy định khái niệm chung về doanh nghiệp, mà chỉ đưa ra định nghĩa pháp lý về từng loại hình doanh nghiệp cụ thể. Pháp luật đa số các nước quan niệm doanh nghiệp chỉ là những chủ thể kinh doanh thuần túy có nghề nghiệp chính là hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, ở một số nước như Cộng hòa Liên bang Đức, doanh nghiệp được hiểu không chỉ bao gồm các chủ thể kinh doanh thuần túy, mà còn bao gồm cả những tổ chức kinh tế hoạt động vì mục tiêu công ích. Theo pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức, “doanh nghiệp bao gồm doanh nghiệp thành lập theo luật công và doanh nghiệp thành lập theo luật tư”. Khi phân biệt hai loại doanh nghiệp này, người ta dựa trên cơ sở phân chia theo trật tự pháp luật công và pháp luật tư. Pháp luật Đức có sự phân biệt rõ ràng trong cơ chế điều chỉnh pháp luật về tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp thành lập theo luật công và các doanh nghiệp thành lập theo luật tư. Cơ sở của sự phân biệt này là chức năng và mục đích hoạt động của hai loại doanh nghiệp có sự khác nhau. Doanh nghiệp thành lập theo luật công có chức năng chủ yếu là hoạt động công ích; trong khi đó, các doanh nghiệp thành lập theo luật tư có chức năng chủ yếu là hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận [1, tr. 15]. 9 Ở Việt Nam, kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường, pháp luật đã đưa ra những khái niệm chính thức về doanh nghiệp. Theo khái niệm doanh nghiệp được xác định trong Luật Công ty năm 1990, thì tất cả các chủ thể có nghề nghiệp kinh doanh được xác lập tư cách hợp pháp đều là doanh nghiệp. Điều 3 Luật Công ty năm 1990 quy định: “Doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Với quy định này, khái niệm doanh nghiệp có nội hàm rất rộng, có thể hiểu tất cả các chủ thể có nghề nghiệp kinh doanh được xác lập tư cách theo thủ tục do pháp luật quy định đều là doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp năm 1999 và Luật Doanh nghiệp năm 2005 ra đời với nhiều đổi mới, trong đó có vấn đề quan điểm về doanh nghiệp. Cả hai văn bản cùng thống nhất một khái niệm về doanh nghiệp, cụ thể là: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Theo đó, chỉ có những chủ thể kinh doanh thỏa mãn những điều kiện nhất định mới có tư cách doanh nghiệp. Phù hợp với khái niệm đó, pháp luật đã quy định rõ tư cách doanh nghiệp cho các chủ thể kinh doanh gồm: doanh nghiệp tư nhân, các loại công ty (quy định trong Luật Doanh nghiệp), công ty nhà nước (quy định trong Luật Doanh nghiệp nhà nước), doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam). Có thể nhận thấy, khái niệm doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 1999 và 2005 có nội hàm hẹp hơn khái niệm theo cách hiểu trước đây. Đến Luật Doanh nghiệp năm 2014, khái niệm về doanh nghiệp đã có một số thay đổi nhất định. Theo khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”. Nhìn chung, theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, để trở thành một doanh nghiệp thì các 10 chủ thể kinh doanh cũng phải đáp ứng đầy đủ những điều kiện như quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 và cũng quy định rõ tư cách doanh nghiệp cho các chủ thể kinh doanh như trên. Tuy nhiên, quy định trên có phần ngắn gọn và linh hoạt hơn, nhưng lại có nội hàm mở rộng phạm vi các chủ thể được coi là doanh nghiệp. Đồng thời, tăng cường tính linh hoạt đối với việc đăng ký trụ sở của doanh nghiệp, nhất là đối với các ngành nghề kinh doanh có tính chất không ổn định hoặc chủ sở hữu thường xuyên phải thay đổi, mở rộng địa bàn kinh doanh. Bên cạnh các doanh nghiệp thương mại truyền thống với mục đích chính là kinh doanh nhằm tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông và các chủ sở hữu. Thì hiện nay, với khái niệm doanh nghiệp như trong quy định của pháp luật đã phần nào đó nêu lên được bản chất của doanh nghiệp truyền thống. Tuy nhiên, doanh nghiệp xã hội thì vẫn còn là một khái niệm mơ hồ và khiến cho nhiều người nhầm lẫn, pháp luật không hề giải thích doanh nghiệp xã hội là gì mà chỉ nêu ra các tiêu chí của một doanh nghiệp xã hội chứ không hề có một khái niệm hoàn chỉnh về doanh nghiệp xã hội. Vậy thực tế đặt ra là, để trả lời cho câu hỏi doanh nghiệp xã hội là gì, thì vẫn chưa có một khái niệm hoàn chỉnh và cụ thể. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) định nghĩa về doanh nghiệp xã hội thì: “Doanh nghiệp xã hội là những tổ chức hoạt động dưới nhiều hình thức pháp lý khác nhau vận dụng tinh thần doanh nhân nhằm theo đuổi cùng lúc cả hai mục tiêu xã hội và kinh tế, doanh nghiệp xã hội thường cung cấp các dịch vụ xã hội và làm việc cho các nhóm yếu thế ở cả thành thị và nông thôn. Ngoài ra, doanh nghiệp xã hội còn cung cấp các dịch vụ cộng đồng trên các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, môi trường”. Với định nghĩa này, OECD đã cho rằng doanh nghiệp xã hội phải là một tổ chức có hệ thống, có quản lý, có tiêu chí hoạt động và theo đuổi cùng lúc hai mục tiêu nhưng mục tiêu xã hội được đặt lên trên mục tiêu kinh tế. Doanh nghiệp xã hội cung cấp các dịch vụ xã hội, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm phục vụ và làm việc cho những nhóm người nhất định. 11 Theo Luật Doanh nghiệp năm 2014: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”. Tuy nhiên, đó chỉ là một doanh nghiệp thương mại truyền thồng kinh doanh nhằm mục đích lợi nhuận trái ngược hoàn toàn với mục đích của doanh nghiệp xã hội. Doanh nghiệp xã hội cũng có hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi nhuận, nhưng lợi nhuận này sẽ được doanh nghiệp tái đầu tư để giải quyết các vấn đề xã hội. Từ sự phân tích trên có thể rút ra một khái niệm về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam như sau: “Doanh nghiệp xã hội là một tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký và thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng bằng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh”. 1.1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp xã hội Đặc điểm của doanh nghiệp xã hội bên cạnh những điểm chung của doanh nghiệp thương mại còn có những đặc điểm riêng biệt theo mục đích hoạt động của mình. Các đặc điểm của doanh nghiệp xã hội bao gồm: Thứ nhất: Có hoạt động kinh doanh Như đã nói ở trên, doanh nghiệp xã hội cũng là một loại hình doanh nghiệp. Chính vì vậy, hoạt động cơ bản và chủ yếu của doanh nghiệp xã hội là hoạt động kinh doanh. Đây chính là đặc điểm nhằm phân biệt doanh nghiệp xã hội với các loại hình tổ chức khác cũng có mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội. Đối với các loại hình tổ chức cũng có mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội khác như tổ chức phi chính phủ, các quỹ từ thiện… thì hoạt động kinh doanh không xuất hiện trong các hoạt động của tổ chức. Những tổ chức này thường có tài trợ từ một hoặc nhiều nguồn khác nhau. Mọi chi phí hoạt động của tổ chức đều phụ thuộc vào những nguồn tài trợ này. 12 Ví dụ: Tổ chức từ thiện T được tài trợ bởi ba nguồn khác nhau bao gồm: tài trợ từ nhà nước, tài trợ từ các doanh nghiệp và tài trợ từ các cá nhân. Lượng tài trợ nhiều hay ít, tài trợ dài hạn hay ngắn hạn đều do các nguồn tài trợ đó quyết định mà gần như phía tổ chức từ thiện không có vai trò tham gia. Vì vậy, tổ chức từ thiện này khi thực hiện các hoạt động từ thiện (hoạt động từ thiện cũng nhằm giải quyết một số vấn đề xã hội) thường ở thế bị động, không thể tự chủ. Tổ chức từ thiện sẽ không thể tự quyết định được mình sẽ làm gì, mà phải tính toán các hoạt động dựa trên sự đóng góp của các nguồn tài trợ. Đây có thể coi là nhược điểm của các tổ chức có mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội mà không phải là doanh nghiệp xã hội. Đối với doanh nghiệp xã hội thì hoạt động chủ yếu là hoạt động kinh doanh, ngoài ra doanh nghiệp xã hội cũng có thể nhận tài trợ từ các nguồn khác nhau, nhưng tựu chung lại, hoạt động kinh doanh phải là chủ yếu và là hoạt động quan trọng nhất. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp xã hội cũng giống như hoạt động kinh doanh của các cá nhân, tổ chức khác, cũng bị tác động bởi nhiều yếu tố, bởi các quy luật của thị trường. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp xã hội có thể nhận được những sự tài trợ, nhận được ưu đãi nhất định từ các cá nhân, tổ chức khác hay thậm chí là từ nhà nước. Nhưng mục đích cuối cùng của việc kinh doanh ở doanh nghiệp xã hội vẫn là mục đích thu lợi nhuận. Lợi nhuận này sẽ được sử dụng tùy vào mục đích mà doanh nghiệp xã hội đặt ra nhằm chung tay giải quyết các vấn đề xã hội. Ví dụ, công ty A là một doanh nghiệp xã hội. Công ty A được nhận tài trợ từ các công ty khác và theo yêu cầu của các công ty trên, lượng tài trợ này chỉ được dùng để làm các hoạt động từ thiện. Công ty A nhận được tài trợ từ một số cá nhân và theo yêu cầu của các cá nhân này thì lượng tài trợ cũng chỉ được dùng để làm các hoạt động từ thiện. Trong khi đó, công ty A có dự định tổ chức một hoạt động từ thiện có chi phí nhiều hơn tổng số tiền được tài trợ. Như vậy, công ty A bị các nhà tài trợ hạn chế về khả năng sử dụng tài trợ đồng thời bị hạn chế bởi chi phí để thực hiện hoạt động từ 13 thiện. Nhưng công ty A được thành lập bởi các cổ đông, các cổ đông này có góp một số lượng vốn để sử dụng cho việc kinh doanh. Khi việc kinh doanh của công ty A thu được lợi nhuận nhất định. Số lợi nhuận này được các cổ đông quyết định chia làm hai phần. Phần lợi nhuận thứ nhất góp thêm vào với số tài trợ của các nhà tài trợ, như vậy đã đủ chi phí để thực hiện hoạt động từ thiện của mình. Phần lợi nhuận thứ hai được dùng để mở rộng hoạt động của công ty và chia cho các cổ đông góp vốn vào công ty. Qua hai ví dụ trên ta có thể thấy của công ty A so với tổ chức từ thiện T (hay các doanh nghiệp xã hội so với các tổ chức có mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội khác) có nhiều ưu điểm hơn. Các ưu điểm nổi bật là: (i) Doanh nghiệp xã hội có thể tự duy trì sự hoạt động của chính mình (thậm chí tự phát triển) nhờ lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh. (ii) Doanh nghiệp xã hội vẫn có thể được tài trợ bởi các nhà tài trợ khác nhau nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng lại không bị phụ thuộc hoàn toàn vào các nguồn tài trợ này. Từ đó việc thực hiện các mục tiêu giải quyết vấn đề xã hội dễ dàng hơn. (iii) Các nhà đầu tư vào doanh nghiệp xã hội vẫn có thể thu được lợi nhuận chứ không mất hoàn toàn tài sản như khi tài trợ cho các tổ chức khác. Thứ hai: Mục đích hoạt động vì cộng đồng xã hội (tham gia giải quyết các vấn đề xã hội). Các vấn đề xã hội có vai trò quan trọng đối với sự phát triển các ngành kinh tế, các lĩnh vực xã hội. Do vị trí của con người ở mỗi chế độ khác nhau nên vai trò, bản chất của các vấn đề xã hội cũng khác nhau. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội là một trong những chủ trương, giải pháp lớn nhằm phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Các vấn đề xã hội mà Đại hội IX đưa ra cần giải quyết đó là: giải quyết công ăn việc làm 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan