Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đỗ lai thúy và phê bình thơ...

Tài liệu đỗ lai thúy và phê bình thơ

.PDF
120
138
105

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 PHẠM THỊ PHƢỢNG ĐỖ LAI THÚY VÀ PHÊ BÌNH THƠ LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM HÀ NỘI, 2018 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 PHẠM THỊ PHƢỢNG ĐỖ LAI THÚY VÀ PHÊ BÌNH THƠ Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 8 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Trƣơng Đăng Dung HÀ NỘI, 2018 LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu cũng nhƣ hoàn thành luận văn, tác giả luận văn xin đƣợc chân thành cảm ơn BGH trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, khoa đào tạo sau đại học trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, cùng các thầy, cô giáo, cán bộ giảng viên đã giảng dạy, giúp đỡ và hƣớng dẫn tận tình cho tác giả. Xin cảm ơn sự giúp đỡ và ủng hộ của Ban giám hiệu và cán bộ giáo viên của trƣờng THPT Đồng Đậu, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Đặc biệt, tác giả luận văn xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Trƣơng Đăng Dung - ngƣời thầy đã tận tình chỉ bảo, hƣớng dẫn, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn này. Dù đã hết sức cố gắng trong quá trình thực hiện đề tài, song chắc chắn luận văn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất mong nhận đƣợc sự chia sẻ và những ý kiến đóng góp quý báu từ các thầy cô giáo và các bạn đọc để luận văn đƣợc hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn Hà Nội, tháng 09 năm 2018 Tác giả luận văn Phạm Thị Phƣợng LỜI CAM ĐOAN Tôi tên là: Phạm Thị Phƣợng- học viên lớp cao học khóa 20, chuyên ngành Lí luận văn học, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2. Tôi xin cam đoan, những gì mà tôi trình bày trong luận văn là do sự tìm hiểu và nghiên cứu của bản thân trong suốt quá trình học tập và công tác. Mọi kết quả nghiên cứu cũng nhƣ ý tƣởng của các tác giả khác nếu có đều đƣợc trích dẫn nguồn gốc cụ thể. Luận văn này cho đến nay chƣa đƣợc bảo vệ tại bất kỳ một hội đồng bảo vệ luận văn thạc sĩ nào và chƣa đƣợc công bố trên bất kỳ một phƣơng tiện thông tin nào. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những gì mà tôi đã cam đoan ở trên. Hà Nội, tháng 09 năm 2018 Tác giả luận văn Phạm Thị Phƣợng MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................................ 1 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................ 3 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 4 4. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................................... 4 5. Lịch sử vấn đề .................................................................................................................... 5 6. Đóng góp của luận văn ...................................................................................................... 7 7. Cấu trúc của luận văn.........................................................................................................7 NỘI DUNG ............................................................................................................................ 8 CHƢƠNG 1. PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1986 VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA ĐỖ LAI THÚY ...................................................................................................................... 8 1.1. Khái lƣợc về phê bình văn học sau 1986 ........................................................................ 8 1.2. Sự xuất hiện của Đỗ Lai Thúy. ..................................................................................... 22 Tiểu kết chƣơng 1................................................................................................................ 26 CHƢƠNG 2. NGƢỜI THƠ TRONG MẮT THƠ ............................................................... 27 2.1. Thơ mới và cái Tôi nhìn từ “Mắt thơ” .......................................................................... 27 2.1.1. Khái quát về Thơ mới và sự xuất hiện của cái Tôi .................................................... 27 2.1.2. Thế Lữ- ngƣời bộ hành phiêu lãng ............................................................................ 37 2.1.3. Xuân Diệu- nỗi ám ảnh thời gian ............................................................................... 40 2.1.4. Huy Cận- sự khắc khoải không gian .......................................................................... 49 2.1.5. Nguyễn Bính- đƣờng về chân quê ............................................................................. 53 2.1.6. Vũ Hoàng Chƣơng- đào nguyên lạc lối ..................................................................... 55 2.1.7. Đinh Hùng- ngƣời kiến trúc chiêm bao ..................................................................... 59 2.1.8. Bích Khê- sự thức nhận ngôn từ ................................................................................ 61 2.1.9. Hàn Mặc Tử- một tƣ duy thơ độc đáo” ...................................................................... 65 2.1.10. Xuân Thu Nhã Tập- khúc hát thiên nga ................................................................... 68 2.2. Hành trình nghệ thuật của Thơ mới nhìn từ “Mắt thơ” ................................................ 72 2.2.1. Thơ mới nhìn từ hành trình không gian nghệ thuật ................................................... 73 2.2.2. Thơ mới nhìn từ hành trình thời gian nghệ thuật ....................................................... 76 2.2.3. Quan niệm về con ngƣời ............................................................................................ 78 Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................... 81 CHƢƠNG 3. THƠ NHƢ LÀ MỸ HỌC CỦA CÁI KHÁC ................................................ 82 3.1. Khái lƣợc về hệ hình tƣ duy lý thuyết và Thơ nhƣ là mỹ học của cái khác ................. 82 3.1.1. Khái lƣợc về hệ hình tƣ duy lý thuyết. ...................................................................... 82 3.1.2. Khái lƣợc về “Thơ nhƣ là mỹ học của cái khác” ...................................................... 84 3.2. Thơ Việt Nam nhìn từ hệ hình tƣ duy tiền hiện đại ...................................................... 87 3.2.1. Bản chất của thơ Việt Nam khi nhìn từ hệ hình tƣ duy tiền hiện đại ........................ 87 3.2.2. Mỹ học thơ theo lý thuyết hệ hình tƣ duy tiền hiện đại ............................................. 89 3.3. Thơ Việt Nam nhìn từ hệ hình tƣ duy hiện đại ............................................................. 90 3.3.1.Bản chất của thơ Việt Nam khi nhìn từ hệ hình tƣ duy hiện đại ................................ 90 3.3.2. Mỹ học thơ theo lý thuyết hệ hình tƣ duy hiện đại .................................................... 99 3.4. Thơ Việt Nam nhìn từ hệ hình tƣ duy hậu hiện đại .................................................... 100 3.4.1. Khái niệm hậu hiện đại ............................................................................................ 100 3.4.2. Bản chất của thơ Việt Nam khi nhìn từ hệ hình tƣ duy hậu hiện đại ....................... 102 3.4.3. Mỹ học thơ theo lý thuyết hệ hình tƣ duy hậu hiện đại ........................................... 105 Tiểu kết chƣơng 3 ..................................................................................................107 KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 112 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Phê bình văn học là một trong ba bộ phận cấu thành khoa học văn học, bao gồm: Lịch sử văn học, Lý luận văn học, Phê bình văn học. Nếu lịch sử văn học nghiên cứu văn học trong trật tự thời gian, lý luận văn học nghiên cứu văn học trong sự phát triển tổng thể, thì phê bình văn học nghiên cứu tác phẩm văn học cụ thể. Tuy nhiên, đối tƣợng của phê bình văn học không chỉ lấy tác phẩm văn học làm đối tƣợng chính mà còn xem xét tác phẩm ấy trong mối tƣơng quan với tác giả, trào lƣu, trƣờng phái văn học. Thêm nữa, đã nói đến phê bình văn học là đề cập đến vai trò quan trọng tất yếu của chủ thể tiếp nhận (độc giả) khi đứng trƣớc một hiện tƣợng văn học. Mặc dù vậy, khi khoa học nghiên cứu văn học phát triển mạnh mẽ, nhiều độc giả có phần hoang mang không thực sự định hƣớng tốt trong khâu tiếp nhận thì lúc ấy những nhà phê bình văn học chân chính xuất hiện nhƣ ngƣời chỉ đƣờng dẫn lối không chỉ cho công chúng tiếp nhận mà thậm chí còn cho cả các nghệ sĩ sáng tác vốn đang tƣởng rằng mình nắm quyền uy tối thƣợng. Tiếp nhận văn học không có một giới hạn hay một công thức cho sẵn nào, nhƣng trên sự định hƣớng chuẩn mới tạo ra đƣợc cái lệch chuẩn. Nhà phê bình chính là ngƣời góp phần quan trọng để hình thành nên cái chuẩn trong nghiên cứu văn học. Do đó, phê bình văn học ngày càng phát triển và có vai trò quan trọng trong hệ thống các khoa học văn học. 1.2. Phê bình văn học với tƣ cách là một bộ môn khoa học nghiên cứu về văn học đã chứng minh đƣợc giá trị đặc biệt, tác động lớn đến nhiều mặt của đời sống văn học, từ khâu sáng tác đến khâu tiếp nhận văn học. Nhà phê bình cũng khẳng định đƣợc vị trí quan trọng trong nghiên cứu, thậm chí có lúc nhà phê bình làm hộ cả công việc của nhà văn và độc giả, chỉ ra những điều chính nhà văn cũng không ngờ tới trong tác phẩm của mình, gỡ rối cho độc giả trong lĩnh vực tiếp nhận văn chƣơng nghệ thuật. Phê bình văn học tác động tới tất cả các khâu của quá trình sáng tạo nghệ thuật gồm một chuỗi mắt xích liên quan: hiện thực- nhà văn- tác phẩmngười đọc- hiện thực. Phê bình tác động tới sự thụ cảm thế giới của nhà văn, có ảnh hƣởng trực tiếp đến cá tính sáng tạo của nhà văn, tới quá trình sáng tạo ra tác phẩm, 2 tác động trực tiếp tới tác phẩm văn học, có tác dụng định hƣớng ngƣời đọc, sau cùng nó tác động đến hiện thực đời sống. Nói nhƣ Biêlinxki: “ không phải nghệ thuật sinh ra phê bình, cũng không phải phê bình sinh ra nghệ thuật, mà cả hai đều là con đẻ của tinh thần thời đại”. Nhà văn sáng tạo ra tác phẩm riêng lẻ, còn phê bình văn học đƣa những tác phẩm riêng lẻ vào một hệ thống văn học để chúng trở thành một chỉnh thể. Càng ngày phê bình văn học càng trở thành nhịp cầu nối liền mạch sự vận động, phát triển của văn chƣơng. 1.3. Nằm trong dòng chảy của phê bình văn học nói chung, phê bình thơ luôn khẳng định giá trị tự thân của nó, đặc biệt sau 1986 ý thức về sự đổi mới thơ dấy lên mạnh mẽ. Chính không khí cởi mở của văn học đã thổi một luồng sinh khí mới vào đời sống văn chƣơng, trong đó có thơ và phê bình thơ. Thơ là một loại hình nghệ thuật độc đáo. Khác với văn xuôi, thơ ca luôn đi sâu vào thế giới nội tâm con ngƣời, nghiêng về cảm nhận những rung động tinh tế trong tâm hồn con ngƣời. Ngƣời làm phê bình thơ là ngƣời bắc nhịp cầu nối nhà thơ với độc. Do vậy, mục tiêu và đối tƣợng phê bình thơ không phải là khách thể, là cái ngoại giới đƣợc miêu tả, mà chính là tác giả, là chủ thể trữ tình của sự biểu hiện. Phát hiện của phê bình thơ nằm ở phong cách, giọng điệu. Một nhà thơ lớn là một nhà thơ có phong cách lớn. Một nền thơ lớn là một nền thơ có nhiều phong cách. Việc tạo ra phong cách là mục đích hƣớng đến của bất kỳ ngƣời nghệ sĩ nào. Chƣa có phong cách thì chƣa thể nói đến một nền thơ. Việc phát hiện ra giọng điệu riêng, phong cách riêng – nó là cái tinh tuý, cái đặc sắc của mỗi nhà thơ, để không lẫn với ai – đó là mục tiêu, nhiệm vụ cũng là thành tựu của phê bình thơ. Cho nên, phê bình văn học nói chung và phê bình thơ nói riêng đáng để chúng ta nghiên cứu một cách nghiêm túc. 1.4. Phê bình văn học nói chung, phê bình thơ nói riêng ở Việt Nam đã đạt tới tƣ cách khoa học với nhiều tên tuổi, nổi bật trong đó có nhà phê bình Đỗ Lai Thúy- một trong những nhà phê bình đi tiên phong ứng dụng phƣơng pháp phân tâm học vào nghiên cứu văn hóa- văn học nghệ thuật. Cũng từ đó, phê bình văn học thoát khỏi phƣơng pháp phê bình chủ quan cảm tính để thực sự đi vào quỹ đạo của một bộ môn nghiên cứu khoa học. Đỗ Lai Thúy là ngƣời có đóng góp to lớn cho sự 3 phát triển của phê bình, đặc biệt là khuynh hƣớng phê bình phân tâm học Việt Nam với nhiều trang viết tài hoa, sắc sảo, lối phê bình mới lạ giàu chất trí tuệ, tƣ duy khoa học rõ ràng. Đỗ Lai Thúy đến với văn chƣơng khá muộn và bắt đầu nổi tiếng trong giới nghiên cứu phê bình với Mắt thơ, và sau đó với hàng loạt các bài viết: Từ cái nhìn văn học ( Nhà xuất bản văn hóa dân tộc, 1999); Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực ( Nhà xuất bản văn hóa Thông tin, 2000); Chân trời có người bay ( Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2006); Theo vết chân những người khổng lồ ( Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2006); Bút pháp của ham muốn ( Nhà xuất bản Tri thức, 2009); Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy ( Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2010); Thơ như là mỹ học của cái khác ( Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2012); Vẫy vào vô tận ( Nhà xuất bản Phụ nữ, 2014), Bờ bên kia của viết ( Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2016). Từ Mắt thơ đến Thơ như là mỹ học của cái khác, Đỗ Lai Thúy đã tạo nên bƣớc đột phá trong công tác nghiên cứu phê bình. 1.5. Đỗ Lai Thúy viết nhiều công trình nghiên cứu nhƣng trong lịch sử vấn đề lại chƣa có công trình khoa học nào nghiên cứu về sự nghiệp của ông. Có chăng chỉ là những bài báo, những bài phỏng vấn, những cuộc tọa đàm hội thảo…... Trong khi đó, những đóng góp lớn của Đỗ Lai Thúy cần đƣợc đánh giá cao, nhất là phê bình thơ. Chính vì vậy, với đề tài Đỗ Lai Thúy và phê bình thơ, tôi mong muốn đóng góp một cái nhìn hoàn toàn khách quan về tình hình văn học sau năm 1986, những nghiên cứu của Đỗ Lai Thúy về Thơ mới trong Mắt thơ nhìn từ góc độ cái tôi và từ hành trình nghệ thuật, Đỗ Lai Thúy với Thơ như là mỹ học của cái khác nhìn từ hệ hình tƣ duy tiền hiện đại, tƣ duy hiện đại và tƣ duy hậu hiện đại. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu: Thấy rõ những chuyển biến lớn trong nghiên cứu phê bình văn học sau năm 1986 và vị trí, vai trò của nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy; hành trình đi từ Mắt thơ đến Thơ như là mỹ học của cái khác. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: 4 Vận dụng những kiến thức lý luận để tìm hiểu về Đỗ Lai Thúy trong hành trình nghiên cứu phê bình thơ. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: “ Đỗ Lai Thúy và phê bình thơ” 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Tác phẩm nghiên cứu và phê bình văn học của Đỗ Lai Thúy rất phong phú, nhƣng trong phạm vi luận văn này, ngƣời viết chỉ tập trung khảo sát hai công trình của ông: Mắt thơ và Thơ như là mỹ học của cái khác. “Nếu Mắt thơ tìm kiếm những không gian mới thì Thơ như là mỹ học của cái khác tìm kiếm những con mắt mới. Cả Mắt thơ và Thơ như là mỹ học của cái khác đều tìm kiếm ở nơi tôi một cái tôi vô ngã”(Đỗ Lai Thúy).[37,tr.1]. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp loại hình: Dựa vào đặc trƣng thể loại để định hƣớng tìm hiểu nhằm làm nổi bật những nét đặc trƣng cũng nhƣ khác biệt của đối tƣợng nghiên cứu khảo sát. - Phương pháp thống kê, phân loại: Đây là phƣơng pháp đƣợc tiến hành đầu tiên nhằm cung cấp những chi tiết, dữ kiện, số liệu chính xác tạo cơ sở tin cậy để triển khai các luận điểm trong luận văn. - Phương pháp so sánh- đối chiếu: So sánh là một thao tác quan trọng của tƣ duy, một phƣơng pháp hữu hiệu của nghiên cứu khoa học. Chúng tôi sử dụng thao tác này để rút ra những đặc điểm chung cũng nhƣ những đặc sắc riêng của đối tƣợng nghiên cứu. Trên cơ sở so sánh đối chiếu, sẽ thấy đƣợc cái mới, những đóng góp riêng biệt của Đỗ Lai Thúy đối với phê bình thơ nói riêng và phê bình văn học nói chung. - Phương pháp phân tích- tổng hợp: Để khái quát lý thuyết, chúng tôi tiến hành phân tích những quan điểm phê bình thơ của Đỗ Lai Thúy qua hai công trình Mắt thơ và Thơ như là mỹ học của cái khác. Phân tích điểm độc đáo trong phê bình thơ 5 của ông, từ đó khái quát lại đặc điểm tƣ duy và sự vận động tƣ duy lý thuyết phê bình thơ của Đỗ Lai Thúy từ Thơ mới cho đến thơ hậu hiện đại. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng kết hợp một số phƣơng pháp nhƣ phƣơng pháp nghiên cứu tiểu sử học, phƣơng pháp lịch sử xã hội…trên quan điểm lịch sử và quan điểm hệ thống. 5. Lịch sử vấn đề Nằm trong dòng chảy lịch sử của nghiên cứu phê bình văn học nói chung, phê bình thơ nói riêng ngày càng khẳng định đƣợc vị trí vững chắc. Lúc đầu, phê bình văn học trong đó có phê bình thơ chỉ dừng lại ở việc ghi chép lại các ý kiến của độc giả thuộc tầng lớp tri thức hoặc của những ngƣời sáng tác văn học. Sau đó, phê bình văn học phát triển và đƣợc tách riêng, dần trở thành một công việc mang tính đặc thù. Tuy nhiên, trƣớc thế kỉ XVII, phê bình văn học vẫn giữ một vị trí khiêm tốn trong lòng công chúng yêu văn chƣơng. Công việc phê bình cũng mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá mang tính khái quát về các tác phẩm, giới thiệu tác phẩm đến với độc giả. Từ thế kỉ XVII- XVIII, văn học trở thành một lĩnh vực hoạt động xã hội khá sôi động. Việc hình thành các thiết chế xã hội và sự phát triển của các lĩnh vực khác nhƣ nhà xuất bản, báo chí, công chúng, dƣ luận….càng làm cho văn học đƣợc “thay da đổi thịt”; thị hiếu và công chúng văn học đòi hỏi nghiên cứu văn học trong đó có phê bình buộc phải đa dạng hóa, phát triển mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu văn chƣơng nghệ thuật. Từ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX có nhiều trƣờng phái phê bình văn học xuất hiện nhƣ phê bình tiểu sử, phê bình xã hội học, phê bình xã hội học, phê bình phân tâm học, phê bình thi pháp học…..khiến cho không khí phê bình đƣợc thổi thêm nhiều sinh khí mới. Phê bình văn học tồn tại và phát triển cho đến nay đã trải qua rất nhiều những bƣớc thăng trầm để khẳng định đƣợc vị trí là một trong ba yếu tố cơ bản của nghiên cứu văn học. Chƣa bao giờ độc giả đƣợc chứng kiến sự phong phú, đa dạng, dày dặn kinh nghiệm của nhiều cây bút phê bình luôn nỗ lực không ngừng trong việc đi tìm và định hình phong cách phê bình mới. Nhà phê bình Đỗ 6 Lai Thúy là một trong những cây bút tài hoa trên con đƣờng tìm đến một lối viết lạ. Ông âm thầm đóng góp cho nghiên cứu văn học những trang viết sắc sảo, hấp dẫn, lôi cuốn: Mắt thơ, Hồ Xuân Hương- hoài niệm phồn thực, Chân trời có người bay, Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, Bút pháp của ham muốn, Phê bình văn học- con vật lưỡng thê ấy, Thơ như là mỹ học của cái khác, Theo vết chân những người khổng lồ……Dù có nhiều đóng góp nhƣ vậy trong nghiên cứu các hiện tƣợng văn học nƣớc nhà nhƣng nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy lại chƣa trở thành đối tƣợng nghiên cứu của nhiều độc giả. Những bài viết, những công trình đã công bố về nhà phê bình Đỗ Lai Thúy còn rất hạn chế. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trên Tạp chí sông Hƣơng số 244, tháng 6 năm 2009 đã có bài viết “ Phê bình phân tâm học và Đỗ Lai Thúy” đề cập đến vai trò tiếp nối và sự phát triển của Đỗ Lai Thúy trong việc đƣa phƣơng pháp nghiên cứu phê bình phân tâm học trở thành phƣơng pháp nghiên cứu chủ đạo trong việc tìm hiểu các hiện tƣợng văn hóa vốn gây nhiều tranh cái nhƣ Chế Lan Viên, Hoàng Cầm, Hồ Xuân Hƣơng….Nguyễn Mạnh Tiến trên báo Văn hóa Nghệ An số ra ngày 21/4/2011 có bài viết “Tính lƣỡng thê của phê bình văn học Đỗ Lai Thúy”. Bài viết đã giải thích cặn kẽ khái niệm tính lƣỡng thê và nhìn rõ cuộc nổi loạn của những hệ hình hay phƣơng pháp viết lịch sử phê bình văn học. Tác giả Cao Thị Hồng vẫn trên trang phê bình văn học số ra ngày 03/05/2014 cũng có bài viết “Đỗ Lai Thúy và vấn đề ứng dụng phân tâm học trong Bút pháp của ham muốn” đã phân tích một cách chặt chẽ, thấu đáo về biểu hiện phân tâm học trong việc khám phá các hiện tƣợng văn học. ….Trên báo Văn hóa Nghệ An số ra ngày 20/8/2014, tác giả Hoàng Thị Huế có bài viết “ Đỗ Lai Thúy: Từ Chân trời có người bay đến Vẫy vào vô tận”. Bài viết sắc sảo chỉ ra sự khác biệt của hai cuốn sách tuy cùng viết về những chân dung văn học nhƣng cách tiếp cận hoàn toàn khác nhau. Lã Nguyên trên trang phê bình văn học số ra ngày 20/3/2016 có bài viết về chân dung phê bình văn học với nhan đề “Đỗ Lai Thúy và phê bình phân tâm học Việt Nam”. Bài viết đã thực sự đem đến cho độc giả một cái nhìn khách quan về phê bình phân tâm học và những công lao của Đỗ Lai Thúy trong việc đƣa phê bình phân tâm học phát triển lên một trình độ mới. Nói chung, việc 7 nghiên cứu sự nghiệp của Đỗ Lai Thúy mới dừng lại ở những cuộc tọa đàm, những cuộc phỏng vấn hoặc các bài báo hoặc là những bài viết về phƣơng pháp phê bình phân tâm của ông. Trong khi đó, sự nghiệp và những đóng góp của ông cho phê bình văn học cần phải đƣợc nghiên cứu một cách công phu, tỉ mỉ thì lại hầu nhƣ chƣa có một công trình nào. Nhất là trong lĩnh vực phê bình thơ, Đỗ Lai Thúy đã cho ra đời hai chuyên luận Mắt thơ và Thơ như là mỹ học của cái khác thì chƣa có công trình nào nghiên cứu. Từ Mắt thơ đến Thơ như là mỹ học của cái khác là cả một hành trình tìm kiếm và giải mã thế giới bí ẩn của thơ, là hành trình giải mã thơ Việt Nam trong tiến trình hiện đại hóa. Do đó, trong hiện tại và tƣơng lai, Đỗ Lai Thúy và phê bình văn học của ông nhất thiết cần phải đƣợc nghiên cứu, đánh giá một cách công bằng, khách quan và khoa học. 6. Đóng góp của luận văn Qua việc khảo sát Mắt thơ đến Thơ như là mỹ học của cái khác, chúng tôi muốn có cái nhìn khoa học về sự vận động tƣ duy phê bình Đỗ Lai Thúy đối với phê bình thơ Việt Nam. Trên cơ sở đó, cho thấy những đóng góp của Đỗ Lai Thúy đối vơí phê bình thơ, không chỉ dừng lại ở thơ hiện đại mà cả thơ trung đại Việt Nam. Đặc biệt qua luận văn, thấy rõ những khác biệt trong bút pháp phê bình cuả Đỗ Lai Thúy so với các nhà phê bình trƣớc đây và cả bây giờ. Từ những đóng góp lớn của Đỗ Lai Thúy, chúng tôi chỉ ra sự vận động đổi mới của tƣ duy thơ Việt Nam đƣơng đại, phê bình thơ nói riêng và phê bình văn học nói chung. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và thƣ mục tài liệu tham khảo, cấu trúc của luận văn gồm ba chƣơng: Chương 1: Phê bình văn học Việt Nam sau 1986 và sự xuất hiện của Đỗ Lai Thúy Chương 2: “Ngƣời thơ trong mắt thơ” Chương 3: “Thơ nhƣ là mỹ học của cái khác” 8 NỘI DUNG CHƢƠNG 1 PHÊ BÌNH VĂN HỌC VIỆT NAM SAU 1986 VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA ĐỖ LAI THÚY 1.1. Khái lƣợc về phê bình văn học sau 1986 Lý luận, phê bình văn học trƣớc năm 1975 chủ yếu giữ vai trò định hƣớng cho các hoạt động sáng tác và tiếp nhận văn học theo nguyên tắc, đƣờng lối văn học Cách mạng dƣới sự chỉ đạo văn nghệ của Đảng Cộng sản. Do vậy, không khí phê bình chƣa thực sự đƣợc cởi trói khỏi những ràng buộc của văn học thời chiến. Sau năm 1975, văn học đƣợc trả về với đời sống vốn có của riêng nó, cùng với những đòi hỏi bức thiết của công cuộc đổi mới văn học, phê bình văn học nói riêng đặt ra những yêu cầu và nhiệm vụ mới, nhận thức lại bản chất, chức năng văn học trong thời đại mới không còn phù hợp với giai đoạn văn học kháng chiến. Do vậy, không khí phê bình bắt đầu có những bƣớc chuyển mạnh mẽ. Từ năm 1975 đến năm 1985, diễn ra nhiều cuộc hội thảo trên báo chí về những vấn đề thực tiễn đời sống sau chiến tranh đƣợc đƣa vào tác phẩm văn học, trong đó đáng chú ý nhất là bài báo Về một đặc điểm của văn học nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua của tác giả Hoàng Ngọc Hiến- ngƣời đi tiên phong đổi mới tƣ duy lý luận phê bình văn học. Với tƣ duy lý luận nhạy bén, lập luận sắc sảo Hoàng Ngọc Hiến có sự tiên cảm mạnh mẽ về tƣơng lai, sẵn sàng đoạn tuyệt với quá khứ, phủ nhận cả chính mình. Ông nhìn ra đƣợc những điều còn thiếu sót cần khắc phục trong bao nhiêu năm văn học phát triển dƣới thời kháng chiến. Không ngần ngại, e dè, không ngợi ca thái quá những gì quá khứ đi qua, cũng không cần tô vẽ tƣơng lai, Hoàng Ngọc Hiến đã thực sự gióng lên tiếng chuông thức tỉnh về sự cần thiết phải đổi mới cả một nền tƣ duy văn nghệ cũ, chứ không riêng gì công tác lý luận, phê bình. Tuy nhiên, bài viết của ông không phải đều đƣợc số đông chấp nhận. Có nhiều ngƣời phản bác cho rằng tác giả đang phủ nhận những thành tựu to lớn mà nền văn học Cách mạng đạt đƣợc với sứ mệnh cao quý trong bao nhiêu năm qua. Cho đến năm 1979, trong cuộc Hội nghị nhà văn Đảng viên bàn về sáng tác văn học, Hoàng Ngọc Hiến tìm thấy tiếng 9 nói chung với nhà văn Nguyên Ngọc. Tác giả của một thời Đất nước đứng lên cho rằng: văn học nghệ thuật của ta thời chiến đã thực hiện vẻ vang nhiệm vụ tuyên truyền Cách mạng, cổ vũ chiến đấu. Tuy nhiên, văn học của ta chưa xứng tầm với với cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc trong mấy chục năm qua, nhiều khi đồng nhất nhiệm vụ văn học với nhiệm vụ chính trị, văn học mới chỉ quan tâm tới số phận chung của cộng đồng mà quên mất số phận riêng của từng người…từ đó làm xói mòn năng lực sáng tạo của người nghệ sĩ và triệt tiêu năng lực thẩm mĩ của độc giả. Những bài phát biểu của Hoàng Ngọc Hiến, Nguyên Ngọc làm nảy sinh nhiều quan niệm trái chiều trong giới nghiên cứu phê bình. Tuy nhiên, nó cũng có tác dụng gợi những suy nghĩ đánh giá nghiêm túc trong độc giả về những gì đã qua và phƣơng hƣớng cho những gì đang tới. Đặc biệt từ thập niên 80 trở đi, công tác lý luận phê bình càng đƣợc phát triển hơn trƣớc. Từ tiểu thuyết Đất trắng (tập 1-1979 và 2-1984) của Nguyễn Trọng Oánh, nhiều nhà phê bình nhƣ Đặng Quốc Nhật, Lê Quang Trang, Trần Duy Thanh…đã có cái nhìn công bằng hơn về chiến tranh, cái giá của hòa bình. Đến các truyện ngắn của Dƣơng Thu Hƣơng (1982), Đứng trước biển của Nguyễn Mạnh Tuấn (1982), Mưa mùa hạ của Ma Văn Kháng (1982), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu (1983)….càng làm cho đời sống phê bình thêm phần sinh động. Các nhà phê bình nhận ra sự thay đổi trong ngòi bút của các nhà văn, chuyển hƣớng sang đề tài thế sự đời tƣ, khai thác thêm rất nhiều những vụn vặt trái ngang của đời thƣờng, đƣa những câu chuyện tƣởng nhƣ không có gì vào truyện để thể hiện cái nhìn sâu sắc về con ngƣời và cuộc sống. Đáng chú ý nhất là Nguyễn Minh Châu. Ông trở thành một “hiện tƣợng” đƣợc quan tâm nhất trong giới nghiên cứu văn học những năm 80. Đọc Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, các nhà phê bình đều nhận ra nhà văn đã đi đào sâu những mất mát hi sinh, những khốc liệt, những thƣơng tổn đau đớn của chiến tranh, những chấn thƣơng thể xác và tinh thần đau đớn còn đọng lại mãi dù tiếng súng, tiếng bom đã ngừng. Ấy là những “mặt trái của tấm huy chƣơng” mà trƣớc đây, ta không dám đề cập tới. Hay đọc Bức tranh, nhà phê bình Thiếu Mai cho rằng: “giá trị của tác phẩm chính ở chỗ nó thức tỉnh lƣơng tri và phần ngƣời tốt đẹp trong mỗi con 10 ngƣời”. Đọc Khách ở quê ra, GS Phan Cự Đệ khẳng định: “Nguyễn Minh Châu không dừng lại ở trực giác mà đi sâu vào phân tích tâm lí, tiềm thức, muốn thức tỉnh con ngƣời từ sâu bên trong với giọng điệu riêng”. Còn GS. Phong Lê thì cho rằng: “Nguyễn Minh Châu có giọng điệu riêng, tạo ra đƣợc thế giới nghệ thuật riêng nhƣng cũng bày tỏ trạng thái phân vân khi đọc Khách ở quê ra xong vẫn không biết đâu là vấn đề cốt lõi của truyện bởi vì nhân vật lão Khúng sao mà kì lạ đến thế?”. Nguyễn Kiên thì khẳng định: “sự tâm huyết của Nguyễn Minh Châu là vô cùng đáng quý, hướng đi phù hợp với quy luật phát triển chung”. Trong khi đó, Lê Thành Nghị lại chỉ ra trong những trang viết của Nguyễn Minh Châu lập luận chƣa đủ thuyết phục, kết cấu không chặt chẽ, hình tƣợng nhân vật khó hiểu, sử dụng hài hƣớc đôi chỗ không hợp lý. Tô Hoài và Lê Lựu thì lại nhìn thấy ở Nguyễn Minh Châu sự tài tình khi biết biến những cái bình thƣờng lặt vặt trong cuộc sống hàng ngày để nâng nó lên một tầm triết lý…Chỉ riêng một Nguyễn Minh Châu của đầu thập niên 80 đã làm cho không khí phê bình văn học lúc bấy giờ đƣợc thổi thêm làn gió mới, đƣa công tác nghiên cứu phê bình văn học vào guồng quay đổi mới, hứa hẹn nhiều thành tựu mới. Cao trào của đổi mới đƣợc đánh dấu từ năm 1987 với những tên tuổi của các nhà lý luận phê bình nhƣ: Ngô Thảo, Nguyễn Khải, Nguyễn Văn Hạnh, Lê Ngọc Trà, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Minh Châu…với những tuyên ngôn mới về nghệ thuật trong các báo văn nghệ, các tạp chí. Sau đó, một diện mạo mới của nền lý luận phê bình đƣợc chuyển đổi từ tƣ duy tiền hiện đại (chủ yếu tiếp cận từ tác giả), sang tƣ duy hiện đại (tiếp cận chủ yếu từ văn bản tác phẩm) đến tƣ duy hậu hiện đại ( chủ yếu tiếp cận từ ngƣời đọc). Các khuynh hƣớng phê bình đƣợc mở rộng phong phú: Nếu đội ngũ phê bình đƣợc nhìn ở bề nổi, thì khuynh hƣớng phê bình đƣợc nhìn ở chiều sâu của vấn đề. Nếu trƣớc năm 1975, các khuynh hƣớng phê bình còn giản đơn, chƣa có nhiều lối phê bình ngự trị do yêu cầu của “ văn hóa nghệ thuật là một mặt trận”, văn học chủ yếu lấy vai trò tuyên truyền cổ vũ Cách mạng làm nhiệm vụ then chốt, nên hạn chế sức sáng tạo của nhà văn và hạn chế luôn các kiểu tƣ duy phê bình mới. Đến sau 11 năm 1986, trong không khí cả nƣớc bƣớc vào thời kỳ đổi mới, trong xu thế hội nhập toàn cầu và sự bùng nổ của khoa học công nghệ, văn học trở về với đời sống thƣờng nhật, đƣợc “cởi trói” khỏi khuôn khổ văn học thời chiến, ngƣời nghệ sỹ đƣợc viết trong tƣ duy nhận thức lại, kéo theo đó phê bình văn học buộc phải phát triển trong thế cạnh tranh gay gắt để khẳng định chỗ đứng trong lòng công chúng văn học. Và cho đến nay, chƣa bao giờ ngƣời ta thấy sự tồn tại phong phú cùng một lúc nhiều khuynh hƣớng phê bình văn học đến thế: Phê bình thi pháp học: Thi pháp học là bộ môn nghiên cứu các hình thức của nghệ thuật, đánh dấu bằng những công trình nhƣ Nghệ thuật thi ca của Aristot, Văn tâm điêu long của Lƣu Hiệp. Đến đầu thế kỷ XX, thi pháp học tái sinh thành thi pháp học hiện đại và tồn tại với hai nhánh chính: thi pháp học lịch sử và trƣờng phái hình thức Nga. Ở Việt Nam, thi pháp học không đến sớm trong việc phê bình, nghiên cứu văn học. Trƣớc năm 1986, mới chỉ có Cao Xuân Hạo và Phan Ngọc tiếp cận. Sau năm 1986, nhiều nhà nghiên cứu lấy thi pháp học làm phƣơng pháp phê bình chính trong đó phải kể đến Thi pháp thơ Tố Hữu, Thi pháp Truyện Kiều, Thi pháp văn học trung đại ( Trần Đình Sử), Thi pháp hiện đại ( Đỗ Đức Hiểu). Nếu Trần Đình Sử tiếp nhận thi pháp học từ trƣờng phái thi pháp học lịch sử của Nga, thì Đỗ Đức Hiểu lại tiếp nhận phƣơng pháp này từ các nhà thi pháp học Tây Âu. Khi có sự xuất hiện của nhiều hiện tƣợng văn học đặc biệt nhƣ Nguyễn Minh Châu, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, hay công cuộc cách tân thơ nổ ra rầm rộ…thì nhiều phƣơng pháp phê bình cũ trở nên lạc hậu, đòi hỏi phải có một phƣơng pháp phê bình mới. Đỗ Đức Hiểu là một trong những cây bút tiên phong đem lại sự đổi mới cho phê bình văn học đƣơng thời. Những thành công của ông trong các tiểu luận phê bình về Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài…đã đem đến một cách tiếp cận mới trong phê bình- khám phá những bình diện nghệ thuật mang tính nội dung của những hiện tƣợng văn học đặc sắc. Sau Đỗ Đức Hiểu, thi pháp học nhanh chóng đƣợc truyền bá rộng rãi, phê bình thi pháp học mở ra những cách tiếp cận mới trong văn chƣơng, làm sụp đổ sự đơn giản nhàm chán của lối phê bình truyền thống. Theo đánh giá của 12 Đỗ Lai Thúy thì “ thi pháp học là phương pháp đầu tiên minh chứng cho thành quả của sự thay đổi hệ hình trong phê bình văn học. Nó mở ra một lối thoát cho phê bình văn học Việt Nam vốn đang có nguy cơ lâm vào ngõ cụt”.[36,tr.17]. Nhƣng đồng thời chính Đỗ Lai Thúy cũng chỉ ra những hạn chế của phƣơng pháp này: “thi pháp học trở nên thời thượng, và đã là thời thượng thì sẽ mang tính chất phong trào, nông nổi, dễ thành hời hợt.””.[36,tr.17]. Dù còn nhiều hạn chế, nhƣng không thể phủ nhận những thành công mà phê bình Thi pháp học mang đến. Nó cho ngƣời đọc nhận diện một quan niệm mới về hình thức nghệ thuật- hình thức mang tính quan niệm, về thế giới nghệ thuật, không gian thời gian nghệ thuật và về con ngƣời. Phê bình phân tâm học: Trƣơng Tửu và Nguyễn Văn Hanh là những ngƣời đầu tiên vận dụng thuyết phân tâm học của S. Freud, nhƣng sau đó một thời gian dài, phƣơng pháp này không có đất tồn tại bởi ngƣời Việt ta coi việc đề cao bản năng tính dục là cách hạ thấp giá trị con ngƣời. Phải đến thời kì đổi mới, với thái độ cởi mở và tinh thần khoa học khách quan, phân tâm học mới đƣợc nhìn nhận, cụ thể ở Việt Nam đến Đỗ Lai Thúy, phân tâm học mới đƣợc “tái nhập” và khẳng định đƣợc giá trị của nó khi đi khám phá, lý giải về tâm lý sáng tạo của chủ thể. Bằng việc vận dụng thuyết phân tâm học, Đỗ Lai Thúy đã có những khám phá thú vị trong nghiên cứu một số hiện tƣợng văn học gây tranh luận hoặc phức tạp nhƣ Hồ Xuân Hƣơng, Hoàng Cầm, Chế Lan viên. Tuy nhiên, việc vận dụng phƣơng pháp phê bình phân tâm học vào phê bình văn học không hề dễ dàng, đôi khi dễ rơi vào ngộ nhận, áp đặt. Phê bình tiểu sử: Phƣơng pháp này chú trọng nghiên cứu những đặc điểm nổi bật về thân thế, tiểu sử, những biến động trong cuộc đời của tác giả để từ đó cắt nghĩa, lý giải sáng tác của họ. Phê bình tiểu sử luôn lấy con ngƣời để làm minh chứng cho sáng tác (Văn là ngƣời). Ví dụ, khi nghiên cứu Hàn Mặc Tử, Trần Thanh Mại đã khảo cứu hoàn cảnh địa lý, gia đình, cuộc sống nghèo túng, những đau đớn bệnh tật, những đau thƣơng trong đời sống tâm hồn từ những trắc trở tình duyên của nhà thơ để lý giải những tâm tƣ, tình cảm của ông trong từng trang viết. Từ sau năm 1975, có nhiều công trình viết theo phƣơng pháp phê bình tiểu sử học đƣợc chú 13 ý, nổi bật là các công trình nghiên cứu phê bình về tác giả văn học Việt Nam hiện đại nhƣ: “Nhà văn tư tưởng và phong cách”, “Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn”, “Nhà văn hiện đại- chân dung và phong cách” (Nguyễn Đăng Mạnh). Tuy nhiên, phƣơng pháp phê bình này đôi khi quá thiên về tiểu sử, cuộc đời tác giả mà dễ bỏ qua những yếu tố tác động khác bên ngoài vào tác phẩm. Phê bình ngôn ngữ học: Phê bình ngôn ngữ học đƣợc phân chia thành hai nhánh chính là phong cách học và kí hiệu học ( Ngôn ngữ thơ- Nguyễn Phan Cảnh, Ngôn ngữ thơ Việt Nam- Hữu Đạt, Những vấn đề thi pháp của truyện- Nguyễn Thái Hòa, Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học- Nguyễn Lai, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều- Phan Ngọc, Kí hiệu học và phê bình văn họcHoàng Trinh…). Các nhà phê bình ngôn ngữ học lấy đối tƣợng ngôn ngữ làm trung tâm cho việc nghiên cứu và tiếp cận thế giới văn chƣơng của nhà văn. Từ những đặc điểm kí hiệu ngôn ngữ mà định hình phong cách tác giả và đời sống của tác phẩm. Do vậy, không giống nhƣ phê bình tiểu sử mang ít nhiều dấu ấn chủ quan thì phê bình ngôn ngữ học mang dấu ấn khách quan. Việc tiếp cận nhà văn và tác phẩm từ ngôn ngữ học giúp nhà phê bình và độc giả có cái nhìn biện chứng thấu đáo, toàn diện hơn trƣớc các hiện tƣợng văn học. Phê bình mĩ học: Văn học đƣợc nhìn từ góc độ mĩ học, xem văn học nhƣ là một hiện tƣợng thẩm mĩ, vận dụng thƣờng xuyên các phạm trù khái niệm mĩ học vào phê bình văn học ( Hoàng Ngọc Hiến). Nếu nhìn văn học từ góc độ mĩ học thì mỗi nhà phê bình ở góc độ nào đó cũng phải là một nhà mĩ học. Các tác giả tiêu biểu nhất cho khuynh hƣớng phê bình mĩ học phải kể đến nhƣ Lê Ngọc Trà, Đỗ Văn Khang, Hoàng Ngọc Hiến…trong đó một số công trình của Hoàng Ngọc Hiến: Những ngả đường vào văn học (NXB Giáo dục, 2006); Triết lý văn hóa và triết luận văn chương (NXB Giáo dục, 2006) ….luôn lật xới văn học trên nhiều bình diện văn hóa, đạo đức, triết học, mĩ học, giúp tác giả phát hiện ra nhiều vấn đề văn học cực kỳ lý thú trong một lối phê bình sắc sảo, lôi cuốn, mới lạ. Phê bình xã hội học: là phƣơng pháp lấy học thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac làm nền tảng tƣ tƣởng soi chiếu, cắt nghĩa, đánh 14 giá các hiện tƣợng văn học, giải thích văn học bằng các yếu tố/ điều kiện xã hội. Tuy nhiên, phƣơng pháp này thƣờng bỏ qua hoặc xem nhẹ phƣơng diện nghệ thuật của tác phẩm, không quan tâm đúng mức đến bình diện chủ quan và tính tích cực của chủ thể sáng tạo. Do đó, một số nhà phê bình xã hội học thƣờng hay rơi vào quy tắc cứng nhắc, đôi khi bảo thủ, công thức. Sa đà vào phƣơng pháp phê bình này, vô hình trung ta đã không xem tác phẩm văn học nhƣ một hiện tƣợng nghệ thuật mà ngƣợc lại có khi biến tác phẩm trở thành một tài liệu để tìm hiểu, nhìn nhận, đánh giá, lý giải chính xã hội mà nhà văn đang sống, còn bản thân nhà văn không đƣợc nhìn nhận nhƣ một chủ thể sáng tạo mà đƣợc nhìn nhƣ một con ngƣời giai cấp. Nói chung, tất cả các phƣơng pháp phê bình đều không phải là độc tôn hay tối ƣu. Việc phân chia các phƣơng pháp phê bình hoặc việc xếp nhà phê bình vào vị trí phƣơng pháp này hay phƣơng pháp kia cũng chỉ mang tính chất tƣơng đối. Nhìn tổng quan lại phê bình văn học thời kì sau 1986, chúng ta không dừng lại ở các phƣơng pháp phê bình mà còn ở đội ngũ phê bình văn học. Đây là lực lƣợng nòng cốt đƣa phê bình văn học đi đúng quỹ đạo của tiến trình phát triển văn. Trên con đƣờng đi tới hiện đại hóa, phê bình văn học phải hƣớng tới tính chuyên nghiệp. Đội ngũ phê bình chính là ngƣời làm nên tính chuyên nghiệp ấy. Nếu phân chia theo sự phát triển lịch sử văn học thì đội ngũ phê bình đƣợc chia ra trƣớc và sau năm 1975. Trƣớc năm 1975, đội ngũ phê bình văn học đã đƣợc hình thành khá đông đảo và bắt đầu có tính chuyên nghiệp dần, góp phần đáng kể vào việc làm phong phú diện mạo văn học. Có thể kể đến một số nhà phê bình nhƣ Hoài Thanh ( phê bình ấn tƣợng), Hải Triều (phê bình xã hội học Mác xít), Trƣơng Tửu (phê bình phân tâm học), Trần Thanh Mại (phê bình tiểu sử)…Sau năm 1945, do yêu cầu của thời đại, văn học nói chung và phê bình nói riêng phải thực hiện sứ mệnh, nhiệm vụ lịch sử của công cuộc kháng chiến nên văn hóa văn nghệ đi đúng đƣờng hƣớng dƣới sự lãnh đạo của Đảng để phục vụ tối đa cho công cuộc kháng chiến cứu nƣớc. Vì vậy, trong đội ngũ làm phê bình trƣớc hết là những nhà lãnh đạo Đảng (Trƣờng Chinh) hoặc là những vị cán bộ Đảng Cộng sản đƣợc giao nhiệm vụ chỉ đạo mặt trận văn nghệ nhƣ Tố Hữu, Hà Xuân Trƣờng. Đƣơng nhiên, do phụng sự Cách
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất